Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tieu luan cao hoc triet, bản thể luận trong triết học hy lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.54 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý chọn tiểu luận
Triết học ra đời khoảng thế kỷ VIII đến VI trước Công nguyên. Theo
tiếng Hy Lạp cổ, Triết học được ghép bởi hai từ “Philos” (tình yêu) và
“Sophia” (sự thông thái). Theo nghĩa đen, Triết học là tình yêu đối với sự
thông thái. Người Trung Quốc hiểu Triết học là sự hiểu biết sâu sắc; người Ấn
Độ hiểu Triết học là con đường suy ngẫm để đưa con người đến lẽ phải. Ngày
nay, Triết học được hiểu là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người
về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học là hạt
nhân lý luận của thế giới quan, phương pháp luận; là kết tinh tinh thần của
thời đại lịch sử. Mỗi thời đại lịch sử loài người đều sản sinh ra một số nhà tư
tưởng, mỗi cá nhân nhà tư tưởng đó đều khám phá ra một số căn nguyên hay
để lại cho thế hệ mình và thế hệ sau những tư tưởng có giá trị mà thế hệ sau
căn cứ vào đó có thể kế thừa hoặc phản biện những và tạo ra hệ thống lý luận
cho mình.
Nghiên cứu các thời đại từ cổ đại đến hiện đại, ở mỗi thời đại đều có
nhiều quan niệm về bản thể luận. Nghiên cứu các thời đại lịch sử bản thể luận
không chỉ đem lại cho chúng ta bức tranh về tiến trình phát triển của bản thân
triết học, mà còn cho phép chúng ta nhận thấy sự kế tiếp, phản biện nhau
trong công cuộc khám phá và cải tạo thế giới nhằm phục vụ cho chính nhu
cầu phát triển của loài người.
Loài người hình thành và phát triển ngày càng cao sẽ nảy sinh những nhu
cầu ngày càng cao, trong những nhu cầu đó, có nhu cầu về nguồn gốc của
những hiện tượng, sự vật xảy ra xung quanh họ, nguồn gốc của thế giới mà
loài người đang sống. Sự khởi điểm của những quan niệm về bản thể luận
trong lịch sử loài người trong thời cổ đại còn đơn giản, chất phác nhưng có
vai trò rất lớn. Có thể thấy, những quan niệm giải thích về nguồn gốc của thế
giới thời Hy Lạp cổ đại nếu đem xét ở thời đại hiện nay thì tưởng chừng như


không giá trị, vì dưới vai trò của giáo dục con người có thể dễ dàng nhận thức


được những vấn đề về nguồn gốc tưởng chừng như đơn giản đó, nhưng ở thời
cổ đại đó là những bước tiến, những phát minh, những sáng kiến lớn.
Có thể khẳng định rằng, vấn đề bản thể luận có một vai trò to lớn đối với
hệ thống tri thức triết học, nó quyết định lập trường tư tưởng triết học, đặc thù
của mỗi trường phái và quan trọng hơn đó là đặc thù của quan niệm triết học
với các quan niệm của ngành, bộ môn khoa học khác đó là những quan niệm
chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy.
Trong lịch sử Triết học, triết học phương Đông trong đó nổi bật lên Triết
học Ấn Độ và Triết học Trung Quốc thì các triết gia không bàn nhiều về vấn
đề bản thể luận nhưng trong Triết học phương Tây, đặc biệt là Triết học Hy
Lạp cổ đại, các triết gia rất quan tâm nghiên cứu vấn đề bản thể luận. Đây
chính là hạt nhân cho việc hình thành thế giới quan đúng đắn của Triết học
Mác. Để hiểu rõ hơn lịch sử nghiên cứu bản thể luận, tôi chọn “Bản thể luận
trong triết học Hy Lạp cổ đại” làm đề tài phục vụ cho bài tiểu luận giữa kỳ
môn Triết học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan
Quan niệm về vấn đề bản thể luận trong triết học Hy Lạp cổ đại có vai
trò quan trọng. Ở Việt Nam có nhiều tác giả nghiên cứu vấn đề này, nhiều
công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến bản thể luận trong triết học đã
được công bố, cụ thể như sau:
+ Tác giả Nguyễn Tiến Dũng: Lịch sử Triết học phương Tây, NXB Tông
hợp TP Hồ Chí Minh.
+ Nguyễn Hóa: Triết học cổ Hy Lạp giảng yếu, NXB Thanh niên.
+ Đỗ Minh Hợp: Vấn đề bản thể luận trong một số trào lưu Triết học
phương Tây, Luận án Tiến sĩ.
+ Bùi Văn Hóa: Triết học phương Tây, Đại Học Khoa học xã hội và nhân
văn…
2



