NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC KẾ TOÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH Ở CÁC
DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
I. Đặc điểm, vai trò và yêu cầu quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp.
1.Khái niệm và đặc điểm TSCĐ
1.1.Khái niệm :
Một bộ phận tư liệu lao động sản xuất giữ vai trò chủ yếu trong quá
trình sản xuất, được coi là cơ sở vật chất kỹ thuật có vai trò cực kỳ quan trọng
trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh đó là các TSCĐ.
Là những tư liệu lao động (TLLĐ) chủ yếu được sử dụng một cách trực
tiếp hay gián tiếp trong quá trình sản xuất kinh doanh như máy móc, thiết bị,
phương tiện vận tải, nhà xưởng, các công trình kiến trúc, các khoản chi phí
đầu tư mua sắm các TSCĐ vô hình ...trong quá trình đó mặc dù TSCĐ bị hao
mòn nhưng nó vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu. Thông thường, khi
TSCĐ bị hỏng thì được sửa chữa khôi phục để kịp thời sản xuất, chỉ khi nào nó
đã bị hao mòn hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt kinh tế thì
nó sẽ được đem đi thanh lý hoặc nhượng bán.
Theo quy định mới nhất số: 166 TC/QĐ/CSTC của Bộ tài chính mọi TLLĐ
là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập, hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ
phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức
năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống
không thể hoạt động được, nếu thoả mãn đồng thời cả hai tiêu chuẩn dưới đây
:
+ Phải có thời gian sử dụng từ 1 năm trở lên
+Có giá trị từ 5.000.000đồng (năm triệu đồng) trở lên
thì được coi là TSCĐ.
Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với
nhau, trong đó mỗi bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu
thiếu một bộ phận nào đó cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt
động chính của nó mà do yêu cầu quản lý, sử dụng tài sản cố định đòi hỏi phải
quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận tài sản đó được coi là một
TSCĐ hữu hình độc lập.
Những TLLĐ không đủ các tiêu chuẩn trên được coi là công cụ lao động
nhỏ, được tính toán và phân bổ dần vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp .
I.2. Đặc điểm TSCĐ.
TSCĐ có những đặc điểm riêng biệt như thời gian sử dụng lâu dài, tham
gia nhiều chu kỳ sản xuất, vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu nhưng
giá trị sử dụng giảm dần cho đến khi hư hỏng phải loại bỏ. Về mặt giá trị :
TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái :
+Một bộ phận giá trị tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật TSCĐ.
+Một bộ phận giá trị TSCĐ chuyển vào sản phẩm và bộ phận này sẽ chuyển
hoá thành tiền khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho
đến khi bằng giá trị ban đầu của TSCĐ khi kết thúc quá trình vận động của
vốn. Như vậy khi tham gia vào quá trình sản xuất nhìn chung TSCĐ không bị
thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất giảm dần tức là nó bị
hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị nó cũng giảm đi.
Bộ phận giá trị hao mòn đó chuyển vào giá trị sản phẩm mà nó sản xuất ra gọi
là trích khấu hao cơ bản, khi TSCĐ tiêu thụ thì phần khấu hao đó chuyển thành
vốn tiền tệ. Theo định kỳ vốn này được tích luỹ lại thành nguồn vốn XDCB để
tái sản xuất TSCĐ khi cần thiết.
