Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Bài tập nhóm môn Luật Tố tụng dân sự 9 điểm: Thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.23 KB, 19 trang )

BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

BÀI TẬP NHÓM
MÔN: LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ
ĐỀ BÀI: 02

THẨM QUYỀN DÂN SỰ THEO LOẠI VIỆC VỀ
TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
CỦA TÒA ÁN

Hà Nội, 2020


MỤC LỤC
MỤC LỤC.........................................................................................................................1
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................................1
I. Thẩm quyền dân sự của Tòa án và thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc..................1
1. Thẩm quyền dân sự của Tòa án...............................................................................................1
2. Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc........................................................................1
II. Thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án..............2
1. Khái niệm thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án.
.....................................................................................................................................................2
2. Đặc điểm thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án.
.....................................................................................................................................................2
3. Các tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.....................3
3.5. Tranh chấp về cấp dưỡng.....................................................................................................6
3.6. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
.....................................................................................................................................................6
3. Kiến nghị hoàn thiện.............................................................................................................11


PHỤ LỤC..................................................................................................................................13
1. Tóm tắt bản án.......................................................................................................................13
2. Phân tích bản án....................................................................................................................14


MỞ ĐẦU
Tòa án là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với
vai trò bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa. Đối với các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, thương mại,
pháp luật quy định Tòa án có quyền thụ lý và giải quyết theo thủ tục tố tụng dân
sự. Thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án có thể được tiếp cận dưới
ba góc độ: thẩm quyền theo loại việc; thẩm quyền theo cấp xét xử và thẩm
quyền theo lãnh thổ. Để tìm hiểu sâu hơn về thẩm quyền dân sự của Tòa án,
nhóm chúng em xin phép lựa chọn đề tài số 02 : “ Thẩm quyền dân sự theo loại
việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án ” làm đề tài nghiên cứu.
NỘI DUNG
I. Thẩm quyền dân sự của Tòa án và thẩm quyền dân sự của Tòa án theo
loại việc.
1. Thẩm quyền dân sự của Tòa án.
Xuất phát từ những đặc thù về tổ chức hệ thống tòa án, khái niệm thẩm quyền
của tòa án được tiếp cận dưới ba góc độ là thẩm quyền theo loại việc, thẩm
quyền của tòa án các cấp và thẩm quyền của tòa án theo lãnh thổ. Trên cơ sở đó,
thẩm quyền dân sự của tòa án được định nghĩa như sau:
“ Thẩm quyền dân sự của tòa án là quyền xem xét giải quyết các vụ việc và
quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó theo thủ tục tố
tụng dân sự của tòa án.”1
2. Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc.
Thẩm quyền dân sự của Tòa án theo loại việc là thẩm quyền của Tòa án trong
việc thụ lý giải quyết các vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự. Điều 102 Hiến
pháp năm 2013, Điều 2 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Điều 1 Bộ

luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sau đây xin được gọi là BLTTDS ) đều ghi nhận
thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các vụ án và các việc về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự.
1

Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,

2017, trang 59.

1


II. Thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình
của Tòa án.
1. Khái niệm thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân
và gia đình của Tòa án.
Tranh chấp hôn nhân và gia đình được hiểu là những tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ pháp luật hôn nhân và
gia đình thuộc thẩm quyền về dân sự của Tòa án. Do đó, thẩm quyền dân sự của
Tòa án theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình là quyền xem xét, giải
quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình và quyền ra quyết định khi xem xét,
giải quyết các tranh chấp này theo thủ tục tố tụng dân sự.
2. Đặc điểm thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và
gia đình của Tòa án. 2
Thẩm quyền dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa
án mang những đặc điểm chung của thẩm quyền giải quyết tranh chấp dân sự
của Tòa án. Đó là những đặc điểm sau:
Thứ nhất, thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình của
Tòa án phát sinh khi có yêu cầu của đương sự và bị giới hạn bởi phạm vi yêu

cầu của đương sự.
Quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đình phát sinh giữa các chủ thể là những
thành viên trong gia đình, gắn bó với nhau bởi yếu tố tình cảm hoặc huyết thống.
Như vậy, quan hệ này mang tính chất riêng tư. Do đó, việc phát sinh hay không
phát sinh tranh chấp phụ thuộc vào ý chí giữa các đương sự. Ý chí này được thể
hiện qua việc đương sự nộp đơn khởi kiện hoặc đơn yêu cầu đến Tòa án. Dựa
trên nội dung đơn khởi kiện hay đơn yêu cầu, Tòa án có quyền xem xét và giải
quyết trong giới hạn nội dung này. Điều 5 của BLTTDS về quyền quyết định và
tự định đoạt của đương sự đã thể hiện rõ điều này.
Thứ hai, thẩm quyền giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án
chịu sự chi phối bởi ý chí hoặc sự lựa chọn của các đương sự.
2

Thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của Tòa án và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân

dân ở tỉnh Sơn La :luận văn thạc sĩ Luật học /Nguyễn Hoàng Bảo Tuấn ; PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà hướng
dẫn, Hà Nội, 2018, trang 13.

