Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CƠ SỞ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.12 KB, 29 trang )

CƠ SỞ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
I- NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG:
1- Khái niệm, bản chất, đặc trưng, vai trò của kinh tế hộ nông dân.
a. Khái niệm bản chất.
Kinh tế hộ nông dân là khái niệm đã được đề cập đến từ rất sớm trong
lịch sử phát triển của loài người. Từng hình thái phát triển nền kinh tế khác
nhau trôi qua, lại cho chúng ta hiểu sâu sắc hơn về kinh tế hộ nông dân ở thời
kỳ lịch sử đó.
Tuy nhiên, kinh tế hộ nông dân chỉ thực sự được quan tâm và bàn đến khi
vị trí và vai trò của nó dần được khẳng định trong nền kinh tế nói chung và
trong nông nghiệp - nông thôn nói riêng. Với ý nghĩa to lớn của việc phát triển
kinh tế hộ nông dân đã được chứng minh trong lịch sử. Có rất nhiều nhà kinh
tế, những học giả, học thuyết và cả những nhà chính trị đã bàn đến kinh tế hộ
với vai trò là thành phần kinh tế chủ yếu trong nông nghiệp - nông thôn. Và tất
nhiên, tuỳ từng thời kỳ phát triển khác nhau, tuỳ từng cách tiếp cận khác nhau
mà chúng ta nhận được những lý thuyết không hoàn toàn giống nhau về kinh
tế hộ nông dân.
-Tư tưởng của C.Mác và Ph-Anggen.
Đối với vấn đề nông dân, cả Mác và Anggen đều tỏ thái độ hết sức thận
trọng.
+Lúc đầu, khi nghiên cứu con đường công nghiệp hoá đặc thù của nước
Anh, nhận thấy quá trình người nông dân bị tách khỏi ruông đất một cách ồ ạt,
Mác đã tuyên đoán giai cấp nông nhân sẽ bị xoá bỏ cùng với sự phát triển của
đại công nghiệp. Nông nghiệp sẽ được tổ chức lại thành nền đại sản xuất như
trong công nghiệp.
+Nhưng sau đó, bất chấp xu hướng diễn ra trong thời kỳ công nghiệp hoá
nhanh chóng ở nước Anh, nông trại gia đình về căn bản không dựa trên lao
động làm thuê, vẫn tỏ rõ sức sống và hiệu quả của nó. Từ đó trong quyển III
của bộ tư bản, Mác đã viết “ Ngay ở những nước siêu công nghiệp... với thời
gian cho đến nay đã khẳng định rằng hình thức lãi nhất không phải là nông
trại công nghiệp hoá mà là nông trại gia đình không dùng lao động làm thuê.


Những nước còn giữ hình thức tư hữu chia đất thành khoảnh nhỏ, giá cả ngũ
cốc trong những nước mà chế độ sở hữu ruộng đất nhỏ còn chiếm địa vị thống
trị thường thấp hơn so với những nước có nền sản xuất tư bản chủ nghĩa”.
-Tư tưởng của V.L.Lê nin:
Với tư duy biện chứng và hoạt động thực tiễn,V.L.Lê nin đã có những đóng
góp quan trọng vào những luận điểm nêu trên của Mác và Angghen.
Năm 1908, khi bàn về việc lựa chọn con đường phát triển của nông
nghiệp nước Nga, Lênin đã nhận thấy rằng: Không thể phát triển theo con
đường tư bản chủ nghĩa kiểu Phổ vì đó là kiểu phát triển kém hiệu quả, mà
phải là theo kiểu một chủ trại tự do trên mảnh đất tự do, nghĩa là mảnh đất đó
được dọn sạch khỏi những tàn tích trung cổ, đó là kiểu Mĩ. Lênin cho rằng
Cauxky đã đặt vấn đề rất chính xác và đúng đắn khi nói rằng: Nông nghiệp
không phát triển theo cùng một kiểu với công nghiệp.
+Thực tế cho đến nay, ngày càng khẳng định sự phát triển thắng thế của
con đường khác với kiểu “Nông trại kỹ nghệ” ở Anh hoặc “Đại điền trang kiểu
Phổ” mà Mác và Lênin đã phán đoán ở nhiều nước.
-Tư tưởng của A.V.Traianôp.
+Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế phức tạp của tổ chức sản
xuất nông nghiệp. Đó là những doanh nghiệp hàng hoá gia đình nông dân
không thuê nhân công mà chiếm đại bộ phận nông hộ ở nước Nga trước cách
mạng cũng như trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hôị
ở Liên xô.
+Kinh tế nông dân gắn bó hữu cơ với gia đình nông dân vì thế có thể coi
kinh tế nông dân là kinh tế gia đình. Đó là một thứ xí nghiệp lao động gia đình
sống theo những quy luật của nó, khác với những quy luật tư bản chủ nghĩa
dựa trên cơ sở lao động làm thuê. Trong kinh tế gia đình, người nông dân vừa
là người chủ, vừa là người lao động. Mục đích sản xuất không phải vì lợi
nhuận mà là để thoả mãn những nhu cầu của gia đình.
+Khi vượt khỏi kinh tế nửa tự nhiên (nửa tự cung tự cấp) người nông dân
bắt đầu cảm thấy rõ sự cần thiết của tín dụng, kỹ thuật và công nghệ tiến bộ.