2.Vai trò và yêu cầu quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp
2.1.Vai trò TSCĐ trong doanh nghiệp:
Trong lịch sử phát triển nhân loại, các cuộc đại cách mạng công
nghiệp đều tập trung vào giải quyết các vấn đề về cơ khí hoá, điện khí hóa,
tự động hoá của quá trình sản xuất mà thực chất là đổi mới về cơ sở vật
chất kỹ thuật của quá trình sản xuất. Yếu tố quyết định đến sự tồn tại và
phát triển ở các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là uy tín chất
lượng sản phẩm của mình đưa ra thị trường nhưng đó chỉ là biểu hiện bên
ngoài còn thực chất bên trong là các máy móc thiết bị, quy trình công nghệ
sản xuất chế biến có đáp ứng được yêu cầu sản xuất hay không, đó là TSCĐ
là điều kiện quan trọng để tăng năng suất lao động xã hội và phát triển nền
kinh tế quốc dân. Nó thể hiện một cách chính xác nhất năng lực và trình độ
trang bị cơ sở vật chất của mỗi doanh nghiệp. Các TSCĐ được cải thiện đổi
mới và sử dụng có hiệu quả sẽ là một trong những yếu tố quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
2.2.Yêu cầu quản lý TSCĐ
Xuất phát từ đặc điểm trên, TSCĐ phải được quản lý chặt chẽ cả về hiện
vật và giá trị:
- Phải quản lý TSCĐ như là yếu tố cơ bản của sản xuất kinh doanh góp
phần tạo năng lực sản xuất cho đơn vị do đó kế toán phải cung cấp thông tin
về số lượng tài sản hiện có tại đơn vị, tình hình biến động tăng giảm của TSCĐ
trong đơn vị.
- Cung cấp thông tin về các loại vốn đã đầu tư cho tài sản và chi tiết vốn
đầu tư cho chủ sở hữu, phải biết được nhu cầu vốn cần thiết để đầu tư mới
cũng như để sửa chữa TSCĐ .
- Phải quản lý chặt chẽ tình hình hao mòn tức là phải tính đúng, tính đủ
mức khấu hao tích luỹ từng thời kỳ kinh doanh theo mục đích: thu hồi được
vốn đầu tư hợp lý, khoa học để đảm bảo khả năng bù đắp được chi phí và phục
vụ cho việc tái đầu tư TSCĐ
- Quản lý TSCĐ còn là bảo vệ tài sản cho doanh nghiệp không những
đảm bảo cho TSCĐ “sống” mà là “sống có ích” cho doanh nghiệp đồng thời phải
xác định giá trị còn lại của TSCĐ để giúp cho công tác đánh giá hiện trạng
TSCĐ để có phương hướng đầu tư đổi mới TSCĐ.
2.3.Nhiệm vụ hạch toán TSCĐ trong doanh nghiệp:
Để đáp ứng yêu cầu quản lý, kế toán TSCĐ cần thực hiện tốt các nhiệm
vụ sau:
- Tổ chức ghi chép, phản ánh tổng hợp số liệu một cách chính xác, đầy đủ
về số lượng, hiện trạng và giá trị TSCĐ hiện có, tình hình tăng giảm và di
chuyển TSCĐ trong nội bộ doanh nghiệp, việc hình thành và thu hồi các khoản
đầu tư, bảo quản và sử dụng TSCĐ ở doanh nghiệp
- Phản ánh kịp thời giá trị hao mòn TSCĐ trong quá trình sử dụng, tình
hình trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn, tính
toán phân bổ hoặc kết chuyển chính xác số khấu hao và các khoản dự phòng
vào chi phí sản xuất kinh doanh .
- Tham gia lập kế hoạch sửa chữa và dự toán chi phí sửa chữa TSCĐ
phản ánh chính xác chi phí thực tế về sửa chữa TSCĐ .
-Tham gia kiểm kê , kiểm tra định kỳ hay bất thường TSCĐ, đầu tư dài
hạn trong đơn vị , tham gia đánh giá lại tài sản khi cần thiết, tổ chức phân tích
tình hình bảo quản và sử dụng TSCĐ trong đơn vị .
II.Phân loại và đánh giá TSCĐ
1.Phân loại TSCĐ
Phục vụ cho sản xuất kinh doanh, TSCĐ trong doanh nghiệp có nhiều
loại, có đặc điểm khác nhau về tính năng kỹ thuật, kiểu cách, công dụng. Để
thuận lợi cho công tác quản lý và hạch toán TSCĐ cần sắp xếp TSCĐ vào từng
Nhóm theo đặc trưng nhất định, tuỳ theo mục đích quản lý và yêu cầu kế toán
mà chọn những tiêu thức phân loại khác nhau .