2


Cũng tại Điều 5 của BLTTDS cũng đã thể hiện, theo đó đương sự có quyền
quyết định việc khởi kiện, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân
sự và trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, đương sự có quyền chấm dứt,
thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không
vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức pháp luật
Thứ ba, xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình của
Tòa án dựa trên cơ sở quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình
được quy định trong BLTTDS. Đây là căn cứ pháp lý để Tòa án thực hiện thẩm

quyền của mình để giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình.
Ngoài những đặc điểm chung nói trên, thẩm quyền dân sự theo loại việc về
tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án còn có những đặc điểm riêng sau:
Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình căn cứ vào
pháp luật nội dung mà các bên có tranh chấp. Pháp luật nội dung là cơ sở để Tòa
án xác định thẩm quyền về loại việc đối với từng nội dung yêu cầu cụ thể của
đương sự, đồng thời là cơ sở để hội đồng xét xử xem xét và đánh giá, giải quyết
quyền và nghĩa vụ của các bên. Khác với việc giải quyết các tranh chấp dân sự,
Tòa án thường giải quyết các quyền và nghĩa vụ về tài sản thì đối với việc giải
quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình, Tòa án thường phải giải quyết các
quyền và nghĩa vụ về nhân thân.
3. Các tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của
Tòa án.
Theo Điều 28, BLTTDS, Tòa án có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn
nhân và gia đình sau:
3.1. Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn và sau khi ly
hôn.
Đối với tranh chấp này, thẩm quyền của Tòa án được xác định trong từng
trường hợp, cụ thể như sau:
Trường hợp thứ nhất, một bên vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn hay còn gọi là
ly hôn đơn phương. Về nguyên tắc chỉ có vợ, chồng có quyền yêu cầu ly hôn. 3
3

Căn cứ cho trường hợp này được quy định tại khoản 1 Điều 51 Luật HN & GĐ 2014

3


Trường hợp một trong hai bên vợ hoặc chồng không đồng ý ly hôn thì bên còn
lại có thể làm đơn ly hôn theo yêu cầu của một bên. Căn cứ ly hôn trong trường

hợp này được quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân & gia đình năm 2014
( sau đây xin được gọi là Luật HN & GD). Thủ tục đơn phương ly hôn được nộp
tại tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản
1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS.
Trường hợp thứ hai, cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu ly hôn khi một
bên vợ, chồng bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do
chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe,
tinh thần của họ.4 Để bảo vệ quyền lợi cho các đương sự, khi họ không thể thực
hiện quyền ly hôn của mình thì cha, mẹ, người thân thích khác 5 có thể thay
vợ/chồng yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.
Trường hợp thứ ba, thuận tình ly hôn6. Vợ chồng thuận tình ly hôn phải có
sự thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo
dục con trên cơ sở đảm bảo quyền lợi chính đáng của con. Nếu họ không thỏa
thuận được hoặc có thỏa thuận nhưng không đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của vợ, con thì Tòa án giải quyết việc ly hôn.
3.2. Tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn
nhân.
Căn cứ pháp lý để chia tài sản chung của vợ chồng là quy định tại Khoản 1
Điều 38 Luật HN & GĐ 7.
Nếu không thỏa thuận được thì yêu cầu tòa án giải quyết trong những trường
hợp sau:
Một bên vợ hoặc chồng yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
nhưng bên còn lại không muốn.
4

Căn cứ ly hôn trong trường hợp này được quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật HN & GĐ 2014
Người thân thích khác là những người không phải cha, mẹ mà có quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng, người có cùng

5


dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba đời.
6

Căn cứ ly hôn trong tường hợp này được quy định tại Điều 55 Luật HN & GĐ 2014

7

Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường

hợp quy định tại Điều 42 của Luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết

4


Cả hai bên vợ chồng đều yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
nhưng không thỏa thuận được về phần tài sản đem chia, cách chia,…
Theo khoản 3 Điều 38 Luật HN & GĐ khi có yêu cầu của vợ, chồng hoặc
của cả hai vợ chồng, tòa án sẽ thụ lý và áp dụng nguyên tắc chia tài sản chung
của vợ chồng như khi ly hôn để giải quyết. Về hiệu lực, việc chia tài sản chung
của vợ chồng có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực
pháp luật theo quy định tại khoản 3 Điều 39 Luật HN & GĐ . Sau đó, nếu hai vợ
chồng muốn chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn
nhân, phải yêu cầu tòa án công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực.
3.3. Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
Theo quy định tại Điều 84 của Luật HN & GĐ, nếu có tranh chấp về việc thay
đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì Tòa án quyết định việc thay đổi
người trực tiếp nuôi con khi xét thấy người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều
kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục con. Việc thay đổi người trực tiếp
nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ 07 tuổi trở lên. Tại khoản 5 của