3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu của tiểu luận là hệ thống hóa, phân tích và đánh giá các quan
niệm về bản thể luận trong triết học Hy Lạp cổ đại.
Để đạt được mục tiêu trên, tiểu luận cần giải quyết những nhiệm vụ cụ
thể sau:
Thứ nhất, phân tích khái niệm bản thể luận; khái quát đặc điểm, điều
kiện kinh tế xã hội thời kì Hy Lạp cổ đại, chỉ ra sự tác động của những điều
kiện đó đối với nhận thức của các nhà triết học Hy Lạp thời kỳ cổ đại;
Thứ hai, phân tích quan niệm bản thể luận của những nhà triết học theo
các trường phái triết học khác nhau.
Thứ ba, chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm của những quan niệm bản
thể luận của các triết gia Hy Lạp thời kì cổ đại.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của tiểu luận là bản thể luận trong triết học Hy
Lạp thời kì cổ đại.
Phạm vi nghiên cứu của tiểu luận là nội dung các quan niệm của các triết
gia tiêu biểu Hy Lạp cổ đại.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: nghiên cứu tài liệu, phân tích.
6. Kết cấu
+ Tiểu luận gồm 3 phần: Mở đầu, nội dung, kết luận.
+ Danh mục tài liệu tham khảo.

3


NỘI DUNG
Chương 1

BẢN THỂ LUẬN VÀ HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA BẢN THỂ
LUẬN TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.1. Khái niệm bản thể luận
Thuật ngữ “Bản thể luận” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp. Nó là sự kết
hợp giữa hai từ “on” (cái thực tồn) và “logos” (học thuyết về tồn tại). Theo
nghĩa này, bản thể luận được hiểu là học thuyết triết học về thực tồn nói
chung, hoàn toàn độc lập với các dạng tồn tại cụ thể của nó. Ở thời kỳ đó, bản
thể luận chưa được sử dụng với tư cách là một khái niệm mà mới chỉ xuất
hiện những tư tưởng về nó; chỉ đến thế kỷ XVII, thuật ngữ này mới chính
thức xuất hiện và đưa ra những cách hiểu đặc thù về nó.
Thuật ngữ “bản thể luận” xuất hiện lần đầu tiên trong tác phẩm Lexicon
philosophicum (Bách khoa thư triết học) của triết gia R.Goclenius được xuất
bản năm 1613. Sau đó, thuật ngữ bản thể luận cũng đã xuất hiện trong các tác
phẩm của A.Calovius xuất bản năm 1636 và của J.B. du Hamel xuất bản năm
1687. Năm 1656, J.Clauberg cũng đã sử dụng thuật ngữ này trong “Siêu hình
học” được xuất bản tại Amsterdam. Thuật ngữ này được phổ biến rộng rãi
trong triết học sau khi C. C.Wolff sử dụng nó để chỉ một bộ phận căn bản của
siêu hình học, bên cạnh vũ trụ luận, tâm lý học và thần học. Tuy nhiên tư
tưởng về bản thể luận đã xuất hiện và được quan niệm từ thời kì Hy Lạp cổ
đại với thuật ngữ “tồn tại”.
Khái niệm “tồn tại” lần đầu tiên được triết gia Pácmênít bàn tới. Ông cho
rằng, bản chất của mọi sự vật trong thế giới là tồn tại, không thể có cái không
tồn tại, bởi chúng ta không thể hình dung được cái không tồn tại là cái gì. Tồn
tại là cái chỉ có thể nhận thức được bằng lý tính. Mọi tư duy bao giờ cũng là
tư duy về tồn tại. Tư duy, do vậy, đồng nhất với tồn tại.