1.1.Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện kết hợp với đặc trưng kỹ
thuật.
1.1.1.TSCĐ hữu hình: là những TSCĐ có hình thái vật chất cụ thể gồm các
loạị
Nhà cửa, vật kiến trúc: là TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau
quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, đường xá, cầu cống,
đường sắt ...
- Máy móc, thiết bị : là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị
công tác, dây chuyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ .
- Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải
gồm phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường ống và các
thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện...
- Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị , dụng cụ dùng trong công
tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ
quản lý, thiết bị điện, thiết bị dụng cụ đo lường...
- Vườn cây lâu năm , súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm: là các vườn
cây lâu năm, vườn cà phê , vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cây
xanh, súc vật làm việc hoặc cho sản phẩm như đàn ngựa , voi, bò....
- Các TSCĐ khác : là toàn bộ các tài sản khác chưa liệt kê vào các loại
trên.
1.1.2.TSCĐ vô hình : là những TSCĐ không có hình thái vật chất , thể hiện
một lượng giá trị đã được đầu tư liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh
doanh của doanh nghiệp và được phân loại như sau:
- Quyền sử dụng đất: là giá trị đất, mặt nước, mặt biển hình thành do
phải bỏ chi phí để mua, đền bù, san lấp, cải tạo nhằm mục đích có được mặt
bằng SXKD.
-Chi phí thành lập doanh nghiệp: là các chi phí phát sinh để thành lập
doanh nghiệp như chi phí thăm dò, lập dự án đầu tư, chi phí huy động vốn ban
đầu ...
-Bằng phát minh sáng chế: các chi phí doanh nghiệp phải trả cho các
công trình nghiên cứu, sản xuất thử được nhà nước cấp bằng phát minh, sáng
chế hoặc số tiền doanh nghiệp mua lại bản quyền bằng sáng chế, phát minh.
- Chi phí nghiên cứu , phát triển: là các chi phí doanh nghiệp tự thực hiện
hoặc thuê ngoài thực hiện các công trình có quy mô lớn về nghiên cứu, phát
triển lâu dài cho doanh nghiệp.
-Lợi thế thương mại: là các chi phí tính thêm ngoài giá trị các TSCĐ hữu
hình gắn liền do có thuận lợi về vị trí thương mại, sự tín nhiệm với bạn hàng
hoặc danh tiếng của doanh nghiệp.
-TSCĐ khác : bao gồm các loại TSCĐ vô hình khác chưa được quy định
phản ánh ở trên như : quyền đặc nhượng, quyền thuê nhà, bản quyền tác giả,
quyền sử dụng hợp đồng, độc quyền nhãn hiệu hoặc tên hiệu...
Cách phân loại này giúp doanh nghiệp có các biện pháp quản lý tài sản ,
phương pháp khấu hao và tính toán khấu hoa khoa học, hợp lý đối với từng
loại, nhóm TSCĐ. Ngoài ra còn giúp cho người quản lý có một cái nhìn tổng thể
về cơ cấu đầu tư của doanh nghiệp để có các quyết định đầu tư phù hợp tình
hình thực tế.
1.2.Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu:
-TSCĐ tự có là các TSCĐ được xây dựng, mua sắm và hình thành từ
nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên
doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các TSCĐ được biếu tặng ...Đây là những
TSCĐ thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp và được phản ánh trên Bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp.
-TSCĐ thuê ngoài là TSCĐ đi thuê để sử dụng trong một thời gian nhất
định theo hợp đồng thuê tài sản. Tuỳ theo điều khoản của hợp đồng thuê mà
TSCĐ đi thuê được chia thành TSCĐ thuê tài chính và TSCĐ thuê hoạt động .
