Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.27 KB, 28 trang )

TÍN DỤNG XUẤT NHẬP KHẨU VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG XUẤT
NHẬP KHẨU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại.
1.1.1. Khái niệm tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại.
Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại là sự tài trợ của
ngân hàng thương mại cho khách hàng để phục vụ hoạt động xuất nhập khẩu.
Xuất phát từ hoạt động thực tiễn hiện nay hầu hết các đơn vị thực hiện
hoạt động xuất nhập khẩu là các doanh nghiệp và ngân hàng chủ yếu phục vụ
đối tượng này nên trong phạm vi luận văn này người viết chỉ đề cập đến quan hệ
giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
1.1.2. Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Nguyên tắc hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại:
Việc hỗ trợ tài chính phải trên cơ sở thẩm định rõ khách hàng:
Đây là nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc vô cùng quan trọng
trong công tác tín dụng nói chung và tín dụng xuất nhập khẩu nói riêng, nó ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả của quyết định tín dụng cũng như những rủi ro mà
ngân hàng có thể gặp phải. Cán bộ tín dụng thẩm định hồ sơ khách hàng theo
các mục:
- Thẩm định tính khả thi của phương án sản xuất kinh doanh, của dự án.
- Đánh giá tình hình tài chính, công nợ của khách hàng.
- Tình hình sản xuất kinh doanh và khả năng trả nợ vay của khách hàng.
Ở hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu khách hàng phần lớn trả nợ bằng
doanh thu từ việc xuất khẩu hoặc doanh thu từ việc tiêu thụ hàng trong nước vì
vậy bên cạnh việc đánh giá chất lượng sản phẩm xuất khẩu cũng cần xem xét
sản phẩm của khách hàng có phù hợp với các chuẩn mực và quy định của nước
nhập khẩu hoặc xem xét hàng hóa có phù hợp với nhu cầu trong nước hay
không…, đánh giá khả năng phát triển của khách hàng.
Vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo đúng thời hạn đã cam kết:
Để thực hiện nguyên tắc này, Ngân hàng và khách hàng phải thỏa thuận
với nhau về số tiền vay, lãi suất và đặc biệt là thời hạn vay. Việc định kỳ hạn nợ
phải phù hợp với chu kỳ sản xuất, thời gian giao hàng, thời gian tiêu thụ hàng


hóa.
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích như đã cam kết khi vay vốn, có
hiệu quả kinh tế:
Khi cho khách hàng vay phải nắm rõ khách hàng vay để làm gì mà cụ
thể ở đây là thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu. Trong quá trình cho vay ngân
hàng sẽ giám sát việc sử dụng vốn vay của khách hàng, nếu không đúng mục
đích sẽ thực hiện thu hồi nợ trước hạn.
Việc sử dụng vốn vay phải được thẩm định là có hiệu quả kinh tế để đảm
bảo nguồn thu nợ gốc và lãi.
1.1.2.2. Những phương thức tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại:
Tín dụng xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại bao gồm nhiều hình
thức khác nhau và tuỳ trình độ phát triển của ngân hàng và những qui định của
pháp luật mà các ngân hàng lựa chọn áp dụng các hình thức cho phù hợp.
Dưới đây ta sẽ xem xét một số hình thức tín dụng xuất khẩu và tín dụng
nhập khẩu thông dụng.
Các phương thức tín dụng xuất khẩu:
Ngân hàng thương mại cấp tín dụng xuất khẩu cho các cơ sở xuất khẩu
dưới các hình thức như cho vay thông thường, cho vay trên cơ sở hối phiếu,
cho vay trên cơ sở phương thức thanh toán nhờ thu, cho vay trên cơ sở phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ, bao thanh toán.
* Cho vay thông thường:
Cho vay thông thường là việc ngân hàng giao cho khách hàng một
khoản tiền để họ sử dụng trong một thời gian nhất định. Khi hết hạn, người vay
phải trả đầy đủ cả gốc và lãi. Đây là hình thức tín dụng truyền thống, về kỹ
thuật và phương pháp cho vay giống như các dạng tín dụng nội địa tương ứng
thông thường khác. Nó bao gồm các phương thức như cho vay một lần, cho vay
theo hạn mức tín dụng. Đối với các nhà xuất khẩu hình thức tín dụng này ngoài
việc được sử dụng cho các mục đích thu mua sản xuất, chế biến xuất khẩu, đáp
ứng nhu cầu vốn lưu động nó còn được sử dụng để trang trải các chi phí phát
sinh trong quá trình sản xuất như phí thuê tàu, thuế xuất khẩu...