4


Bản thể luận trong triết học có thể hiểu là những quan niệm về nguồn gốc

của thế giới mà loài người và các sinh vật khác đang sinh sống.
1.2. Hoàn cảnh ra đời và những đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại
1.2.1. Điều kiện kinh tế - xã hội, văn hóa
Hy Lạp cổ đại khác với Hy Lạp ngày nay về địa lý, bao gồm một vùng
đất rộng lớn: miền nam bán đảo Bancăng thuộc châu Âu, nhiều hòn đảo ở
biển Êgiê và ven biểu của bản đảo Tiểu á. Điều kiện thuận lý thuận lợi cho
người Hy Lạp cổ đại phát triển kinh tế, xã hội rất sớm.
Triết học Hy Lạp cổ đại ra đời vào khoảng thế kỷ VI trước Công nguyên
trên cơ sở kinh tế là quyền sở hữu của chủ nô đối với tư liệu sản xuất và
người nô lệ. Xã hội phân chia thành hai giai cấp có lợi ích mâu thuẫn nhau:
giai cấp chủ nô nắm trong tay các tư liệu sản xuất và của cải vật chất trong xã
hội và giai cấp nô lệ là giai cấp bị chủ nô bóc lột, trao đổi, mua bán như một
thứ hàng hóa tại các chợ nô lệ. Bên cạnh sự phân chia giai cấp có sự phân
công lao động trí óc và lao động chân tay. Điều này dẫn tới hình thành một bộ
phận các tri thứ triết học và khoa học, phá vỡ ý thức thần học và tôn giáo
nguyên thủy. Lối tư duy bài bản là một trong những yếu tố quan trọng cho
việc hình thành các quan niệm triết học.
Những nhu cầu của thực tiễn nền sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp
và đặc biệt là thương nghiệp với hoạt động trao đổi mua bán bằng đường biển
đã quyết định đến sự hình thành và phát triển những tri thức về các khoa học
như thiên văn, toán, vật lý. Do thời kì này khoa học chưa phân ngành, phân bộ
môn nên các tri thức khoa học được trình bày trong hệ thống triết học. Điều
đó làm cho triết học Hy Lạp cổ đại gắn liền với thực tiễn và khoa học.
Bên cạnh đó, do vị trí thuận lợi, giao lưu mật thiết với các nền văn hóa Ai
Cập, Lưỡng Hà cổ đại nên sự phát triết của triết học Hy Lạp cổ đại có liên
quan chặt chẽ và chịu ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phương Đông cổ đại.
1.2.2. Đặc điểm của triết học Hy Lạp cổ đại
5



- Khoa học tự nhiên và triết học gắn bó chặt chẽ với nhau. Các nhà khoa
học tự nhiên đồng thời là các nhà triết học. Các khái quát triết học thường tập
trung hướng về các vấn đề tự nhiên.
- Nội dung cơ bản là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm, quan điểm vô thần và hữu thần, khoa học và tôn giáo là nét nổi bật
của quá trình phát sinh, phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại.
- Các trường phái triết học đại diện cho tư tưởng của tập đoàn xã hội nhất
định; là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp chủ nô, bảo vệ lợi ích của giai
cấp chủ nô, nhằm duy trì xã hội theo kiểu chiếm hữu nô lệ.
- Triết học Hy Lạp cổ đại nói chung còn ở trình độ trực quan, chất phác,
đặc biệt là đối với hệ thống triết học duy vật biện chứng. Tuy vậy, nó đã đặt ra
hầu hết các vấn đề căn bản của triết học, bao chứa tất cả thế giới quan về sau.
Những đặc điểm này không chỉ là cái phân biệt giữa nền triết học Đông Tây cổ đại mà còn tác động tới các giai đoạn phát triển của triêt học Tây Âu
sau này. Đồng thời, nó còn nói lên vị trí, vịa trò của nền triết học Hy Lạp cổ
đại đối với nền triết học thế giới; nó làm phong phú tư duy triết học và đặt nền
tảng cho sự phát triển triết học Tây Âu sau này.

6


Chương 2
NỘI DUNG QUAN NIỆM VỀ BẢN THỂ LUẬN TRONG
TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
2.1. Bản thể luận trong triết học của trường phái Milê
Một trong những cái nôi triết học đầu tiên của Hy Lạp và La Mã cổ đại
là Iônia, một vùng đất rộng lớn nằm trên bán đảo Tiểu Á, chịu ảnh hưởng sâu
sắc của nền văn hóa Ba Tư cổ đại. Nơi đây đã sinh ra các nhà triết học đầu
tiên của phương Tây như các nhà triết học thuộc phái Milê, Hêraclít... Chúng
ta sẽ xem xét thế giới quan của từng nhà triết học kể trên. Trường phái Milê,
là trường phái của các nhà triết học ở Milê, một địa danh thuộc vùng Iônia,