+TSCĐ thuê tài chính: là các TSCĐ đi thuê nhưng doanh nghiệp có quyền
kiểm soát và sử dụng lâu dài theo các điều khoản của hợp đồng thuê. Theo
thông lệ Quốc tế, các TSCĐ được gọi là thuê tài chính nếu thoả mãn một trong
các điều kiện sau đây:
1.Quyền sở hữu TSCĐ thuê được chuyển cho bên đi thuê khi hết hạn hợp
1.Quyền sở hữu TSCĐ thuê được chuyển cho bên đi thuê khi hết hạn hợp
đồng .
đồng .
2.Hợp đồng cho phép bên đi thuê được lựa chọn mua TSCĐ thuê với giá
2.Hợp đồng cho phép bên đi thuê được lựa chọn mua TSCĐ thuê với giá
thấp hơn giá thực tế của TSCĐ thuê tại thời điểm mua lại.
thấp hơn giá thực tế của TSCĐ thuê tại thời điểm mua lại.
3.Thời hạn thuê theo hợp đồng ít nhất phải bằng 3/4(75%) thời gian hữu
3.Thời hạn thuê theo hợp đồng ít nhất phải bằng 3/4(75%) thời gian hữu
dụng của TSCĐ thuê.
dụng của TSCĐ thuê.
4.Giá trị hiện tại của khoản chi theo hợp đồng ít nhất phải bằng 90% giá trị
4.Giá trị hiện tại của khoản chi theo hợp đồng ít nhất phải bằng 90% giá trị
của TSCĐ thuê.
của TSCĐ thuê.
TSCĐ thuê tài chính cũng được coi như TSCĐ của doanh nghiệp, được
phản ánh trên Bảng cân đối kế toán và doanh nghiệp có trách nhiệm quản lý,
sử dụng và trích khấu hao như các TSCĐ tự có của doanh nghiệp.
+TSCĐ thuê hoạt động: là TSCĐ thuê không thoả mãn bất cứ điều khoản
nào của hợp đồng thuê tài chính. Bên đi thuê chỉ được quản lý, sử dụng trong
thời hạn hợp đồng và phải hoàn trả cho bên cho thuê khi kết thúc hợp đồng.
Ngoài các cách phân loại nói trên, trong kế toán quản trị còn có các cách
phân loại TSCĐ khác nhằm đáp ứng các yêu cầu quản trị cụ thể của doanh
nghiệp như phân loại TSCĐ theo công dụng kinh tế, phân loại TSCD theo tình
hình sử dụng.
2.Đánh giá TSCĐ
Đánh giá TSCĐ là việc xác định giá trị ghi sổ của TSCĐ tại từng thời
điểm nhất định. Xuất phát từ đặc điểm và yêu cầu quản lý TSCĐ trong quá
trình sử dụng, TSCĐ được đánh giá theo nguyên giá, giá trị hao mòn, giá trị
còn lại
2.1.Nguyên giá TSCĐ
Nguyên giá TSCĐ (còn gọi là giá trị ghi sổ ban đầu) là toàn bộ các chi phí
bình thường và hợp lý mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có tài sản đó và đưa
TSCĐ đó vào quá trình hoạt động.
Như vậy, nguyên giá TSCĐ được đánh giá theo nguyên tắc giá phí (mua
hoặc tự sản xuất), bao gồm toàn bộ các chi phí liên quan đến mua hoặc xây
dựng, chế tạo, kể cả các chi phí vận chuyển lắp đặt, chạy thử và các chi phí hợp
lý, cần thiết khác trước khi sử dụng, cụ thể là:
Nguyên giá = Giá mua + Thuế nhập khẩu (nếu có) + Chi phí vận chuyển, lắp đặt
, chạy thử trước khi sử dụng - Số tiền giảm giá (nếu có)
Các chi phí sau đây thường không được tính vào nguyên giá TSCĐ (trừ phí có
liên quan trực tiếp đến việc đưa TSCĐ vào sử dụng):
-Chi phí khởi công .