Điều này cũng quy định người có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi
con sau khi ly hôn bao gồm: cha, mẹ; người thân thích; cơ quan quản lý nhà
nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; hội liên hiệp phụ nữ.
Người có yêu cầu thay đổi người nuôi con thì phải cung cấp chứng cứ để
chứng minh người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện để chăm sóc tốt
cho con, như: không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con (về sức khỏe, học tập, tinh thần).
3.4. Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha,
mẹ.
Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ là
việc xem xét, giải quyết và xác định có mối quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ và
con hay không. Đó có thể là tranh chấp xác định con cho cha mẹ hoặc xác định
cha mẹ cho con.
Điều 101 Luật HN & GĐ 2014 quy định thẩm quyền của Tòa án giải quyết
việc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp có tranh chấp hoặc người được yêu
cầu xác định là cha, mẹ, con đã chết và trường hợp quy định tại Điều 92 của
5


Luật HN & GD. Cụ thể, tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định
con cho cha mẹ được tòa án giải quyết theo thủ tục vụ án dân sự là trường hợp
sau: Người có liên quan yêu cầu không đồng ý (trong trường hợp người liên
quan đến yêu cầu là người chưa thành niên thì được xác định là tranh chấp khi
cha hoặc mẹ của người đó không đồng ý). Nếu người yêu cầu xác định cha, mẹ,
con đã chết thì người thân thích của họ có thể tiếp tục tham gia vụ án đó (Điều
92 Luật HN & GD).
Theo điều 102 Luật HN & GĐ, tùy từng trường hợp mà người có quyền yêu
cầu xác định cha, mẹ, con có thể là cha, mẹ, con, người giám hộ; cơ quan quản
lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; hội liên hiệp phụ
nữ.

3.5. Tranh chấp về cấp dưỡng.
Theo khoản 24 Điều 3 Luật HN & GĐ quy định về cấp dưỡng là việc một
người có nghĩa vụ đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của người không sống chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống
hoặc nuôi dưỡng trong trường hợp người đó là người chưa thành niên, người đã
thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
hoặc là người gặp khó khăn, túng thiếu. Như vậy, nghĩa vụ cấp dưỡng chính là
nghĩa vụ phái sinh từ nghĩa vụ nuôi dưỡng khi những người có nghĩa vụ nuôi
dưỡng không sống chung với nhau. Tranh chấp về cấp dưỡng diễn ra phổ biến,
bao gồm các tranh chấp về mức cấp dưỡng, điều kiện cấp dưỡng, thay đổi người
trực tiếp nuôi con và người cấp dưỡng sau khi ly hôn,.. Thẩm quyền giải quyết
của Tòa án trong tranh chấp về cấp dưỡng được quy định tại Chương VII của
Luật HN & GD.
3.6. Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo.
Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản gồm các trường hợp:
Cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân yêu cầu cơ sở y tế bồi
thường thiệt hại cho họ do có nhầm lẫn trong quá trình áp dụng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản, không sử dụng noãn của người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh hoặc
6


noãn của người phụ nữ độc thân hoặc tinh trùng của người chồng theo thỏa
thuận giữa các bên nhưng cơ sở y tế không đồng ý.
Cặp vợ chồng vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân yêu cầu cơ sở y tế bồi
thường thiệt hại vì có sai sót trong quá trình áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, ví
dụ: không thực hiện đúng quy trình nuôi cấy phôi dẫn đến hỏng phôi…, nhưng
cơ sở y tế không đồng ý.
Cặp vợ chồng vô sinh yêu cầu cơ sở y tế bồi thường thiệt hại do cố tình sử
dụng số phôi còn dư sau khi họ có con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà không