gồm một số nhà triết học tiêu biểu như Talét, Anaximan, Anaximen. Là những
người thể hiện quan điểm của các tầng lớp tiến bộ trong giai cấp chủ nô, họ có
nhiều tư tưởng khác với các quan niệm thần thoại và tôn giáo nguyên thủy
thống trị hồi đó. Họ tìm cách lý giải các vấn đề về bản chất và khởi nguyên
của thế giới dựa trên một số các tri thức khoa học sơ khai có được thời đó, coi
toàn bộ thế giới chúng ta như một chỉnh thể thống nhất, sinh ra từ một khởi
nguyên duy nhất.
Thứ nhất, quan niệm của Thalès
Người sáng lập trường phái Milê là nhà toán học, nhà thiên văn, nhà triết
học đầu tiên của Hy Lạp cổ đại Talet (khoảng 624 - 547 TCN).
Thalés cho rằng, nguồn gốc của thế giới chúng ta là nước. Nước là bản
chất chung của tất thảy mọi vật, mọi hiện tượng trong thế giới. Mọi cái trên
thế gian đều sinh ra từ nước và khi bị phân hủy lại biến thành nước. Nước tồn
tại vĩnh viễn còn mọi vật do nó tạo nên thì không ngừng biến đổi, sinh ra và
chết đi. Toàn bộ thế giới là một chỉnh thể thống nhất, tồn tại tựa như một vòng
tuần hoàn biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng của vòng tuần hoàn đó.
Tuy nhiên, bên cạnh những quan niệm mang tính duy vật sơ khai, thế
giới quan của Thalés còn ít nhiều chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần
thoại và tôn giáo nguyên thủy khi ông cho rằng thế giới chúng ta đầy rẫy các
vị thần linh. Không lý giải được hiện tượng từ tính của nam châm và hổ
phách, ông khẳng định chúng có linh hồn. Các vị thần linh, trong ý tưởng của

7


ông, là những lực lượng hoạt động trong thế giới làm cho mọi sự vật có thể
vận động được và biến đổi được.
Tiếp cận với quan điểm nhất nguyên trong nhận thức, Thalés cho rằng
phải quy toàn bộ các tri thức về một nền tảng duy nhất của chúng. Nhiều lời
chưa hẳn thể hiện hiểu biết đúng đắn về sự vật.

Thứ hai, quan niệm của Anaximandre
Anaximandre (khoảng 610 đến 546 TCN), là học trò và người kế tục
Thalès. Khác với Thalés, Anaximan cho rằng, nguồn gốc và cơ sở của mọi sự
vật là apeirôn. Ông không nói rõ apeirôn là cái gì cụ thể mà chỉ khẳng định đó
là một cái vô định hình, vô cùng tận, tồn tại vĩnh viễn, bất diệt. Tất cả các tác
giả thời cổ khi nói về Anaximan đều cho rằng apeirôrt của ông là cái mang
tính vật chất. Một số người cho rằng đó là hỗn hợp của các yếu tố như đất,
nước, lửa, không khí. Có người cho rằng, đó là một cái trung gian giữa lửa và
không khí. Arixtốt và một số người khác coi apeirôn là một cái không xác
định.
Theo Anaximan, mọi sự vật không chỉ có bản chất chung là apeirôn, mà
còn xuất hiện từ nó. Tự bản thân apeirôn sinh ra mọi cái, đồng thời là cơ sở
vận động của chúng. Apeirôn là nguồn gốc và sự thống nhất của các sự vật
đối lập nhau như nóng - lạnh, sinh ra - chết đi... Toàn bộ vũ trụ được cấu từ
apeirôn tồn tại như một vòng tuần hoàn biến đổi không ngừng. Phê phán các
quan niệm trực quan của thần thoại và tôn giáo nguyên thủy về thế giới,
Anaximan cho rằng những gì bề ngoài mà thế giới hiện ra trước mắt chúng ta
chưa hẳn là bản thân thế giới một cách đích thực. Tuy nhiên, cũng như Talét
(và điều này khó tránh khỏi đối với các nhà triết học cổ đại sơ khai),
Anaxirrían còn chịu ảnh hưởng của các quan niệm thần thoại và tôn giáo,
khẳng định tồn tại điểm tận cùng giới hạn của thế giới. Mọi sự vật theo ông
đều sinh ra từ apeirôn và có lỗi lầm với nhau, nhưng lỗi lầm của chúng phá vỡ
các chuẩn mực và giới hạn của chúng. Mọi cái cuối cùng đều trở thành
apeirôn. Theo nghĩa này, apeirôn trở thành một cái ít nhiều mang tính thần bí.
Thứ ba, quan niệm của Anaximènne
Anaximènne (588 - 525 TCN) quay trở về với phương án Thalès, nghĩa
là đồng nhất bản nguyên với những dạng vật chất cụ thể. Theo Anaximène,
8



