Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.14 KB, 15 trang )

CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ
I. Khái niệm và sự cần thiết phải nghiên cứu TTQT
1.Khái niệm về thanh toán quốc tế.
Chúng ta đều hiểu rằng , ngày nay mỗi quốc gia đều có quan hệ không
nhiều thì ít với các quốc gia khác vì nhu cầu cuộc sống và phát triển kinh tế.
Đòi hỏi của con người đã làm cho trao đổi ngày càng mở rộng khắp thế giới.
1.1
Khái niệm về thanh toán quốc tế.
Chúng ta đều biiết rằng, ngày nay mỗi quốc gia đều có quan hệ không ít
thì nhiều với các quốc gia khác vì nhu cầu cuộc sống và phát triển thị
trường. Đòi của con người đã làm cho trao đổi ngày càng mở rộng khắp thế
giới. Quá trình trao đổi này kéo theo hai loại quan hệ: 1> quan hệ thanh toán
trực tiếp giữa người mua và kẻ bán, 2> quan hệ thanh toán gián tiếp giữa
các quốc gia. Vì những quan hệ thanh toán này vượt qua biên giới, người ta
gọi đó là thanh toán quốc tế.
Vậy: Khi biên giới hữu hình giữa các quốc gia còn tồn tại thì mọi hoạt
động thanh toán, chuyển, nhượng tiền, tài sản giữa một nước với các nước
khác trên thế giới được gọi là thanh toán quốc tế (TTQT).
1.2
Tính bức xúc và cần thiết của hệ thống TTQT trong ngoại thương.
Không phải đợi đến khi thế giới nhất thể hoá thành một cộng đồng, nhu
cầu tồn tại và phát triển tốt hơn cho con người đã thúc đẩy các nước phải có
quan hệ buôn bán, đầu tư và liên kết với nhau. Do vậy, TTQT giữa các nước
là điều kiện tất yếu.
Suy cho cùng, mục tiêu phấn đấu thiết lập cơ sở chung cho các đồng
tiền từ đầu thế kỷ đến nay như hệ thống tiền tệ thế giới và các thiết chế tài
chính đa quốc gia là nhằm hỗ trợ cho quá trình TTQT giữa các nước trên thế
giới.
Từ điều kiện khách quan cho đến chủ quan đều phản ánh rõ TTQT là
rất cần thiết. Thương mại nói riêng và nền kinh tế nói chung đều liên quan
đến TTQTđể hội nhập và cùng phát triển với kinh tế các nước trên thế giới.


Đó là điều kiện để phát triển và hội nhập cùng kinh tế khu vực và thế giới,
cùng với các tổ chức kinh tế tạo sức mạnh cho kinh tế đối ngoại và ngoại
thương lên một bước tiến mới.
1.3
Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TTQT trong ngoại thương.
Giữa các quốc gia, ngoại tệ là tài sản dự trữ dùng để đối thoại với nước
ngoài. Cho nên việc lưu chuyển ra vào của loại tiền tài sản này được chính
phủ theo dõi. Quá trình theo dõi nói rtên làm cho việc buôn bán với nước
ngoài được thể hiện trên sổ sách quốc gia. Loại sổ sách mà quốc gia dùng để
thể hiện các luồng thanh toán và trả nợ giữa người trong nước và ngoài
nước được gọi là cán cân thanh toán.
Các nhân tố được phản ánh trên cán cân thanh toán đồng thời cho ta
thấy sự ảnh hưởng và sự tác động đến sự biến động của TTQT.
Tài khoản vãng lai.
Tài khoản vốn.
Tài khoản dự trữ chính thức.
- Tài khoản vãng lai:bao gồm xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá dịch vụ.
- Tài khoản vốn: bao gồm mua, bán các tài sản như cổ phần, trái phiếu, tài
khoản ngân hàng, bất động sản và doanh nghiệp.
- Tài khoản dự trữ chính thức: bao gồm mua bán tài sản dự trữ quốc gia,
ngoại tệ, vàng và quyền rút vốn đặc biệt (SDRs).
Thương mại quốc tế là sự xuất nhập khẩu hàng hoá hữu hình như dầu
mỏ, quần áo, xe hơi... đều phản ánh hoạt động thanh toán thông qua các
phương tiện thanh toán quốc tế. Dịch vụ cũng thuộc nhóm tài khoản vãng
lai, bao gồm các khoản phải thanh toán và các khoản được thanh toán về cố
vấn, luật pháp, dịch vụ kỹ thuật, bản quyền, bằng phát minh và tài sản tri
thức, tiền đóng bảo hiểm, phí vận chuyển, chi tiêu du lịch. Các khoản thương
mại mang hình thái dịch vụ này thường được gọi là thương mại vô hình.
Đồng thời, yếu tố thu nhập cũng bao quát những khoản thanh toán và khoản
được trả từ tiền lãi, cổ tức đến tất cả những thu nhập khác từ đầu tư ở nước