được sự đồng ý của họ nhưng cơ sở y tế không đồng ý.
Tranh chấp về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, gồm:
Bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ giao đứa trẻ nhưng bên
mang thai hộ không thực hiện.
Bên mang thai hộ giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ nhưng bên nhờ
mang thai hộ từ chối nhận con.
Bên mang thai hộ yêu cầu bên nhờ mang thai hộ hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe
sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con nhưng
bên nhờ mang thai hộ không thực hiện
Bên nhờ mang thai hộ yêu cầu bên mang thai hộ bồi thường thiệt hại khi cố
tình không tuân thủ quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện,
điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo quy định của Bộ Y tế.
Bên mang thai hộ yêu cầu bên nhờ mang thai hộ bồi thường khi chậm nhận
con gây thiệt hại cho bên họ nhưng bên nhờ mang thai hộ không thực hiện.
Bên mang thai hộ yêu cầu được nhận nuôi đứa trẻ khi chưa giao đứa trẻ mà cả
hai vợ chồng bên nhờ mang thai hộ chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự
nhưng người thân thích khác của bên nhờ mang thai hộ không đồng ý.
3.7. Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy việc kết hôn
trái pháp luật.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật là việc tòa án theo yêu cầu của cá nhân, cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, xem xét và
7


quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật làm cho quan hệ hôn nhân trái pháp
luật này không còn tồn tại nữa.8
Chung sống như vợ chồng là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung và coi
nhau là vợ chồng9. Việc nam, nữ chung sống như vợ chồng không làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ giữa họ được pháp luật thừa nhận, trừ những trường hợp

xác lập quan hệ vợ chồng trước ngày 03/01/1987. Khi nam, nữ không còn chung
sống, giữa họ có thể có những sự ràng buộc về tài sản và con cái (nếu có). Việc
họ không thỏa thuận được về việc phân chia tài sản hay thực hiện quyền và
nghĩa vụ với con cái là nguyên nhân dẫn đến những tranh chấp về vấn đề này
xảy ra. Những tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam, nữ chung sống với
nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp
luật sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án10.
Việc giải quyết tranh chấp được chia thành hai trường hợp sau:
Trường hơp phát sinh tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa nam, nữ chung
sống với nhau như vợ chồng hoặc và con thì Tòa án sẽ giải quyết dựa trên quy
định của Luật HN & GD về quyền và nghĩa vụ cả cha mẹ và con 11. Nam, nữ
chung sống với nhau như vợ chồng, tuy không được pháp luật thừa nhận nhưng
giữa họ và con có quan hệ huyết thống, nên vẫn chịu sự điều chỉnh của luật HN
& GĐ. Đối với tranh chấp về quyền và nghĩa vụ về cha, mẹ và con trong trường
hợp hủy việc kết hôn trái pháp luật thì sẽ giải quyết theo quy định về quyền,
nghĩa vụ của cha, mẹ, con khi ly hôn12.
Trường hợp phát sinh tranh chấp về việc chia tài sản khi nam nữ không còn
chung sống với nhau như vợ, chồng hoặc khi hủy việc kết hôn trái pháp luật, thì
Tòa án giải quyết theo quy định của Bộ luật Dân sự và các quy định khác của
pháp luật có liên quan13. Cụ thể, tòa án sẽ áp dụng các nguyên tắc chia tài sản
chung theo phần để giải quyết. Nếu giữa họ có con cái thì khi giải quyết tranh
8

Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

9

Khoản 7 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014

10


Khoàn 7 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Điều 15 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
12
Khoản 2 Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
13
Điều 16 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Khoản 3 Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình 2014
11

8


chấp tài sản, tòa án phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ nữ và con;
công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung được
coi như lao động có thu nhập.
3.8. Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình, trừ trường hợp thuộc
thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của pháp
luật.
Quy định trên được hiểu rằng trừ những tranh chấp hôn nhân và gia đình được
pháp luật ghi nhận rõ thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác thì
các trường hợp tranh chấp hôn nhân và gia đình còn lại đều thuộc thẩm quyền
giải quyết của Tòa án. Quy định này mang tính dự liệu, mở rộng thẩm quyền
giải quyết của Tòa án đối với các tranh chấp hôn nhân và gia đình có thể phát
sinh trong tương lai.
Từ những phân tích trên, có thể thấy, thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết
các tranh chấp hôn nhân và gia đình là cơ sở pháp lý đầu tiên cho phép Tòa án,
cụ thể là các Thẩm phán có cơ sở để thụ lý và giải quyết các tranh chấp này theo
thủ tục tố tụng dân sự. Thẩm quyền của Tòa án đối với các tranh chấp hôn nhân
và gia đình được quy định ở cả pháp luật nội dung và pháp luật hình thức.
III. Liên hệ thực tiễn.