* Cho vay trên cơ sở hối phiếu:
Nhà xuất khẩu khi cần tiền có thể vay ngân hàng bằng cách đem chiết
khấu các hối phiếu chưa đến hạn trả tiền (số tiền vay bằng cách chiết khấu hối
phiếu thường nhỏ hơn số tiền ghi trên hối phiếu, số chênh lệch là lợi tức chiết
khấu). Hình thức tín dụng này rất phổ biến ở các nước bởi vì việc chiết khấu
thường dễ dàng và ngay khi giao chứng từ về hàng hoá người xuất khẩu đã có
thể sử dụng được lợi nhuận của hoạt động xuất khẩu để tái đầu tư.
Thời hạn vay bằng cách chiết khấu hối phiếu là thời hạn còn lại chưa đến
hạn thanh toán của hối phiếu. Người hoàn trả tiền vay và lợi tức là người có
nghĩa vụ trả tiền ghi trên hối phiếu.
Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau
khi đã trừ đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu. Giá trị chiết khấu thường được
xác định ở các ngân hàng theo công thức:
Lck
Tck = M x (1- x t ) - P
360
Trong đó: Tck: Giá trị chiết khấu
M: Mệnh giá hối phiếu
P: Lệ phí
t: thời gian chiết khấu (ngày)
Lck: lãi suất chiết khấu theo năm
Trong các yếu tố trên thì lãi suất chiết khấu thường được quan tâm hơn
cả. Tỷ lệ này phụ thuộc các yếu tố:
- Khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu.
- Thời hạn thanh toán.
- Giá trị hối phiếu...
* Chiết khấu bộ chứng từ hàng hoá:
Đây là hình thức tín dụng của ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu trên cơ
sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh toán. Với hình thức này ngân
hàng tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có thể thu hồi được vốn nhanh tương tự

như chiết khấu hối phiếu. Tỉ lệ chiết khấu phụ thuộc vào phương thức chiết
khấu:
- Chiết khấu bảo lưu quyền truy đòi: là ngân hàng sau khi thực hiện
chiết khấu bộ chứng từ, sẽ quay lại truy đòi nhà xuất khẩu nếu bên nước ngoài
từ chối thanh toán, lãi suất chiết khấu trong trường hợp này thường thấp.
- Chiết khấu miễn truy đòi: là trường hợp ngân hàng mua đứt bộ chứng
từ, nếu bên nước ngoài không thanh toán thì ngân hàng chiết khấu chịu rủi ro,
không được truy đòi lại khách hàng. Tỉ lệ chiết khấu này thường cao.
* Tín dụng ứng trước cho người xuất khẩu:
Trong quá trình chuẩn bị và thực hiện hợp đồng xuất khẩu các doanh
nghiệp cũng có thể đề nghị ngân hàng tạm ứng cho một nghiệp vụ xuất khẩu
cho đến khi thu được lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu. Hình thức tín dụng này
bao gồm hai hình thức cơ bản sau:
- Tín dụng ứng trước trong phương thức nhờ thu kèm chứng từ: Sau khi
lập xong bộ chứng từ hàng hoá, vận chuyển, bảo hiểm và các chứng từ liên quan
khác, nhà xuất khẩu sẽ nộp lên ngân hàng của mình nhờ thu hộ tiền. Ngân hàng
của nhà xuất khẩu sẽ chuyển đến ngân hàng của nhà nhập khẩu (hoặc ngân hàng
giao dịch) với chỉ thị chỉ giao chứng từ khi đã thanh toán. Trong nghiệp vụ này
ngân hàng tham gia chủ yếu với tư cách trung gian, thực hiện và thừa hành theo
uỷ nhiệm để giảm bớt những rủi ro về tiêu thụ, thanh toán cũng như về cung
ứng. Tuy nhiên, từ khi gửi các chứng từ tới ngân hàng xuất khẩu cho tới khi
xuất trình với người thanh toán thường mất một khoảng thời gian nhất định (đặc
biệt khi thoả thuận ngày thanh toán muộn hơn). Điều này làm cho các doanh
nghiệp xuất khẩu có thể thiếu vốn tạm thời. Khi đó họ có thể yêu cầu ngân hàng
ứng trước một phần trị giá với bộ chứng từ nhờ thu. Khoản tín dụng này có thể
do ngân hàng xuất khẩu hay ngân hàng nhập khẩu ứng trước.
Thường nhà xuất khẩu sử dụng hình thức này để tìm kiếm nguồn tài trợ
ngắn hạn phục vụ nhu cầu tiền mặt tạm thời. Tín dụng ứng trước trong phương
thức nhờ thu có thể xem như chiết khấu từng phần.
- Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ: Tín dụng