Nhưng mặt khác, các quá trình thuần tuý sinh học (trong trồng trọt cũng như
trong chăn nuôi) lại đòi hỏi một sự chăm sóc của từng cá nhân và điều đó lại
hạn chế sự phát triển theo chiều rộng của doanh nghiệp nông dân.
+Mỗi ngành có một giới hạn tối ưu cần thiết. Khi giới hạn tối ưu vượt quá
khuôn khổ kinh tế của gia đình nông dân, lúc đó, nông dân tìm cách hợp tác với
nhau để đạt giới hạn tối ưu mới , bằng cách đó là chuyển dần lên sản xuất lớn.
Nói cách khác, do không có khả năng tập trung vô hạn theo chiều sâu như
trong công nghiệp nên sản xuất nông nghiệp chỉ có thể tập trung theo chiều
rộng từ quá trình này đến quá trình khác. Như vậy người nông dân khi làm
chủ và người lao động sẽ đi tới chỗ liên kết các quá trình và các ngành “tách
rời nhau” cùng nhau mua sắm tư liệu sản xuất, thành lập các nhóm sử dụng
máy móc và tiêu thụ sản phẩm, cải tạo đất đai. Và bằng cách đó mà thay đổi
cách kinh doanh của mình.
-Tư tưởng của Frank Elliss:
Kinh tế hộ nông dân là sản xuất của các hộ gia đình nông nghiệp, có quyền
sinh sống trên các mảnh đất đai, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình.
Sản xuất của họ thường nằm trong hệ thống sản xuất lớn hơn và tham gia ở
mức độ không hoàn hảo và hoạt động của thị trường.
-Quan điểm của Liên Hợp Quốc:
+Về phương diện thống kê:
Liên hợp quốc cho rằng: hộ là những người cùng sống chung dưới một
mái nhà, cùng ăn chung và có cùng một ngân quỹ.
+Về phương diện sản xuất:
Liên hợp quốc cho rằng: kinh tế hộ là một hình thức tổ chức cơ sở của nền
sản xuất hàng hoá. Nó hoạt động sản xuất kinh doanh theo hộ gia đình, có một
hoặc một số người lao động tự đầu tư theo khả năng về vốn để trang bị tư liệu
sản xuất, sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ theo yêu cầu sản phẩm cho sự
sinh tồn của họ trên thị trường.
Mỗi tư tưởng, mỗi quan điểm cho ta một cách nhận thức tổng quát về
kinh tế hộ nông dân hoặc kinh tế hộ nông dân trên một mặt nào đó. Tuy vậy,