1. Thực trạng giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình tại Tòa án.
Có thể thấy, tranh chấp về hôn nhân và gia đình là một loại tranh chấp có tính
chất đặc biệt và nhạy cảm. Bởi lẽ, loại tranh chấp này phát sinh giữa các thành
viên trong gia đình vốn có quan hệ gắn bó về tình cảm và huyết thống.
Theo thống kê (từ ngày 01/01/2015 đến ngày 31/12/2018), về thụ lý, giải
quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, số vụ án đã giải quyết/tổng số vụ án thụ
lý theo thủ tục sơ thẩm: 838.186/940.578 vụ. Số vụ án đã giải quyết/tổng số vụ
án thụ lý theo thủ tục phúc thẩm: 9.004/10.555 vụ. Số vụ án đã xét xử/tổng số vụ
án phải giải quyết theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm: 217/286 vụ. 14 Từ những
số liệu trên, có thể thấy rằng số lượng các vụ án hôn nhân và gia đình được Tòa
án thụ lý và giải quyết là không nhỏ. Điều này cho thấy quy định của pháp luật
14

/>
319806.html

9


tố tụng dân sự về thẩm quyền của Tòa án trong giải quyết các tranh chấp hôn
nhân và gia đình đã đi sâu vào thực tiễn, có thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội
cũng như nhu cầu thực thi pháp luật.
Thực tế cũng cho thấy, các vụ việc về hôn nhân và gia đình ngày càng tăng
nhanh về số lượng cũng như tính chất phúc tạp. Tính chất gay gắt, phức tạp chủ
yếu liên quan đến các tranh chấp về tài sản chung – riêng như bất động sản, cổ
phần, cổ phiếu trong các công ty,… hoặc về con chung, mức độ cấp dưỡng. Các
tranh chấp về hôn nhân và gia đình có nguyên nhân chủ yếu do bất đồng về quan
điểm, lối sống, khó khăn về kinh tế hoặc vì lý do một bên ngoại tình, không
quan tâm chăm sóc bên còn lại hoặc con cái… Theo báo cáo tổng kết công tác
năm 2018 và nhiệm vụ trọng tâm công tác năm 2019 của các tòa án, các vụ án

hôn nhân và gia đình mà Tòa án phải thụ lý và giải quyết theo thủ tục sơ thẩm là
262.906 vụ, trong đó tranh chấp liên quan đến ly hôn và chia tài sản là phổ biến
hơn cả. 15
2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc giải quyết các tranh chấp về
hôn nhân và gia đình.
Thứ nhất, tòa án gặp khó khăn việc việc đánh giá tình trạng trầm trọng của
hôn nhân tại Khoản 1 Điều 56 Luật HN&GĐ khi ly hôn theo yêu cầu của một
bên vợ hoặc chồng. Căn cứ để tòa án giải quyết cho ly hôn là “vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không
thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”. Trên thực tế, việc chứng minh
căn cứ này rất khó, ngay cả về phía nạn nhân cũng khó cung cấp được chứng cứ
chứng minh. Thậm chí các đương sự chỉ cung cấp tình tiết là “có mâu thuẫn”.
Loại tình tiết này rất mơ hồ và khó xác định tính đúng sai, mức độ đến đâu.
Thứ hai, các tranh chấp về tài sản. Vấn đề xác định tài sản chung, tài sản
riêng để phân chia khi ly hôn gặp nhiều khó khăn. Pháp luật tố tụng dân sự quy
định, nghĩa vụ chứng minh thuộc về đương sự, tuy nhiên đương sự lại không xác
định được cụ thể công sức đóng góp của mình vào tạo lập khối tài sản
15

/>
319806.html

10


chung.Tòa án hiện tại khi xác định vấn đề này còn gặp nhiều khó khăn và vướng
mắc, do chưa có quy định cụ thể trong các luật nội dung.
Thứ ba, quy định của BLTTDS còn mang tính chung. Đơn cử như quy định
tại khoản 4 Điều 28 của BLTTDS, đều sử dùng thuật ngữ “ xác định cha, mẹ cho

con hoặc xác định con cho cha, mẹ ”. Trong trường hợp xác định cha, mẹ, con
do cơ quan hộ tịch thực hiện thì không bao gồm trường hợp một người nhận con
của một người khác là con và người đang là cha, mẹ cũng đồng ý. Bởi lẽ, cơ
quan hộ tịch không thể tước bỏ quyền đang làm cha, mẹ đối với đứa con của
một người rồi lại xác định người khác làm cha, mẹ cho con dù tất cả chủ thể liên
quan đều tự nguyện và không có tranh chấp. Trường hợp này vẫn thuộc thẩm
quyền của Tòa án theo yêu cầu xác định cha, mẹ cho con hoặc con cho cha, mẹ.
16