chứng từ phục vụ đặc biệt cho việc đảm bảo nhiệm vụ cung ứng và thanh toán
trong quan hệ ngoại thương nhưng nó cũng bao hàm cả các nhân tố tín dụng.
Tín dụng ứng trước trong phương thức tín dụng chứng từ được sử dụng
với L/C điều khoản đỏ. Đây là loại thư tín dụng qui định một khoản tiền ứng
trước của nhà nhập khẩu cho nhà xuất khẩu vào một thời điểm xác định, trước
khi xuất trình bộ chứng từ hàng hoá. Các điều khoản ứng trước thường được qui
định trong một điều kiện thuận lợi cho các bên liên lạc thực hiện.
Điều khoản này yêu cầu ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận
cấp cho nhà xuất khẩu một khoản tín dụng trước khi giao hàng. Nhà xuất khẩu
chịu chi phí liên quan còn ngân hàng mở L/C chịu trách nhiệm về khoản ứng
trước này.
Người nhập khẩu sẽ qui định rõ tổng giá trị tiền ứng trước, nó có thể là
tỉ lệ phần trăm hoặc thậm chí toàn bộ giá trị L/C (tuỳ thuộc quan hệ với nhà
xuất khẩu) và người nhập khẩu sẽ quyết định liệu người xuất khẩu sẽ phải xuất
trình vật gì làm đảm bảo cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận khi
nhận tiền ứng trước. Ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận sẽ thu hồi
số tiền ứng trước cộng với lãi sau khi ngân hàng mở L/C thanh toán (nếu có bộ
chứng từ phù hợp). Bên cạnh đó, các ngân hàng này cũng có quyền đòi số tiền
này ở ngân hàng mở L/C nếu nhà xuất khẩu vì một lí do gì đó không xuất trình
được chứng từ phù hợp với điều kiện của L/C.
Lời lẽ trong điều khoản đỏ có thể thay đổi tuỳ từng ngân hàng nhưng chủ
yếu có hai loại:
- Điều khoản đỏ trơn: Tiền được ứng trước với điều kiện người xuất
khẩu cam kết bằng văn bản tiền sẽ được sử dụng đúng mục đích quy định.
- Điều khoản đỏ chứng từ: Tiền sẽ được ứng trước nếu nhà xuất khẩu
cam kết cung cấp giấy nhập kho hoặc các chứng từ khác chứng minh quyền sở
hữu hàng hoá và sau đó xuất trình các chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín
dụng.
* Bao thanh toán:
- Bao thanh toán là một hình thức cấp tín dụng của Tổ chức tín dụng cho