-Chi phí chung và chi phí hành chính
Trong trường hợp mua TSCĐ thanh toán chậm, có phát sinh lãi về tín
dụng (như trường hợp thuê mua TSCĐ ), nguyên tắc xác định nguyên giá TSCĐ
là giá trị hiện tại hoá còn phần chênh lệch (tiền lãi tín dụng) được tính vào chi
phí trả trước trong suốt thời hạn tín dụng. Tuy vậy, chuẩn mực kế toán Quốc tế
23 cho phép vốn hoá lãi tín dụng vào giá phí TSCĐ
-Trường hợp TSCĐ do doanh nghiệp tự xây dựng, chế tạo để sử dụng :
Nguyên giá TSCĐ cũng được xác định theo những nguyên tắc giống như
trường hợp xác định nguyên giá của TSCĐ được mua sắm bao gồm toàn bộ các
chi phí liên quan đến sản xuất, xây dựng hay chế tạo tài sản đó. Tiền lãi trên
các khoản vay dùng vào đầu tư TSCĐ cũng có thể được tính vào nguyên giá
(chuẩn mực 23).
Nguyên giá TSCĐ nhận góp liên doanh, liên kết : là giá trị thoả thuận giữa
các bên liên doanh cộng (+) với chi phí vận chuyển, lắp đặt, chạy thử (nếu có)
Nguyên giá TSCĐ được cấp là giá ghi trong “Biên bản bàn giao TSCĐ” của
đơn vị cấp và các chi phí lắp đặt, chạy thử (nếu có)
-Nguyên giá TSCĐ được biếu tặng, viện trợ : là giá được tính toán trên cơ
sở giá thị trường của TSCĐ đó hoặc TSCĐ tương đương .
Kế toán TSCĐ phải triệt để tôn trọng nguyên tắc ghi theo nguyên giá.
Nguyên giá của từng đối tượng TSCĐ trên sổ và báo cáo kế toán chỉ được xác
định một lần khi tăng TSCĐ và không thay đổi trong suốt thời gian tồn tại của
TSCĐ ở doanh nghiệp, trừ các trường hợp sau :
+ Đánh giá lại TSCĐ
+ Xây dựng, trang bị thêm TSCĐ
+ Cải tạo, nâng cấp làm tăng năng lực hoạt động và kéo dài tuổi thọ của
TSCĐ
+ Tháo dỡ bớt các bộ phận làm giảm nguyên giá TSCĐ
2.2.Đánh giá theo giá trị đã hao mòn
Trong quá trình sử dụng và bảo quản TSCĐ bị hao mòn do đó hao mòn
TSCĐ là một tất yếu khách quan trong quá trình sử dụng, nó làm giảm giá trị
và giá trị sử dụng TSCĐ. Phần giá trị của TSCĐ tương ứng với mức hao mòn
đó được tính như một khoản chi phí và được ghi nhận vào giá thành sản
phẩm, chi phí kinh doanh để thu hồi lại vốn đầu tư ban đầu. Quá trình ghi
nhận giá trị giảm dần đó của TSCĐ trong mỗi năm sử dụng được gọi là khấu
hao TSCĐ. Sau khi sản phẩm, hàng hoá được tiêu thụ số tiền khấu hao được
trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao TSCĐ
*Các phương pháp khấu hao TSCĐ
Có nhiều phương pháp khấu hao TSCĐ được áp dụng rộng rãi và phổ biến
trên thế giới, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, các
doanh nghiệp Việt nam hiện nay chủ yếu áp dụng một phương pháp - phương
pháp khấu hao bình quân (phương pháp khấu hao tuyến tính )
Phương pháp này là bắt buộc đối với các doanh nghiệp nhà nước theo Quyết
định 166 BT- BTC ban hành ngày 30/12/1999 thay cho Quyết định 1062 ban
hành ngày 14/11/1996.