Thứ tư, khoản 8 Điều 28 của BLTTDS quy định về các tranh chấp hôn nhân
và gia đình khác. Quy định này tuy mang tính mở rộng thẩm quyền cho Tòa án
tuy nhiên lại trở nên mở hồ, khó áp dụng. Ngoài ra, pháp luật cũng chưa giải
thích rõ trường hợp thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác bao
gồm những trường hợp nào. Những trường hợp mà lẽ ra thuộc thẩm quyền giải
quyết của Tòa án nhưng được cơ quan, tổ chức khác giải quyết rồi thì Tòa án có
cần phải xem xét lại quyết định đó không hay các bên tranh chấp sẽ phải thi
hành ngay, và họ có bị bắt buộc phải thi hành quyết định đó không thì hiện nay
chưa có quy định cụ thể.
3. Kiến nghị hoàn thiện.
Thứ nhất, về phương diện lập pháp. Các quy định của pháp luật cần được
hoàn thiện hơn. Cụ thể, tại quy định ở Điều 56 của Luật HN&GĐ cần văn bản
hướng dẫn thế nào là “làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được”, “vi phạm
nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng” nhằm tạo ra cơ sở pháp lý rõ
ràng, minh bạch để đánh giá. Làm rõ thuật ngữ “xác định cha, mẹ cho con hoặc
16

PGS. TS. Nguyễn Thị Lan, bài viết: Xác định cha mẹ cho con, ly hôn, caaos dưỡng trong mối liên hệ với

BLTTDS năm 2015, ngày 16/07/2018


11


xác định con cho cha, mẹ”. Ngoài ra, cụ thể hóa như thế nào là “các tranh chấp
hôn nhân và gia đình khác” tại Khoản 8 Điều 28 BLTTDS và các trường hợp
tranh chấp nào thuộc thẩm quyền của cơ quan, tổ chức nào. Việc hoàn thiện quy
định của pháp luật nội dung mà cụ thể là Luật HN&GĐ cũng vô cùng quan
trọng. Bởi lẽ, pháp luật nội dung sẽ là cơ sở để Tòa án xác định thẩm quyền về
loại việc đối với từng tranh chấp cụ thể của đương sự, cũng là cơ sở để hội đồng
xét xử xem xét và đánh giá, giải quyết vụ án dân sự.
Thứ hai, song song với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật, công tác
đào tạo, nâng cao chuyên môn, nghiệp vụ cho các bộ ngành tư pháp, đặc biệt là
các Thẩm phán, cũng vô cùng cần thiết. Bởi lẽ, tinh thần pháp luật không chỉ
được thể hiện trên các văn bản pháp luật mà tinh thần của pháp luật còn phải con
người thực thi trên thực tiễn cuộc sống. Có như vậy, pháp luật mới thực sự trở
nên có ý nghĩa, đảm bảo công lý cho xã hội.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu về thẩm quyền dân sự của Tòa án nói chung, thẩm quyền
dân sự theo loại việc về tranh chấp hôn nhân và gia đình của Tòa án nói riêng là
vô cùng cần thiết án, đồng thời xác định được quyền và nghĩa vụ của các đương
sự trong các tranh chấp.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội, 2017
2. Thẩm quyền giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình của Tòa án và thực
tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân dân ở tỉnh Sơn La :luận văn thạc sĩ Luật học
/Nguyễn Hoàng Bảo Tuấn ; PGS. TS. Nguyễn Thị Thu Hà hướng dẫn, Hà Nội,
2018
3. Tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án,

Ths Bế Hoài Anh
/>4. Hoàn thiện quy định pháp luật Hôn nhân và gia đình.
12


/>5. Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
6. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

PHỤ LỤC
Bản án số 06/2018/HNGD-ST ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Tòa án huyện Quế
Phong, tỉnh Nghệ An.
/>fbclid=IwAR2YRIrffzCImroUYeOxef_FoOFPJRbMbjhluE4qJbW36GehyjFIrphFE0
1. Tóm tắt bản án.
1.1 Về nguyên đơn và bị đơn.
Nguyên đơn: Lìm Văn T.
Bị đơn : Lữ Thị H.
1.2. Về quan hệ nhân thân.
Anh Lìm Văn T và chị Lữ Thị H có hôn nhân hợp pháp. Trong thời gian chung
sống, anh T và chị H có xảy ra mâu thuẫn, anh T viết đơn yêu cầu xin ly hôn và chị
H nhất trí.
13


1.4. Về sự kiện pháp lý.
Anh T nộp đơn yêu cầu ly hôn.
1.5. Về vấn đề pháp lý.
Tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung, con chung.
1.6 Quyết định của Tòa án.
1.6.1 Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn
1.6.2. Về con chung:

Giao Lìm Việt U cho anh Lìm Văn T trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng;
giao Lìm U K cho chị Lữ Thị H chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng; tạm hoãn nghĩa
vụ cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Lữ Thị H và anh Lìm Văn T.
1.6.3. Về tài sản chung và nợ chng
Đối với tranh chấp thửa đất 07, bác yêu cầu của ông L và bà H là bố mẹ ruột của
bị đơn
Tuyên thửa đất là tài sản chung trong thời kì hôn nhân của hai đương sự
Chị Lữ Thị H sở hữu một ngôi nhà bằng gỗ, nhà bếp và các công trình phụ, cổng,
bờ rào nằm trên thửa đất số 07, tờ bản đồ số 17 bản N, xã C, huyện Q.
Chị H có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt
Nam và có nghĩa vụ trích chênh lệch chia tài sản chung cho anh Lìm Văn T
Anh Lìm Văn T có quyền sử dụng một phần của thửa đất số 07, sở hữu bộ bàn
ghế xoan và 01 tivi bằng gỗ Dồi, sở hữu tiền chênh lệch chia tài sản chung với chị
H và có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng hợp tác xã.
2. Phân tích bản án.
Vụ án của nguyên đơn Lìm Văn T và bị đơn Lữ Thị H được tòa án huyện Q thụ lý
và giải quyết. Từ nội dung của bản án, có thể xác định được các vấn đề trong hôn
nhân của hai đương sự: hai bên có mong muốn ly hôn, không thỏa thuận được việc
chia tài sản của vợ chồng và việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con.
Theo thủ tục tố tụng thì toà án huyện Q có được phép thụ lý vụ án, có đủ thẩm
quyền về loại việc để giải quyết hay không, và từ những thủ tục trên tòa đã tiến

14


hành giải quyết như thế nào? Vấn đề trên sẽ được tiếp cận qua các khía cạnh dưới
đây:
Thứ nhất, thẩm quyền dân sự của Tòa án huyện Q. Quan hệ hôn nhân giữa anh T
và chị H là hoàn toàn hợp pháp, (hai anh chị có đăng ký kết hôn vào ngày 31 tháng
3 năm 2003 tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện Q, tỉnh Nghệ An 17 ). Tòa án có quyền

thụ lý đơn ly hôn vì các lý do sau đây: Người khởi kiện anh Lìm Văn T hiện tại là
giáo viên trường THCS tại huyện Q, anh T có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự,
ngoài ra anh T và chị H đều là vợ chồng hợp pháp, có đăng kí hôn nhân, và hai
người không thể tiếp tục chung sống do những bất đồng trong gia đình, ( ngoài ra
anh T đã đóng tiền án phí).Tại thời điểm diễn ra phiên tòa sơ thẩm, quan hệ hôn
nhân của hai anh chị vẫn chưa chấm dứt, anh T và chị H đang sống ly thân. Trong
yêu cầu ly hôn của nguyên đơn, cả hai vợ chồng đều chưa thống nhất về vấn đề con
chung và chia tài sản chung. Xét theo khoản 1 điều 28 BLTTDS , đây là tranh chấp
về hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền theo loại việc của Tòa án, do đó tòa án có
quyền xem xét và giải quyết vụ án. Theo nội dung vụ án, nguyên đơn và bị đơn đều
đang sống tại huyện Q, tỉnh Nghệ An. Căn cứ quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35
của BLTTDS vàđiểm a khoản 1 Điều 39 BLTTDS, Tòa án huyện Q, tỉnh Nghệ An
có đủ thẩm quyền để thụ lý và giải quyết.
Thứ hai, tình trạng hôn nhân của các đương sự. Tòa án xem xét yêu cầu ly hôn
của anh T, thu thập tài liệu và tìm hiểu về cuộc sống hôn nhân của hai bên sau khi
thụ lý.Quan hệ hôn nhân của anh T và chị H là hợp pháp, việc vợ chồng anh T, chị
H sống ly thân đã vi phạm nghĩa vụ vợ, chồng theo khoản 2 điều 19 Luật Hôn nhân
và gia đình 2014. Theo đó, “vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau, trừ trường
hợp vợ chồng có thỏa thuận khác ….”Trong bản tự khai, hai bên đương sự đã trình
bày những mâu thuẫn, bất đồng quan điểm trong đời sống hôn nhân. Anh T và chị
H đều có những lỗi lầm riêng khiến cho cuộc sống hôn nhân lâm vào tình trạng
mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài,mục đích của hôn nhân
không đạt được. Tuy cả hai bên đương sự đều đồng ý ly hôn nhưng theo Điều 55
17

Bản án số 06/2018/HNGD-ST ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Tòa án huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, nhận

định vụ án, trang 02.