chúng ta có thể hiểu:
Kinh tế hộ nông dân là tế bào kinh tế - xã hội được hình thành trên cơ sở
các mối quan hệ: hôn nhân, huyết thống, phong tục, tâm linh, tâm lý, đạo đức.
Là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nông dân và nông thôn. Kinh tế hộ nông
dân đã tồn tại từ rất lâu ở các nước nông nghiệp, tự chủ trong sản xuất - kinh
doanh nông nghiệp, là pháp nhân kinh tế, bình đẳng trước pháp luật và là chủ
thể nền kinh tế thị trường.
+Hộ là hình thức kinh tế có quy mô gia đình, các thành viên trong hộ gắn
bó với nhau chặt chẽ trước tiên bằng quan hệ hôn nhân và huyết thống.
+Trong các tư liệu sản xuất của hộ nông dân, ruộng đất là tư liệu sản xuất
quan trọng nhất, là tư liệu sản xuất chủ yếu và không thể thay thế.
+Kinh tế hộ nông dan chủ yếu dựa vào sức lao động của gia đình, không
hoặc rất ít thuê lao động ngoài, các lao động trong gia đình mang tính tự giác
cao. Ngoài các lao động chính thì kinh tế hộ nông dân còn có những lao động
phụ đó là những lao động trẻ em và người già.
+Người chủ hộ vừa là người quản lý điều hành sản xuất,vừa trực tiếp lao
động nên mọi người trong hộ đều gắn bó với nhau chặt chẽ trong quá trình
sản xuất. Từ đó các thông tin, các quyết định được xử lý nhanh và kịp thời,
mang tính hợp lý cao.
+Tính tư hữu của người lao động liên hệ với lợi ích cá nhân một cách chặt
chẽ, nó vừa là mục đích, vừa là động lực thúc đẩy kinh tế hộ phát triển.
Từ những tư tưởng, những quan điểm, khái niệm và những đặc điểm của
kinh tế hộ nông dân như đã nêu ở trên chúng ta có thể rút ra được bản chất
của kinh tế hộ nông dân thể hiện ở những khía cạnh sau:
+ Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế, trong đó các thành viên hoạt động
và làm việc một cách tự chủ, tự nguyện vì lợi ích của bản thân, của gia đình và
của toàn xã hội.
+Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế thích nghi nhất với đặc điểm của
sản xuất nông nghiệp, nơi mà các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi sự quan tâm sát
sao, sự chăm sóc đúng lúc của con người. Đất đai và các tư liệu sản xuất khác

đòi hỏi một sự bảo quản và bồi dưỡng hợp lý từ người sử dụng, một yêu cầu
mà không hình thức sản xuất nào khác đáp ứng được.
+ Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế phổ biến mang tính chất đặc thù
ở mỗi vùng, mỗi khu vực và mỗi nước trên thế giới.
Kinh tế hộ nông dân là đơn vị kinh tế cơ sở vừa sản xuất, vừa tiêu dùng
(mà người ta thường gọi tự cấp tự túc) sản phẩm mà hộ làm ra có thể được
tiêu dùng luôn với vai trò là tư liệu sản xuất hoặc sản phẩm tiêu dùng.
+Cũng như những thành phần kinh tế khác, Kinh tế hộ nông dân phải vận
dụng tổng hợp các quy luật tự nhiên và quy luật kinh tế khách quan trong quá
trình tồn tại và phát triển của mình.
+Kinh tế hộ nông dân không những giải quyết tốt các mục tiêu của hộ
nông dân mà còn giải quyết tốt vấn đề môi trường sinh thái và vấn đề xây
dựng nông thôn mới.
b- Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân.
Kinh tế hộ nông dân đang tồn tại và phát triển với vai trò là một đơn vị
sản xuất cơ sở của nông nghiệp - nông thôn. Là một thành phần kinh tế độc
lập, tự chủ cùng các thành phần kinh tế khác hình thành lên nền kinh tế thị
trường của nước ta hiện hay. Kinh tế hộ nông dân sẽ luôn là một tế bào bền
vững và phát triển lành mạnh trong nền kinh tế, nó mang những đặc trưng cơ
bản sau đây:
-Đặc trưng về sở hữu:
Tuy không được sở hữu về đất đai nhưng hộ nông dân lại được nhà nước
giao quyền sử dụng ổn định và lâu dài. Đó là tiền đề quan trọng cho sự phát
triển của mọi quá trình sản xuất trong nông nghiệp. Mọi tư liệu sản xuất khác
đều thuộc quyền sở hữu của các thành viên trong hộ, và tất nhiên mọi sản
phẩm làm ra đều thuộc quyền sở hữu của gia đình. Tất cả những điều này tạo
lên sự khác biệt giữa sở hữu hộ nông dân và sở hữu tư nhân trong sở hữu tập
thể.
-Đặc trưng về mục đích sản xuất.
Mục đích sản xuất của kinh tế hộ nông dân được xác định chủ yếu trên cơ