-Phương pháp khấu hao(KH) tuyến tính
KH bình quân năm = nguyên giá TSCĐ tỷ lệ khấu hao
1
Tỷ lệ khấu hao = 100%
Số năm sử dụngTSCĐ
KH bình quân năm
KH bình quân tháng =
12 tháng
Do khấu hao TSCĐ được tính vào ngày 1 hàng tháng nên để đơn giản
cho việc tính toán thì kế toán quy định những TSCĐ tăng(hoặc giảm) trong
tháng này thì bắt đầu từ tháng sau mới tính khấu hao (hoặc thôi không tính
khấu hao nữa) vì thế số khấu hao giữa các tháng chỉ khác nhau có sự biến
động về tăng giảm TSCĐ
Số KHTSCĐ phải trích tháng này = Số KHTSCĐ đã trích tháng trước + Số
Số KHTSCĐ phải trích tháng này = Số KHTSCĐ đã trích tháng trước + Số
KHTSCĐ tăng trong tháng này - Số KHTSCĐ giảm trong tháng này.
KHTSCĐ tăng trong tháng này - Số KHTSCĐ giảm trong tháng này.
Ngoài cách tính KH theo thời gian như trên thì nước ta còn tính KHTSCĐ theo
sản lượng. Công thức tính:
Mức KHTSCĐ phải trích trong tháng = Sản lượng thực tế mức KH bình quân
trên 1 đơn vị sản lượng
Mức KH bình quân (Nguyên giá - Giá trị tận dụng (nếu có))
trên 1 đơn vị sản lượng Sản lượng tính theo công suất thiết kế (ước tính)
-Phương pháp KH nhanh theo số dư giảm dần (phương pháp KH theo giá trị
ghi sổ còn lại)
Tỷ lệ KH nhanh = 2 tỷ lệ KH trung bình
Mức KHTSCĐ phải tính hàng năm = tỷ lệ KH nhanh giá trị ghi sổ còn lại của
TSCĐ
-Phương pháp KH nhanh theo tổng các số năm : Theo phương pháp này năm
hữu dụng của TSCĐ được cộng lại với nhau tổng của chúng trở thành mẫu số
của dãy các tỷ số được dùng để phân bổ tổng mức KH cho các năm trong thời
gian hữu dụng của TSCĐ. Tử số của các tỷ số này là số thứ tự của năm hữu
dụng của TSCĐ theo thứ tự ngược lại :
Tổng dãy số tự nhiên của năm hữu dụng TSCĐ = n(n+1) / 2 .
2.3.Đánh giá theo giá trị còn lại của TSCĐ
Giá trị còn lại (còn gọi là giá trị kế toán) của TSCĐ là hiệu số giữa
nguyên giá TSCĐ và số khấu hao luỹ kế
Giá trị còn lại = Nguyên giá - Khấu hao luỹ kế
Trường hợp nguyên giá TSCĐ được đánh giá lại thì giá trị còn lại của
TSCĐ cũng được xác định lại.
Thông thường, giá trị còn lại của TSCĐ sau khi đánh giá lại được điều
chỉnh theo công thức:
Giá trị còn lại của Giá trị còn lại Giá trị đánh giá lại của TSCĐ
TSCĐ sau khi của TSCĐ
đánh giá lại đánh giá lại Nguyên giá của TSCĐ
Ngoài phương pháp chuẩn nói trên, ở chuẩn mực 16 còn quy định phương
pháp thay thế được chấp nhận:
Giá trị còn lại = Giá trị đánh giá lại - Khấu hao luỹ kế
III. Kế toán TSCĐ tại các doanh nghiệp theo chế độ hiện hành.
1.Kế toán chi tiết TSCĐ:
Kế toán chi tiết TSCĐ là công việc không thể thiếu được trong quản lý
TSCĐ ở doanh nghiệp. TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật quan trọng đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh trong các doanh nghiệp, do đó cần phải quản lý chặt
chẽ và phát huy được hiệu quả cao nhất trong quá trình sử dụng TSCĐ, vì vậy
trong công tác quản lý cần phải thực hiện các yêu cầu sau:
-Nắm chắc được toàn bộ TSCĐ hiện có đang sử dụng ở doanh nghiệp cả
về hiện vật và giá trị .