khởi nguyên của thế giới là không khí - apeiros. Không khí diễn ra các quá
trình tán và tụ, quy định sự hình thành, tồn tại và phát triển của vạn vật.
Không chỉ là bản nguyên thế giới, không khí còn là nguồn gốc sự sống và các
hiện tượng tâm lý.Linh hồn là sự thở, khí của linh hồn và khí của thế giới vật
chất thống nhất với nhau.Thần linh cũng xuất hiện từ khí.
2.2. Bản thể luận trong triết học của phái Êphidô
Thứ nhất, quan niệm của Héraclite
Héraclite là nhà duy vật, ông đã đứng trên lập trường duy vật cổ đại để
giải quyết vấn đề “cơ sở đầu tiên” của thế giới từ một dạng vật chất cụ thể.
Theo ông, lửa, chính là bản nguyên của thế giới, là cơ sở làm nên sự thống
nhất của thế giới, là cái mà từ đó, mọi thứ sinh ra và trở về. Mọi thứ, kể cả
linh hồn, đều là biến thái của lửa. “Bất cứ sự vật nào cũng có thể biến thành
lửa và lửa cũng có thể biến thành sự vật nào, cũng như hàng hoá nào cũng có
thể biến thành vàng và vàng cũng có thể biến thành bất cứ hàng hoá nào”.
Héraclite đã đưa triết học Hy Lạp cổ đại nói chung và triết học duy vật
cổ đại nói riêng tiến lên một bước mới với những quan điểm duy vật và những
yếu tố biện chứng. Học thuyết của ông được nhiều nhà triết học sau này kế
thừa. Mác và Ăngghen coi ông là đại biểu xuất sắc của phép biện chứng Hy
Lạp cổ đại.
Thứ hai, quan niệm của Pitago
Pitago cho rằng bản nguyên của thế giới là con số, số một là nguồn gốc
phát sinh, số 10 là con số hoàn thiện. Bản nguyên của thế giới là con số, cụ
thể: Pitago cho rằng số 1 là điểm, số 2 là đường, số 3 là diện tích, số 4 là thể
tích. Hình dạng của các loại vật chất là do sự sắp xếp, bố trí của các con số
mà tạo thành.
2.3. Quan niệm bản thể luận của trường phái Êlê
Thứ nhất, quan niệm của Xênôphan

9



Xênôphancho rằng thế giới là một khối duy nhất bất động không do thần
thánh tạo ra, là người phác thảo những đường nét ban sơ của nguyên lý đồng
nhất.Con người sáng tạo ra thần thánh theo trí tưởng tượng của mình.
Thứ hai, quan niệm của Parménide
Parménideđưa ra quan niệm tồn tại, tồn tại là duy nhất, là bất biến, không
thể phân chia được, không vận động và biến đổi.Quan niệm của Pacmelit
“Thế giới không khác nào một quả cầu vật chất đóng chặt, nén đầy , không
còn chỗ trống. Không thể có vận động, bởi lẽ không gian đã được phân định,
mỗi sự vật chiếm một vị trí tương ứng. Cách hiểu như vậy nhằm vào hai mục
tiêu: xem vận động, biến đổi là dòng hư ảo vô cùng, đồng thời bác bỏ khái
niệm không gian rỗng thuần tuý” […tr 28].
Cái gì mà con người tư duy được, diễn đạt được bằng ngôn ngữ, thì mới
tồn tại. Theo nghĩa đó tồn tại là tư duy đồng nhất với nhau, vừa như quá trình,
vừa như kết quả.
Thứ ba, quan niệm của Zênôn
Zénon (khoảng 490- 430 TCN) học trò của Parménide, cụ thể hoá và phát
triển nguyên lý vận động đồng nhất thể và nguyên lý vạn vật bất biến bằng
phương pháp phản chứngvà nghịch lý. Phương pháp phản chứng, giả sử thế
giới là bội đa
Để minh chứng cho nguyên lý vạn vật bất biến, Zénon chứng minh bằng
cách dựa trên “sự phân đôi” của những nghịch lý “Achille và con rùa”, “Mũi
tên bay”, cụ thể, chứng minh như sau:một vật bất kỳ muốn vượt qua đoạn
đường từ A đến B trước hết phải vượt qua ½ của AB, mà muốn vượt qua ½
AB, nó phải vượt qua ½ của ½ ấy, cứ thế đến vô cùng mà không kết thúc, do
vậy sẽ không bao giờ di chuyển đến B
2.4. Quan niệm bản thể luận của Empedoc và Anaxago
Empedoc quan niệm rằng bản nguyên của thế giới là đất, nước, lửa và
không khí và chỉ ra chu kỳ vận động, biến hóa của chúng. Sự kết hợp các loại
10