sở đảm bảo nhu cầu về lương thực và thực phẩm cho hộ, một số ít dư thừa
được đem ra để trao đổi. Tuy nhiên cùng với quá trình phát triển, mục tiêu
đảm bảo nhu cầu của hộ sẽ giảm dần và thay vào đó là sản xuất hàng hoá
nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho các thành viên, phục vụ ngày
càng tốt hơn nhu cầu về vật chất và tinh thần của các thành viên trong gia
đình.
-Đặc trưng về lao động:
+Thường thì các hộ nông dân không thuê lao động mà chỉ sử dụng những
thành viên trong gia đình. Trong các ngành kinh tế khác, việc sử dụng lao động
là trẻ em và người lớn tuổi là không được phép nhưng trong kinh tế hộ nông
dân thì lao động trẻ em và người lớn tuổi đóng một vai trò rất đáng kể ,hai
lao động trẻ em hoăc người lớn tuổi được tính bằng một lao động chính.
+Mọi lao động trong hộ nông dân làm việc với tính tự giác cao, tự chủ vì
lợi ích của bản thân, của gia đình và của toàn xã hội.
-Đặc trưng về mặt tổ chức:
+Tổ chức của hộ nông dân rất đơn giản, gọn nhẹ chỉ bao gồm những
người trong gia đình, trong bộ tộc có quan hệ hôn nhân và huyết thống.
+Tổ chức của hộ nông dân rất chặt chẽ, điều khiển mọi quá trình sản xuất
chủ yếu là người chủ gia đình trên cơ sở thứ bậc, hiệu lực cao bởi kỷ cương, lề
nếp mang tính truyền thống.
-Đặc trưng về hoạt động kinh tế hộ:
+Hoạt động kinh tế của hộ nông dân khá đa dạng và phong phú, có thể
tiến hành sản xuất kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, nhiêù ngành nghề .
+Có tính phù hợp và tự điều chỉnh cao, với mỗi thay đổi của môi trường
sản xuất kinh doanh thì hoạt động kinh tế của hộ có thể tự điều chỉnh để phù
hợp .Tuy nhiên sự tự phù hợp đó nhanh hay chậm, chính xác hay không còn
phụ thuộc vào điều kiện và khả năng của mỗi thành viên trong hộ.
-Đặc trưng về phân phối:
Các sản phẩm do hộ nông dân sản xuất ra trước hết được phân phối đều
theo nhu cầu của các thành viên trong gia đình, phần còn dư thừa được đem

bán hoặc trao đổi theo sự thống nhất giữa mọi thành viên trong gia đình.
Với sáu đặc trưng như đã nêu ở trên, kinh tế hộ nông dân thực sự là
thành phần kinh tế phù hợp với yêu cầu của mọi nền kinh tế đang tồn tại, nó là
một trong năm thành phần kinh tế của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta trong
quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội.
c-Vai trò của kinh tế hộ nông dân.
Kinh tế hộ nông dân là một trong những thành phần cấu tạo lên nền kinh
tế quốc dân của mỗi nước, nó không chỉ tự phát triển, tự ảnh hưởng mà còn
ảnh hưởng tới và chịu sự ảnh hưởng tác động của tất cả các thành phần kinh
tế khác. Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống
vật chất, văn hoá, tinh thần của mọi tầng lớp dân cư trong xã hội.
Trong các học thuyết, các quan điểm của mình, các nhà kinh tế, các nhà
chính trị đã phần nào nêu lên những chính kiến của mình về vai trò của kinh tế
hộ. Trong bất kỳ thời đại nào, bất kỳ thời điểm lịch sử nào kinh tế hộ nông dân
vẫn luôn đóng vai trò quan trọng.
-Cung cấp lượng lương thực, thực phẩm chủ yếu phục vụ cho đời sống và
nhu cầu của con người:
+Hàng năm trên toàn thế giới, với sự ổn định khoảng 300 triệu hộ nông
dân đã đóng góp, giữ vai trò là lực lượng chủ đạo trong nền nông nghiệp toàn
cầu. Sản xuất ra khoảng trên 2000 triệu tấn lương thực, trên 200 triệu tấn hạt
có dầu và khoảng 1000 triệu tấn thịt, sữa, trứng, hàng tỷ tấn rau, quả cung cấp
cho gần 6 tỷ người.
+ở Mĩ, chỉ với khoảng 65% đất nông nghiệp, kinh tế hộ nông dân đã tạo ra
một lượng nông sản chiếm khoảng 70% giá trị sản phẩm nông nghiệp, 50%
sản lượng ngô toàn thế giới.
+ở Nhật Bản, kinh tế hộ nông dân đã sản xuất ra một khối lượng sản
phẩm đủ cung cấp cho nhu cầu của cả nước với khối lượng: 100% nhu cầu về
gạo; 81% nhu cầu về thịt; 98% nhu cầu về trứng; 90% đến 95% nhu cầu về
rau, quả...
+ở Việt Nam chúng ta với trên 10 triệu hộ nông dân, hàng năm đã tạo ra