ngoài.
Tài khoản vốn gồm 3 nhóm: đầu tư trực tiếp, đầu tư chứng khoán và
vốn khác.
Cán cân vốn đo lường chênh lệch giữa bán tài sản cho người nước ngoài và
mua tài sản từ nước ngoài. Không giống như mua bán hàng hoá và dịch vụ,
mua bán tài sản tài chính ảnh hưởng đến những khoản thanh toán và nhận
được trong tương lai do đầu cơ về vốn.
Tài sản dự trữ chính thức đó là những khoản mà một quốc gia phải chi
trả để thanh toán cho người nước ngoài vì thâm hụt cán cân thanh toán,
ngân hàng trung ương của quốc gia đó nên giảm bớt tài sản dự trữ chính
thức như vàng, ngoại tệ, SDRs, hoặc vay ngân hàng trung ương nước khác.
Ngược lại, nếu quốc gia có thặng dư trên cán cân thanh toán, ngân hàng
trung ương nước đó sẽ trả nợ nước ngoài hoặc tăng thêm tài sản dự trữ.
Tóm lại, mọi vấn đề đều tập trung để cân bằng cán cân thanh toán
trong mỗi quốc gia khi tham gia và hội nhập với kinh tế các nước để có sự
phát triển hài hoà và nhịp nhàng. Tài khoản vốn và tài khoản vãng lai ảnh
hưởng trực tiếp đến hệ thống thanh toán quốc tế trong ngoại thương. Đồng
thời hai tài khoản trên càng phát triển bao nhiêu thì thanh toán quốc tế
càng phát triển, tài khoản dự trữ chính thức dưới tác động của chính phủ
ảnh hưởng tới hệ thống thanh toán khi sự phát triển không cân đối của nền
kinh tế đặc biệt là kinh tế đối ngoại và ngoại thương.
2. Các phương tiện thanh toán thông dụng trong ngoại thương.
Các phương tiện lưu thông tín dụng (hối phiếu, kỳ phiếu, séc) được
dùng làm phương tiện thanh toán quốc tế hình thành trên cơ sở của sự phát
triển tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng, có vai trò rất quan trọng
trong thanh toán quốc tế. Trong thời đại hiện nay, quy mô phát triển cực kỳ
rộng lớn của các nghiệp vụ cho vay, các phương tiện lưu thông tín dụng đã
trở thành vật mang hình thái tiền tệ đặc thù. Khác với tiền kim loại mang
đầy đủ giá trị, các phương tiện lưu thông tín dụng không có giá trị nội tại
mà nó chỉ là dấu hiệu của tiền tệ mà thôi. Tiền thật là do Nhà nước phát

hành còn phương tiện lưu thông tín dụng phần lớn là do kết quả của hợp
đồng mua bán hàng hoá và các nghiệp vụ của ngân hàng tạo ra.
2.1 Hối phiếu (Bill of exchange)
Thương phiếu là công cụ thanh toán quốc tế thông dụng. Thương phiếu
bao gồm hai loại: hối phiếu và kỳ phiếu trong đó hối phiếu được sử dụng
rộng rãi hơn.
a-Khái niệm và đặc trưng của hối phiếu.
Hối phiếu là một tờ mệnh lệnh trả tiền vô điều kiện do một người ký
phát cho người khác, yêu cầu của người này khi nhìn thấy phiếu, hoặc đến
một ngày cụ thể nhất định, hoặc đến một ngày có thể xác định trong tương
lai phải trả một số tiền nhất định cho một người nào đó hoặc theo lệnh của
người này trả cho người khác hoặc trả cho người cầm phiếu.
Qua khái niệm cho thấy, hối phiếu có ba đặc điểm quan trọng:
-Tính trừu tượng của hối phiếu : Trên hối phiếu không cần phải ghi nội dung
quan hệ tín dụng, tức là nguyên nhân sinh ra hối phiếu mà chỉ ghi số tiền
phải trả với nội dung liên quan tới việc trả tiền. Do đó nghĩa vụ trả tiền của
hối phiếu là trừu tượng.
-Tính bắt buộc trả tiền của hối phiếu : Người trả tiền hối phiếu phải trả tiền
theo đúng nội dung ghi trên hối phiếu.
-Tính lưu thông của hối phiếu : hối phiếu có thể được chuyển nhượng một
hay nhiều lần trong thời hạn của nó.
b- Điều kiện thành lập hối phiếu :
-Về mặt hình thức quy định:
+ Hối phiếu làm thành văn bản (bắt buộc).
+Hình mẫu hối phiếu không quyết định giá trị pháp lý của hối phiếu .
+Ngôn ngữ tạo lập hối phiếu là ngôn ngữ viết hoặc in sẵn, đánh máy bằng
một thứ tiếng nhất định và thống nhất.
+Hối phiếu lập thành một hay nhiều bản, mỗi bản đều đánh số thứ tự, các
bản đều có giá trị như nhau. Bản nào đến trước thì thanh toán trước, bản
nào đến sau thì vô giá trị.