vật chất theo các tỷ lệ khác nhau tạo nên các sự vật khác nhau. Chẳng hạn,
xương gồm hai phần nước, hai phần đất, bốn phần lửa; thần kinh gồm hai
phần nước, một phần đất, một phần lửa; máu được tạo thành từ pha đều các
bốn vật chất.
Anaxago quan niệm rằng bản nguyên của thế giới là những phần tử bé
nhất, siêu cảm giác của các trạng thái vật chất, những thứ mà Anaxago gọi là
những hạt giống của muôn vật, những mầm sống.
2.5.Quan niệm bản thể luận của phái nguyên tử luận
Thứ nhất, quan niệm của Đêmôcrít
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Đêmôcrít nêu ra khái niệm không
gian. Theo ông, không gian là khoảng chân không rộng lớn, trong đó những
nguyên tử vận động vĩnh viễn. Không gian là khoảng trống giữa các vật thể,
nhờ đó các vật thể có thể tụ lại hoặc giãn ra. Ông cho rằng, khởi nguyên của
thế giới là nguyên tử. Theo quan niệm của Đêmôcrít, sự vật là do các nguyên
tử liên kết lại với nhau tạo nên. Nguyên tử là hạt vật chất không thể phân chia
được nữa, hoàn toàn nhỏ bé và không thể cảm nhận bằng trực quan. Nguyên
tử tồn tại vĩnh cửu, không thay đổi, trong lòng nó không còn có cái gì khác.
Nguyên tử tự thân vận động, kết hợp với nhau tạo thành vật thể. Nguyên
tử có vô vàn hình dạng và sự đa dạng của nguyên tử làm nên sự đa dạng của
các sự vật trong thế giới. Nguyên tử sắp xếp theo các trật tự khác nhau thì tạo
thành các sự vật khác nhau.
Công lao có ý nghĩa lịch sử của Đêmôcrít là ông đã bền bỉ đấu tranh cho
quan niệm duy vật về tự nhiên. Nó đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển tiếp
theo của triết học duy vật.
Thứ hai, quan niệm của Epiquya
Bác bỏ thuyết duy tâm và thần học, bảo vệ chủ nghĩa duy vật và thuyết
vô thần của Đêmôcrít. Epiquya kế thừa học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít và
phát triển nó. Các nguyên tử khác nhau về trọng lượng, do đó chúng vận động

11


theo chiều thẳng đứng từ trên xuống giống như sự rơi tự do của các vật thể.
Mỗi sinh vật không phải đơn thuần là tổng số các hạt nguyên tử, mà là một
chỉnh thế có những đặc tính nhất định.
2.6. Quan niệm của Platon và Arixtot
Thứ nhất, quan niệm của Platon
Platon là một nhà triết học duy tâm khách quan (đối lập với thế giới quan
duy vật). Theo Platon, giới tự nhiên thế giới của những vật cảm tính bắt
nguồn từ những thực thể tinh thần tức là những ý niệm, vật thể cảm tính chỉ là
cái bóng của ý niệm. Bản thể luận của Platon được thể hiện trong học thuyết ý
niệm. Platon chia thế giới ra thành thế giới ý niệm và thế giới cảm tính.
Thế giới ý niệm tồn tại vĩnh viễn, bất biến; là nguồn gốc của sự vật cảm tính.
Thế giới sự vật cảm tính là thế giới của sự vật tồn tại của sự vật cảm tính,
không ngừng sinh ra, mất đi và biến đổi.
Mối quan hệ của thế giới ý niệm và thế giới sự vật cảm tính: thế giới sự
vật cảm tính có trước, là thế giới tồn tại chân thực; thế giới sự vật cảm tính là
thế giới có sau, không tồn tại chân thực, sự vật cảm tính chỉ là bản sao, chỉ là
sự mô phỏng, là cái bóng của ý niệm.
Platon là một trong những triết gia xuất sắc nhất trong nền triết học Hy
Lạp cổ đại. Hệ thống triết học của ông đề cập nhiều đến học thuyết như ý
niệm, nhận thức luận… và dù còn hạn chế nhưng ông là người đã có công lớn
trong việc nghiên cứu và vấn đề về ý thức xã hội, đặt nền tảng cho việc xây
dựng các khái niệm, phạm trù và tư duy lý luận.
Thứ hai, quan niệm của Arixtot
Thể hiện trong học thuyết tồn tại. Theo Arixtot thế giới tồn tại khách
quan, là thế giới vật chất. Arixtot khẳng định rằng ý niệm, khái niệm nằm ngay
trong bản thân sự vật, cái chung không tồn tại song song và tách rời cái riêng.
Arixtot quan điểm về thế giới tự nhiên, tự nhiên là toàn bộ những sự vật

có một bản thể vật chất luôn luôn vận động và biến đổi. Nhờ vận động và thế
12


giới tự nhiên được biểu hiện ra. Thế giới tự nhiên biểu hiện ở các yếu tố khởi
nguyên, mang tính vật chất của nó. Ngoài yếu tố đất, nước, lửa và không khí,
Arixtot bổ sung yếu tố thứ năm tạo nên thế giới là ête, có đặc trưng vận động tròn.
Lý luận nhận thức của Arixtot chứa đựng nhiều tư tưởng hợp lý và nhiều yếu
tố duy vật. Theo ông, đối tượng của nhận thức là ở bên ngoài con người, quá trình
nhận thức là quá trình phản ánh đối tượng bên ngoài ấy và trải qua nhiều cấp độ từ
thấn đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện theo trình tự: Cảm giác, biểu
tượng, kinh nghiệm, nghệ thuật, khoa học.
Triết học của Arixtot tuy còn những hạn chế, dao động giữa chủ nghĩa duy
vật và chủ nghĩa duy tâm nhưng ông vẫn xứng đáng là bộ óc vĩ đại nhất trong các
bộ óc vĩ đại của nền triết học Hy Lạp cổ đại.