một khối lượng nông sản thực phẩn cực lớn với sự tiến bộ vượt bậc, theo
thống kê năm 2000 thì khối lượng sản phẩm của toàn ngành nông nghiệp là:
35,36 triệu tấn lương thực quy thóc, xuất khẩu đạt 3,6 triệu tấn gạo, đã trồng
được 717 nghìn ha ngô, sản lượng xuất khẩu cà phê đạt 694 nghìn tấn, cao su
đạt 280 nghìn tấn, sản lượng thịt, trứng liên tục tăng với tốc độ cao, chúng ta
không những đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm cho nhân dân cả nước
mà còn vươn lên trở thành một trong những nước xuất khẩu nông sản lớn trên
thế giới.
-Hình thành đơn vị tích tụ vốn của xã hội.
Kinh tế hộ nông dân với đặc điểm là đơn vị sản xuất cơ sở và tự chủ đã
đóng vai trò là đơn vị tích tụ vốn của xã hội, cùng vời các đơn vị trong các
thành phần kinh tế khác tạo lên một tổng thể các nguồn vốn phục vụ cho nhu
cầu về vốn của toàn xã hội.
Nguồn vốn mà các hộ nông dân tích tụ được là cơ sở cho việc chuyển từ
kinh tế tự túc tự cấp sang kinh tế hàng hoá với hiệu quả cao mang lại. Kết quả
ấy sẽ tạo điều kiện cho việc chuyển dịch cơ cấu ngành nghề trong nông nghiệp,
góp phần tích cực và to lớn vào sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh của minh, kinh tế hộ nông dân vừa
là đơn vị tích tụ vốn, vừa đóng vai trò là đơn vị giải ngân nguồn vốn đó vào
việc tái sản xuất hoặc mở rộng ngành nghề, tạo nguồn đầu tư vào các ngành
khác.
-Tạo công ăn việc làm cho người lao động.
Trong quá trình sản xuất, kinh tế hộ nông dân cần sử dụng nhiều lao động
với số ngày công rất cao. Tuy nhiên với mỗi dạng hộ khác nhau, ở mỗi thời
điểm và thời kỳ phát triển của hộ khác nhau mà có nhu cầu về lao động không
giống nhau:
+Sử dụng lao động gia đình:
Hộ nông dân chủ yếu sử dụng lao động trong gia đình và lao động trong
gia đình cũng là nguồn chủ yếu cung cấp cho nhu cầu của hộ, chúng ta phải nói