bên bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua
bán hàng đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng
mua bán hàng. Bao thanh toán có thể phân thành 2 loại là bao thanh toán trong
nước và bao thanh toán xuất nhập khẩu trong đó bao thanh toán trong nước là
việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng mua bán trong nước còn bao thanh toán
xuất nhập khẩu là việc bao thanh toán dựa trên hợp đồng xuất nhập khẩu.
- Phương thức bao thanh toán:
+ Bao thanh toán từng lần: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng thực
hiện các thủ tục cần thiết và ký hợp đồng bao thanh toán đối với các khoản phải
thu của bên bán hàng theo từng lần.
+ Bao thanh toán theo hạn mức: Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng
thỏa thuận và xác định một hạn mức bao thanh toán duy trì trong một khoảng
thời gian nhất định.
+ Đồng bao thanh toán: hai hay nhiều đơn vị bao thanh toán cùng thực
hiện hợp đồng bao thanh toán cho một hợp đồng mua, bán hàng trong đó một
đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ chức bao thanh toán.
- Quy trình hoạt động bao thanh toán gồm các bước chính sau:
+ Bên bán hàng đề nghị đơn vị bao thanh toán thực hiện bao thanh toán
các khoản phải thu.
+ Đơn vị bao thanh toán thực hiện phân tích các khoản phải thu, tình
hình hoạt động và khả năng tài chính của bên bán hàng và bên mua hàng.
+ Đơn vị bao thanh toán và bên bán hàng đồng ký gửi văn bản thông báo
về hợp đồng bao thanh toán cho bên mua hàng và các bên liên quan, trong đó
nêu rõ việc bên bán hàng chuyển giao quyền đòi nợ cho đơn vị bao thanh toán
và hướng dẫn bên mua hàng thanh toán trực tiếp cho đơn vị bao thanh toán.
+ Bên mua hàng gửi văn bản cho bên bán hàng và đơn vị bao thanh toán
xác nhận về việc đã nhận được thông báo và cam kết về việc thực hiện thanh
toán cho đơn vị bao thanh toán.
+ Bên bán hàng chuyển giao bản gốc các hợp đồng mua, bán hàng,
chứng từ bán hàng và các chứng từ liên quan khác đến các khoản phải thu cho

đơn vị bao thanh toán.
+ Đơn vị bao thanh toán chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng theo
thỏa thuận trong hợp đồng bao thanh toán.
+ Đơn vị bao thanh toán theo dõi, thu nợ từ bên mua hàng.
+ Đơn vị bao thanh toán rất toán tiền với bên bán hàng theo quy định
trong hợp đồng bao thanh toán.
Các phương thức tín dụng nhập khẩu:
Các ngân hàng thương mại cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu dưới
các hình thức như cho vay mở thư tín dụng, chấp nhận hối phiếu, cho vay thấu
chi...
* Mở L/C và cho vay thanh toán L/C:
Thư tín dụng (L/C) là một văn bản pháp lý trong đó ngân hàng mở L/C
cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu nếu họ xuất trình được bộ chứng phù hợp với
những nội dung của L/C. Thư tín dụng có tính chất quan trọng là nó được hình
thành trên cơ sở của hợp đồng mua bán nhưng sau khi được thiết lập, nó lại độc
lập hoàn toàn với hoạt động mua bán. Ngay việc mở L/C đã thể hiện việc cung
cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu bởi vì mọi thư tín dụng đều do ngân hàng mở
theo đề nghị của nhà nhập khẩu nhưng không phải lúc nào nhà nhập khẩu cũng
có đủ số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng, trong khi đó L/C lại
là một đảm bảo thanh toán của ngân hàng tức là ngân hàng mở L/C phải chịu
mọi rủi ro khi nhà nhập khẩu không thanh toán hoặc không muốn thanh toán khi
L/C đã đến hạn trả tiền.
Qui trình nghiệp vụ phương thức tín dụng chứng từ:

(4)
(3) (5) (1) (8)
(2)
(6)
(7)
(1) Nhà nhập khẩu làm đơn xin mở L/C gửi đến ngân hàng của mình yêu cầu

được mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào đơn xin mở L/C, ngân hàng mở L/C sẽ lập một L/C và thông
qua ngân hàng đại lí của mình ở nước người nhập khẩu thông báo việc mở L/C
và chuyển L/C đến người xuất khẩu.
(3) Khi nhận được thông báo trên ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho nhà
xuất khẩu toàn bộ nội dung về việc mở L/C và khi nhận được bản gốc L/C thì
chuyển ngay cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng nếu
không thì đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung L/C cho phù hợp với hợp
đồng.
(5) Sau khi giao hàng người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của L/C
và xuất trình thông qua ngân hàng thông báo cho ngân hàng mở L/C xin thanh
toán.
Nhà xuất
khẩu
Nhà nhập
khẩu
Ngân hàng
phát hành
L/C
Ngân hàng
thông báo
(6) Ngân hàng thông báo gửi chứng từ cho ngân hàng phát hành yêu cầu
thanh toán cho nhà xuất khẩu.
(7) Ngân hàng mở L/C kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với L/C thì
tiến hành trả tiền cho nhà xuất khẩu, nếu không thấy phù hợp thì từ chối thanh
toán và gửi trả lại bộ chứng từ cho người xuất khẩu.
(8) Ngân hàng mở L/C đòi tiền nhà nhập khẩu và chuyển bộ chứng từ cho
người nhập khẩu sau khi nhận tiền hoặc chấp nhận thanh toán.
Ngày nhận nợ được và tính lãi khoản cho vay thanh toán L/C là ngày nhà

nhập khẩu phải thanh toán cho nhà xuất khẩu (ngày đến hạn thanh toán L/C).
Mở L/C và cho vay thanh toán L/C có ưu điểm là cung cấp tín dụng kịp
thời cho hoạt động nhập khẩu. Tuy nhiên cũng có rủi ro cho ngân hàng và nhà
nhập khẩu vì L/C chỉ được xử lí trên cơ sở chứng từ chứ không căn cứ trên hàng
hoá, nếu hàng hoá kém giá trị hay hư hỏng thì ngân hàng và nhà nhập khẩu dễ
bị tổn thất.
* Tín dụng chấp nhận hối phiếu:
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là hình thức tín dụng được thực hiện trên
cơ sở ngân hàng kí hợp đồng tín dụng với nhà nhập khẩu. Trong đó, các ngân
hàng cam kết chấp nhận các hối phiếu mà khách hàng của mình phải thanh toán.
Hình thức tín dụng này đảm bảo cho người nhập khẩu thanh toán khi đến hạn.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu thường được dùng trong trường hợp người
bán thiếu tin tưởng khả năng thanh toán của người mua và họ đề nghị bên mua
có một ngân hàng đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do họ kí phát. Nếu ngân
hàng đồng ý cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận cung cấp một khoản tín
dụng cho bên mua.
Đối với ngân hàng kể từ khi kí chấp nhận hối phiếu cũng chính là thời
điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro, nếu người mua không có tiền thanh toán cho bên
bán khi hối phiếu đến hạn thanh toán. Tuy nhiên, nếu đến thời hạn thanh toán
người mua có đủ tiền thì ngân hàng có thể không phải ứng tiền ra. Như vậy,
khoản tín dụng chỉ là hình thức, một sự đảm bảo tài chính. Lúc này ngân hàng
nhận được một khoản phí chấp nhận, nó là khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh
chịu rủi ro của ngân hàng.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu đem lại sự thuận lợi cho không chỉ người
xuất khẩu mà cả với người nhập khẩu:
- Với sự chấp nhận của ngân hàng, nhà xuất khẩu có được một sự đảm
bảo vững chắc về khả năng chi trả của hối phiếu và họ có thể đem hối phiếu đi
chiết khấu tại bất kì ngân hàng nào. Khả năng thương mại của hối phiếu này rất
lớn, nó tạo cho nhà xuất khẩu được hưởng một tỉ lệ chiết khấu ưu đãi.
- Đối với nhà nhập khẩu, hình thức tín dụng này có vai trò quan trọng