15



Luật HN&GĐ về thuận tình ly hôn, trường hợp của anh T chị H không được coi là
thuận tình ly hôn. Dù cả hai bên đương sự đều mong muốnly hôn nhưng không
thống nhất được về chia tài sản và chăm sóc, giáo dục con chung. Vì vậy, tòa án
vẫn phải tổ chức xét xử sơ thẩm để giải quyết việc chia tài sản, con chung cho hai
anh chị. Tòa án đã đưa ra quyết định tại phiên tòa:“công nhận thuận tình ly hôn
giữa anh Lìm Văn T và chị Lữ Thị H”18theo nhóm chúng em quyết định này của
Tòa án là chưa phù hợp.
Thứ ba, về con chung:Các đương sự đều không thống nhất được người chăm sóc
và nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con, tòa án thu thập tài liệu và chứng cứ, dựa vào
đó để giải quyết. Anh chị có hai con chung là Lìm Việt U, sinh ngày 03/4/2004 và
Lìm U K, sinh ngày 16/7/2012, tính đến ngày diễn ra phiên tòa xét xử sơ thẩm,em
U đủ 14 tuổi, em K chưa đủ 6 tuổi, cả hai em đều chưa đủ tuổi thành niên, nằm
trong độ tuổi cần được cấp dưỡng. Nguyện vọng của hai vợ chồng H, T là được
nuôi cả hai con và không cần người còn lại cấp dưỡng, tuy nhiên cấp dưỡng là
nghĩa vụ của cha mẹ đối với con mà mình không trực tiếp chăm sóc, do đó việc cấp
dưỡng không phụ thuộc vào yêu cầu của hai bên.Về quyền nuôi con, TA xác
định :“Cháu Lìm Việt U có nguyện vọng được ở với bố nên cần giao cháu Lìm Việt
U cho anh Lìm Văn T trực tiếp nuôi dưỡng. ;giao cháu Lìm U K cho chị Lữ Thị H
trực tiếp nuôi dưỡng”. Chị H và anh K mỗi người sẽ được nuôi một người con
chung là hợp lý theo khoản 2 Điều 81 Luật HN&GĐ. Nguyên đơn và bị đơn đều
không yêu cầu cấp dưỡng, xét thấy các chi phí bỏ ra để chăm sóc và giáo dục mỗi
con đều tốn kém ngang nhau, việc cấp dưỡng có thể làm ảnh hưởng đến tài chính
để chăm sóc con nên.Để bảo đảm được quyền và lợi ích của mỗi con, tòa án cho
phép tạm hoãn việc đóng góp tiền cấp dưỡng là hợp lý.
Thứ tư,tài sản của vợ chồng: Do khi yêu cầu ly hôn, hai bên đương sự không
thống nhất được việc chia tài sản chung, nên tòa án có quyền xác định và chia tài
sản chung của vợ chồng cho các bên. Tài sản chung của vợ chồng gồm một ngôi
nhà sàn bằng gỗ; nhà bếp và công trình phụ, cổng, bời rào; một bộ bàn ghế gỗ

18

Bản án số 06/2018/HNGD-ST ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Tòa án huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An, quyết

định của tòa án , trang 6.

16


xoan; 01 tủ ti vibằng gỗ Dổi. Ở phần tài sản của vợ chồng có xuất hiện một tài sản
có tranh chấp là “thửa đất có diện tích 1.259,38 mét vuông, thửa đất này có
nguồn gốc là của bố, mẹ vợ là ông Lữ Văn L, bà Lô Thị H, cho hai vợ chồng H, T
trong thời kì hôn nhân”. Do có tranh chấp về tài sản trong thời kì hôn nhân, nên tòa
án có quyền xác định bất động sản này thuộc quyền sở hữu của ai.Theo những
chứng cứ, và lời khai được xác thực thì mảnh đất này là tài sản chung của cả hai
vợ, chồng H và T.Việc phân chia tài sản chung của hai vợ chồng còn phụ thuộc vào
việc xác định và khấu trừ nợ chung, do đó Tòa án xác định nợ chung của hai vợ
chồng là hợp lí. Những khoản nợ chung gồm: “332.801.514 đồng của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam và nợ Ngân hàng Hợp tác xã
Việt Nam là 130.000.000 đồng.19”Ngoài ra chị H còn có những khoản nợ riêng mà
anh T không biết.Việc phân chia tài sản được nhận định là chia đôi. Đối với tài sản
là hiện vật cụ thể như: nhà, nhà bếp, công trình phụ, bàn ghế, tủ tivi,việc chia đôi
tài sản sẽ làm mất giá trị của tài sản, do đó tài sản sẽ được giao nguyên vẹn cho một
trong hai bên và người còn lại thanh toán chênh lệch cho người kia. Mảnh đất của
hai người sẽ được anh T nhận phần chưa làm nhà, phần đất đã làm nhà sẽ thuộc
quyền sở hữu của chị H. Phần chia tài sản của Tòa án xét thấy là hợp lý, và bảo
đảm được quyền và lợi ích của người mẹ và con chung.

19


Bản án số 06/2018/HNGD-ST ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Tòa án huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An., trang

5.

17



×