rằng đa số lao động trong hộ đều làm việc cho sự phát triển và mục tiêu sản
xuất cũng như quá trình sản xuất của hộ nông dân.
+Sử dụng lao động gia đình ngoài độ tuổi lao động.
Hiện nay, một tình trạng khá phổ biến là ở các hộ nông dân, việc sử dụng
lao động ngoài độ tuổi lao động, đó là các trẻ em và người lớn tuổi, với cách
tính cứ hai lao động này bằng một lao động chính đã góp phần tăng thu nhập
cho hộ, giải phóng dần lực lượng lao động chính ra khỏi nông nghiệp đến một
mức hợp lý.
+Sử dụng lao động làm thuê:
Việc sử dụng lao động làm thuê rất ít khi xẩy ra ở những hộ tự túc tự cấp,
sản xuất nhỏ nhưng lại là việc làm khá phổ biến ở các hộ nông dân sản xuất
hàng hoá và sản xuất lớn. Những hộ nông dân này việc thuê mướn thêm lao
động thường xuyên hoặc vào thời vụ là điều cần thiết với tiền công hợp lý đã
tạo ra một số lượng công ăn việc làm khá lớn cho những lao động dư thừa ở
nông thôn hiện nay.
Kinh tế hộ nông dân, trong quá trình sản xuất và phát triển của mình cần
rất nhiều ngày công lao động. Thực tế đã chứng minh qua những năm vừa
qua, kinh tế hộ nông dân đã giải quyết cho hàng triệu lao động ở nông thôn
nước ta, góp phần quan trọng vào công cuộc giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động.
-Thực hiện phân công lao động theo đơn vị kinh tế hộ nông dân.
Cùng với quá trình phát triển của mình kinh tế hộ nông dân ngày càng có
điều kiện để tích luỹ tái sản xuất theo cả chiều rộng và chiều sâu, khoa học kỹ
thuật và công nghệ cũng như máy móc được áp dụng và sử dụng vào sản xuất
ngày càng nhiều. Trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm của người nông dân ngày
càng được nâng lên rõ rệt thêm vào đó là sự phù hợp trong cơ chế và các chính
sách của nhà nước sẽ giúp cho sản xuất ngày càng phát triển số lao động phục
vụ cho nhu cầu của kinh tế hộ về nông nghiệp ngày càng giảm, sẽ dẫn đến tình
trạng dư thừa lao động trong nông nghiệp. Số lao động dư thừa này với trình
độ ngày càng được nâng lên sẽ chuyển dịch sang làm việc tại các ngành, nghề

khác, nhất là các ngành nghề truyền thống sẽ ngày càng phát triển.
Tất cả những điều này sẽ dẫn tới diện tích đất nông nghiệp trên đầu
người sẽ tăng, năng xuất lao động tăng và hiệu quả sản xuất của một lao động
sẽ không ngừng được nâng lên.
-Đổi mới kỹ thuật sản xuất.
Sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ nông dân với tư cách là một thành
phần kinh tế tồn tại và luôn đổi mới cùng với quá trình đổi mới, phát triển của
nền kinh tế nói chung. Kinh tế hộ nông dân chịu sự ảnh hưởng tác động của
các thành phần kinh tế khác, của nhiều yếu tố khác. Qua quá trình hoạt động,
nó luôn phát triển hướng tới hoàn thiện mình, mà đổi mới về kỹ thuật sản xuất
chỉ là một mặt đổi mới của nó. Sự đổi mới về kỹ thuật sản xuất có được là do
các nguyên nhân tác động sau đây:
+Người nông dân với kinh nghiệm sản xuất của mình ngày càng làm tốt
hơn công việc của mình, phát hiện những khó khăn cần khắc phục và những
thuận lợi cần khai thác phát huy.
+Cùng với quá trình phát triển của mình, việc đầu tư cho đổi mới trang
thiết bị sản xuất là điều tất yếu mà việc học hỏi khoa học kỹ thuật mới là việc
làm thực sự cần thiết.
+Trong đời sống kinh tế hộ nông dân thì việc cạnh tranh lành mạnh, sự
ghanh đua với những kết quả đạt được sẽ là động lự là nhân tố tích cực đầu tư
và học hỏi.
+Cùng với sự quan tâm về giáo dục của nhà nước, các mạng lưới khuyến
nông ngày càng hoạt động có hiệu quả thì một hệ quả là trình độ của người
lao động trong hộ nông dân ngày một nâng lên. Điều này thực sự là nhân tố
tích cực giúp vận dụng tốt những điều kiện vốn có những tư liệu sản xuất
trong nông hộ được kết hợp có khoa học mang lại hiệu quả kinh tế cao.
+Qua thời gian và sự phát triển của nền kinh tế, đầu tư của nhà nước cho
nông nghiệp cũng ngày một tăng, góp phần khai thác tốt những tiềm năng, ưu
thế riêng có của hộ.
Tất cả những điều nói trên kết hợp với nhau một cách hài hoà, khoa học,