13


Chương 3
ĐÁNH GIÁ QUAN NIỆM BẢN THỂ LUẬN TRONG TRIẾT HỌC
HY LẠP CỔ ĐẠI
3.1. Ưu điểm của những quan niệm về bản thể luận trong triết học
Hy Lạp cổ đại
Ở thế kỉ thứ VI trước Công nguyên, những quan niệm bản thể luận của
các triết gia Hy Lạp bắt đầu hình thành, các triết gia Hy Lạp đã có những câu
trả lời cho câu hỏi thế giới bắt nguồn từ đâu. Thế kỉ thứ VI trước Công
nguyên, cách thời điểm hiện này hơn 2500 năm thì những quan niệm về
nguồn gốc của thế giới là những quan điểm có ý nghĩa rất lớn.
Thứ nhất, các triết gia đã giải thích thế giới theo theo quan điểm duy vật,

bản nguyên của thế giới là từ vật chất cụ thể tạo thành như nước, lửa, không
khí.
Talet cho rằng khởi nguyên của thế giới là nước, Anaximandre cho rằng
bản nguyên của thế giới là vật chất vô định hình, Anaximenne cho rằng bản
nguyên của thế giới là không khí, Heraclite cho rằng bản nguyên của thế giới
là lửa. Qua đó ta có thể thấy, các triết gia tiêu biểu của trường phái Mile đã
xuất phát từ chính thế giới để giải thích nguồn gốc của thế giới khách quan.
Quan điểm mang khuynh hướng duy vật.
Empedoc cho rằng thế giới tạo thành từ đất, nước, lửa, không khí và đã
chỉ ra chu kì vận động, biến hóa của chúng.
Đây như hồi chuông tỉnh thức giấc mộng thần thánh muôn đời của người
dân Hy Lạp, tách vai trò của thần thánh ra khỏi ý thức hệ của con người.
Thứ hai, quan niệm bản nguyên của thế giới là nguyên tử
Quan niệm của Đêmocrit và Epiquya về bản nguyên của thế giới là
nguyên tử. Trong thời kì Hy Lạp cổ đại tồn tại nhiều quan niệm về bản
nguyên của thế giới nhưng quan niệm thế giới tạo thành từ nguyên tử là quan
niệm còn nguyên giá trị cho tới ngày nay. Các nguyên tử là các hạt vật chất vô
14


cùng nhỏ bé, không cảm nhận được bằng trực quan, nguyên tử tự thân vận
động.
Thứ ba, quan niệm về thế giới của Arixtot
Arixtot khẳng định thế giới tồn tại khách quan, là thế giới vật chất, luôn
luôn vận động và biến đổi. Ý niệm nằm trong bản thân sự vật và ngoài các
yếu tố đất, nước, lửa và không khíArixtot bổ sung thêm yếu tố thứ năm tạo
nên thế giới là ête, có đặc trưng vận động tròn. Như vậy, quan điểm của
Arixtot đã phê phán quan niệm của người thầy của mình đó là quan niệm của
Platon về thế giới ý niệm tuyệt đối.
Thứ tư, qua nghiên cứu quan điểm của các triết gia tiêu biểu của Hy Lạp

cổ đại, ta có thể thấy:
Vai trò của con người được đề cập một cách khách quan nhằm đi đến tìm
hiểu con người và tự nhiên từ đâu mà có và đi về đâu. Đạo đức trong lịch sử
nhân loại lần đầu tiên được đề cập đến.
Đặc biệt, đây là nền tảng cho các trường phái triết học sau này. Khoa học
duy nghiệm và duy ký manh nha hình thành
Đồng thời, trả lời cho câu hỏi: Con người có khả năng nhận thức được
thế giới không?
Như vậy, có thể khẳng định, trong triết học Hy Lạp cổ đại các triết gia
thời kì này bàn rất nhiều về bản thể luận. Những quan niệm về bản thể luận có
ý nghĩa rất lớn trong vấn đề tìm nguồn gốc của thế giới của các triết gia của
các thời kì sau.
3.2. Hạn chế của những quan niệm về bản thể luận trong triết học
Hy Lạp cổ đại
Thứ nhất, Triết học cổ Hy Lạp còn nằm trên tư duy trừu tượng là chủ
yếu. Thế giới không đơn thuần được tạo nên từ một loại chất như nước, lửa,
đất, không khí…