trong nghệ thuật thương mại. Nhà nhập khẩu lập một hối phiếu kèm đơn xin vay
yêu cầu ngân hàng ký chấp nhận hối phiếu dù ngân hàng không có quan hệ nợ
nần với anh ta. Đó là một sự thoả thuận ngầm, một nghệ thuật vay vốn. Sau đó
nhà nhập khẩu có thể đem hối phiếu đã được chấp nhận đi chiết khấu tại ngân
hàng khác. Với khoản tiền thu được từ việc chiết khấu nhà nhập khẩu có thể
thanh toán trước hạn cho nhà xuất khẩu để hưởng hoa hồng.
* Tín dụng ứng trước cho nhập khẩu:
Cũng như các nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu cũng rất cần được cho vay
theo hình thức ứng trước của ngân hàng. Đó là khi họ cần phải thanh toán tiền
cho nhà xuất khẩu. Ngoài ra, nhà nhập khẩu cũng có thể phát sinh nhu cầu tài
trợ để thanh toán cho bộ chứng từ khi hàng hoá chưa về đến cảng và doanh
nghiệp chưa tiêu thụ được hàng hoá để thu hồi vốn. Ngân hàng tài trợ trong
trường hợp này có thể sử dụng các chứng từ hàng hoá làm vật đảm bảo. Đây
cũng chỉ là việc tài trợ cho các mục tiêu thanh toán ngắn hạn của ngân hàng
dành cho các nhà nhập khẩu.
* Bao Thanh toán:
Việc thực hiện bao thanh toán xuất nhập khẩu cũng có thể thực hiện
thông qua đơn vị bao thanh toán nhập khẩu. (Đơn vị bao thanh toán nhập khẩu
là đơn vị được phép hoạt động bao thanh toán tham gia vào quy trình bao thanh
toán xuất nhập khẩu). Khi đó đơn vị bao thanh toán nhập khẩu chịu trách nhiệm
phân tích các khoản phải thu, tình hình hoạt động, khả năng tài chính của bên
mua hàng là bên nhập khẩu trong hợp đồng xuất nhập khẩu, thực hiện việc thu
nợ theo ủy quyền của đơn vị bao thanh toán xuất nhập khẩu và cam kết sẽ thanh
toán thay cho bên nhập khẩu trong trường hợp bên nhập khẩu không có khả
năng thanh toán khoản phải thu.
Trường hợp hoạt động bao thanh toán thực hiện qua đơn vị bao thanh
toán nhập khẩu, đơn vị bao thanh toán nhập khẩu và đơn vị bao thanh toán xuất
khẩu phải thỏa thuận ký kết một hợp đồng riêng.
* Phát hành Thư Bảo lãnh:
Hai hình thức bảo lãnh được áp dụng phổ biến hiện nay là phát hành thư

bảo lãnh vay vốn và phát hành L/C trả chậm.
- Phát hành Thư bảo lãnh vay vốn: Ngân hàng có thể phát hành thư bảo
lãnh vay vốn để khách hàng thực hiện vay vốn tại một tổ chức tín dụng khác để
nhập khẩu. Thông thường nghiệp vụ này được thực hiện khi Tổ chức tín dụng
cho vay là ngân hàng nước ngoài và ngân hàng nước ngoài này cho các Doanh
nghiệp trong nước vay để nhập khẩu các máy móc thiết bị được sản xuất tại
nước họ với điều kiện vay vốn là phải có bảo lãnh của một ngân hàng thương
mại trong nước.
- Bảo lãnh bằng cách phát hành L/C trả chậm:
Đây là hình thức được áp dụng phổ biến và đối với các Doanh nghiệp
trong nước và bản chất là một hình thức vay vốn, tranh thủ vốn nước ngoài đơn
giản và dễ dàng được chấp thuận bằng cách mua chịu hàng hóa. Ngân hàng
thương mại trong nước sẽ phát hành Thư bảo lãnh trả chậm cho Doanh nghiệp.
Khi hàng hóa nhập khẩu về sau một thời gian nhất định được quy định trong
L/C mới đến hạn phải trả phía nước ngoài (bản chất chi phí lãi vay đã được tính
trong giá thành hàng hóa). Doanh nghiệp sẽ có một khoảng thời gian để tiêu thụ
sản phẩm, thu xếp vốn để nộp vào ngân hàng và trả cho bên bán.
1.1.3. Vai trò của tín dụng xuất nhập khẩu.

×