kinh nghiệm truyền thống kết hợp với kỹ thuật hiện đại làm cho sản phẩm sản
xuất ngày càng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn, giá thành hạ hơn, lợi nhuận thu
được cao hơn. Đó cũng là mục tiêu cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế hộ
nông dân.
Sản xuất hàng hoá có thể sớm được áp dụng những tiến bộ khoa học,
công nghệ, nhất là công nghệ sinh học vào sản xuất.
-Giữ gìn và làm trong sạch môi trường sinh thái.
Vấn đề môi trường và ô nhiễm môi trường ngày nay đang được toàn thể
nhân loại quan tâm cùng giải quyết. Giữ gìn và làm trong sạch môi trường là
vấn đề đang được đặt nên vị trí hàng đầu hiện nay. Kinh tế hộ nông dân, hàng
năm với hàng triệu ha cây xanh các loại được gieo trồng đã góp phần to lớn
vào công cuộc bảo vệ môi trường trên thế giới. Đó là điều mà không ai trong
chúng ta có thể phủ nhận.
Từ sự tìm hiểu về bản chất, đặc trưng và vai trò của kinh tế hộ nông dân
như đã nêu ở trên, chúng ta có thể khẳng định kinh tế hộ nông dân sẽ tồn tại và
luôn là một thành phần kinh tế quan trọng của mọi quốc gia, sự phát triển của
nó không những làm cho đời sống của người dân ngày càng được nâng cao,
các nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp ngày càng được khai thác đầy đủ
mà còn có tác dụng to lớn thúc đẩy sự phát triển của các thành phần, các
ngành kinh tế khác:
Đối tượng sản xuất của kinh tế hộ nông dân có đặc điểm riêng biệt đó là
cây trồng và vật nuôi, là những cơ thể sống, chúng sinh trưởng và phát triển
theo những quy luật sinh học nhất định. Là các cơ thể sống, vì vậy chúng rất
nhạy cảm với môi trường tự nhiên mỗi sự thay đổi về thời tiết, khí hậu, về sự
chăm sóc của con người đều có tác động trực tiếp đến quá trình phát sinh và
phát triển của chúng, và tất nhiên là ảnh hưởng đến kết quả cuối cùng của sản
xuất. Do chúng có đặc điểm như vậy nên muốn đạt hiệu quả cao nhất thiết phải
có sự quan tâm đúng mực, thường xuyên và thực sự sát sao của con người. Mỗi
sự biến đổi, thay đổi nhỏ của những cơ thể sống này con người đều phải biết,
chúng cần phải được chăm sóc đúng lúc đúng chỗ, đúng khoa học. Để làm tốt

những điều này không một chủ thể nào khác mà chỉ có hộ nông dân đảm
đương nổi. Đặc điểm có đó chỉ phù hợp với trách nhiệm, chất lượng của lao
động gia đình, phù hợp với kiểu tổ chức sản xuất của kinh tế hộ nông dân.
-Thực tế phát triển kinh tế hộ nông dân đã cho thấy nhiều ưu điểm mà
không một chủ thể nào có được, hơn thế nữa phát triển kinh tế hộ nông dân
còn giúp phát triển lực lượng sản xuất, tạo công ăn việc làm và giải phóng lực
lượng ,năng lực sản xuất ở nông thôn. đây là việc làm thực sự có ý nghĩa với
bất kỳ một nền kinh tế nào, với bất kỳ một xã hội nào. Việc phát triển lực lượng
sản xuất, tạo công ăn việc làm là điều cần thiết cho sự phát triển của xã hội,
của con người. Năng lực sản xuất ở nông thôn, nhiều khi còn bị bó buộc, nhưng
nay nó đã được giải phóng, được phát huy tác dụng qua sự phát triển của kinh
tế hộ nông dân.
-Phát triển kinh tế hộ nông dân sẽ giúp khai thác hết mọi tiềm năng, tiềm
lực trong nông nghiệp-nông thôn. Khai thác và sử dụng có hiệu quả những tư
liệu sản xuất như đất đai, công cụ lao động...những yếu tố mà chỉ có kinh tế hộ
mới sử dụng có hiệu quả nhất.Sản xuất của hộ nông dân mang tính đa dạng,
tính thích ứng cao. Sự phân bố của kinh tế hộ mang tính rộng khắp. Sản phẩm
của nông nghiệp mang tính liên tục, không phân chia thành các bán thành
phẩm, không tính toán được kết quả ngay ở mỗi giai đoạn. Kinh tế hộ nông
dân tồn tại và phát triển khắc phục được những khó khăn tưởng chừng không
khắc phục nổi, khai thác được những tiềm năng mà không một chủ thể nào
khác khai thác được.

×