-Về nội dung:
+ Tiêu đề của hối phiếu: “Hối phiếu”.
+ Địa đIểm ký phát hối phiếu: địa điểm ký phát hoặc địa chỉ người ký.
+ Ngày tháng ký phát: xác định thời gian trả tiền của hối phiếu.
2.2Séc (Cheque)
a.
Khái niệm chung.
Séc là một tờ mệnh lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản, ra lệnh cho
ngân hàng trích từ tài khoản của mình để trả cho người có tên trong séc,
hoặc trả cho người cầm séc một số tiền nhất định, bằng tiền mặt hay bằng
chuyển khoản.
Đối với người có tiền mở tại ngân hàng một tài khoản, ngân hàng sẽ cấp
cho người gửi tiền một quyển séc. Mỗi lần muốn rút tiền thì viết một tờ séc
đưa đến ngân hàng để lĩnh tiền.
b.
Đặc điểm của séc
-Tính thời hạn: tức là tờ séc chỉ có giá trị tiền tệ hoặc thanh toán nếu
thời hạn hiệu lực của nó chưa hết đối với séc thương mại. Thời hạn hiệu lực
của tờ séc được ghi rõ trên tờ séc. Thời hạn đó tuỳ thuộc vào phạm vi không
gian mà séc lưu hành và luật pháp của các nước quy định. Nói chung séc lưu
hành trong nội địa thời gian ngắn hơn lưu hành trong TTQT.
Séc dùng để trả tiền ngay, thời hạn hiệu lực của séc là 8 ngày làm việc
kể từ ngày phát hành séc nếu là séc lưu hành trong một nước, là 20 ngày
làm việc nếu lưu thông ngoài nước trong cùng một châu lục, là 70 ngày nếu
séc được trả ở một nước ngoài châu lục.Quá thời hạn trên nếu séc quay trở
lại ngân hàng thì séc sẽ mất hiệu lực. Đối với séc du lịch thì không kể thời
gian.
c.
Séc có giá trị thanh toán trực tiếp như tiền tệ, do vậy séc phải có
những quy định về hình thức và nội dung theo luật định:

-
Về nội dung:
. Một lệnh trả tiền muốn được coi là séc thì trước tiên phải có tiêu đề
SEC ghi trên tờ lệnh đó. Vì séc là lệnh nên khi nhận dược séc thì phải chấp
hành lệnh này vô điiêù kiện, trừ trường hợp tài khoản phát hành séc không
có tiền hoặc tờ séc không đủ tính pháp lý.
. Số tiền ghi trên séc phải rõ ràng, phải ghi bằng số và ghi bằng chữ
phải khớp đúng nhau, có ký hiệu tiền tệ. Trên séc phải ghi rõ địa điểm và
ngày tháng lập séc, tên địa chỉ của người yêu cầu trích tài khoản, tài khoản
được trích trả, ngân hàng trả tiền, tên địa chỉ người hưởng số tiền trên séc,
chữ ký của người phát hành séc (nếu là tổ chức thì phải có chữ ký của người
có tài khoản, kế toán trưởng và dấu của tổ chức đó).
Tất cả các yếu tố trên cần phải ghi rõ ràng, không tẩy xoá, ghi cùng loại
chữ, một thứ mực, không ghi bằng mực đỏ. Điều cơ bản quan trọng là người
phát hành séc phải có tiền mở ở ngân hàng, số tiền trên tờ séc không vượt
quá số dư trên tài khoản ở ngân hàng.

×