-Nắm được tình hình sử dụng TSCĐ trong bộ phận của doanh nghiệp .
Tổ chức công tác kế toán chi tiết TSCĐ trong DN bao gồm các công việc đánh số
hiệu TSCĐ và thực hiện kế toán chi tiết TSCĐ ở bộ phận kế toán các địa điểm
sử dụng
1.Đánh số: là quy định cho mỗi TSCĐ số hiệu tương ứng theo những nguyên
tắc nhất định. Nhờ có đánh số TSCĐ mà thống nhất được giữa các bộ phận liên
quan trong việc theo dõi và quản lý sử dụng TSCĐ theo các chỉ tiêu quản lý tiện
cho tra cứu khi cần thiết cũng như tăng cường trách nhiệm vật chất của các
đơn vị và cá nhân trong khi bảo quản và sử dụng TSCĐ.
Trong thực tế có nhiều cách quy định đánh số hiệu TSCĐ :
-Có thể dùng chữ số la mã, chữ số ký hiệu loại, chữ cái làm ký hiệu nhóm
và kèm theo một số thứ tự để chỉ đối tượng TSCĐ.
-Mỗi loại TSCĐ được dành riêng một dãy chữ số nhất định trong dãy số
tự nhiên.
2.Kế toán chi tiết TSCĐ ở bộ phận kế toán
*Chứng từ kế toán:
Để tạo cơ sở pháp lý chắc chắn cho mọi số liệu của kế toán trong quá
trình hạch toán nói chung và kế toán TSCĐ nói riêng, chế độ kế toán DN đã quy
định thống nhất về chứng từ sử dụng trong toàn bộ nền kinh tế.
Đối với chứng từ bắt buộc như: “Biên bản giao nhận TSCĐ”, “Thẻ TSCĐ”,
“Biên bản đánh giá lại TSCĐ”, nhà nước hướng dẫn các chỉ tiêu đặc trưng , DN
trên cơ sở đó vận dụng vào từng trường hợp cụ thể thích hợp.
*Sổ kế toán :
Các DN tuỳ theo hình thức kế toán áp dụng để mở ra các sổ kế toán cần
thiết . Nhưng việc tổ chức sổ kế toán phải đảm bảo nguyên tắc với các sổ tổng
hợp kế toán. TSCĐ phải mở đúng mẫu của Bộ tài chính quy định. Còn sổ chi
tiết TSCĐ tuỳ theo yêu cầu quản lý hạch toán của DN để thiết kế mẫu sổ cho
phù hợp nhưng phải đảm bảo những nội dung cơ bản theo quy định.
*Nội dung kế toán chi tiết:
Bộ phận kế toán căn cứ và chứng từ mở thẻ TSCĐ, thẻ TSCĐ được mở
cho từng đối tượng ghi TSCĐ để theo dõi chi tiết từng TSCĐ của đơn vị, tình
hình thay đổi nguyên giá và giá trị hao mòn đã trích từng năm của TSCĐ .
Đồng thời để quản lý chi tiết từng TSCĐ riêng biệt, cũng như từng bộ
phận sử dụng và người chịu trách nhiệm vật chất, kế toán còn mở hệ thống kế
toán sổ chi tiết gồm “sổ TSCĐ” dùng để theo dõi toàn bộ TSCĐ trong từng DN
và sổ TSCĐ theo dõi đơn vị sử dụng.