15


Các nhà triết học tiêu biểu của trường phái Mile đều giải thích theo
hướng lấy thế giới giải thích cho thế giới. Tuy nhiên, với hạn chế nhất định về
nhận thức và khoa học do vậy các triết gia của trường phái Mile đều giải thích
bản nguyên của thế giới từ một loại vật chất tồn tại trong chính thế giới tự
nhiên như nước, chất vô định hình và không khí. Hiện nay, với sự phát triển
của khoa học, loài người có thể dễ dàng nhận thức được các sự vật khách
quan không chỉ hình thành đơn thuần từ một chất.
Thứ hai, thế giới tạo nên từ các con số
Pitago là nhà toán học lỗi lạc, tiêu biểu nhất trong phát kiến của ông là

định lý Pitago, tuy nhiên dưới lăng kính của nhà toán học để giải thích bản
nguyên của thế giới, ông đã giải thích theo số học, thế giới tạo nên từ con số.
Thứ ba, thế giới vật chất nhưng đứng im
Quan niệm của Xênôphan, Pácmênít và Dênông là thế giới đứng im, là
một khối duy nhất, bất biến. Có thể thấy quan niệm của các triết gia tiêu biểu
của phái Êlê đã không chỉ ra được sự vận động của vật chất mà cố đi chứng
minh bằng phương pháp phản chứng hay chứng minh các nghịch lý.
Thứ tư, quan niệm thế giới xuất phát từ ý niệm tuyệt đối
Platon đưa ra quan niệm ý niệm tuyệt đối. Thế giới ý niệm tồn tại vĩnh viễn,
bất biến; là nguồn gốc của sự vật cảm tính. Quan điểm của Platon là quan điểm
duy tâm khách quan.
Thứ năm, triết học thời kỳ này đã đề cập những vấn đề cơ bản thế giới quan
của con người, nhưng do sự đối lập giữa lao động trí óc và lao động chân tay quá
lớn nên nhìn chung, các quan niệm triết học còn mang nặng tính tự biện.
Thứ sáu, các vấn đề triết học ở đây còn chưa rõ ràng, chưa hệ thống hóa. Tuy
đặt vai trò của con người nhưng chưa hoàn toàn tách khỏi yếu tố thần linh.

16


KẾT LUẬN
Triết học Hy Lạp cổ đại là tiếng chuông vàng, là nhịp cầu vững chắc nối
những bến bờ triết học sau này. Đến nay, những gì mà Triết học Hy Lạp cổ
đại mang đến cho nhân loại vẫn còn nguyên giá trị đó.
Triết lý Hy Lạp cổ đại là những viên gạch đầu tiên xây nên toàn bộ ngôi
nhà văn minh của Châu Âu ngày nay. Điều đó làm cho nó sáng rực rỡ trên vũ
đài triết học nhân loại và trở nên bắt hủ. Mác nói “Dại dột cho ai không thấy
giá trị Hy Lạp cổ đại”. Nền Triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã đạt những
thành tựu to lớn về mọi mặt và đã có những cống hiến lớn lao vào kho tàng tri
thức của loài người.

Hơn hai mươi lăm thế kỷ đã qua nhưng cho đến nay, dù còn tồn tại hạn
chế nhất định, Triết học Hy Lạp cổ đại vẫn không hề mất đi giá trị của nó.
Nền văn minh hiện đại Châu Âu bắt nguồn từ nền văn minh Hy Lạp và
chúng ta đã không thể hiểu đầy đủ văn hóa nhân loại ngày nay nếu không đi
ngược thời gian để tìm hiểu những thành tựu huy hoàng trong Triết học Hy
Lạp cổ đại.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Bùi Thị Thanh Hương - Nguyễn Văn Đại, Khái lược lịch sử triết học,
Khoa Triết học - HV BC&TT.
3. Bùi Văn Hóa, Triết học phương Tây, ĐH KHXH&NV.
4. Hà Thúc Minh, Triết học cổ Hy Lạp - La Mã, Nxb Mũi Cà Mau.
5. Nguyễn Tiến Dũng, Lịch sử Triết học phương tây, Nxb Tổng hợp TP.
Hồ Chí Minh.
6. Đỗ Minh Hợp, sự hình thành bản thể luận văn hóa, web:
.
7. Nguyễn Hòa, Triết học cổ Hy Lạp giảng yếu, Nxb Thanh niên.

18



×