Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN VĂN: Áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.88 KB, 94 trang )








LUẬN VĂN:


Áp dụng pháp luật trong giải quyết
án hôn nhân và gia đình của Tòa án
nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên











mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, một trong những nhiệm vụ
trọng tâm là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Muốn xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta cần phải có con người xã hội chủ nghĩa, đó
là đòi hỏi tất yếu khách quan. Nhưng muốn có con người XHCN thì phải có một gia đình
mẫu mực, bởi gia đình quyết định một phần rất lớn tới bản chất con người. Gia đình hiện


nay còn được xem là tế bào của xã hội, do vậy muốn có một xã hội phát triển và lành
mạnh thì cần phải có các gia đình tốt - gia đình văn hóa mới. Gia đình là cái nôi sản sinh
ra con người, nuôi dưỡng và giáo dục con người cho xã hội, vì vậy Đảng và Nhà nước ta
trong những năm qua luôn luôn quan tâm tới vấn đề gia đình. Luật hôn nhân và gia đình
có vai trò góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ HN và GĐ tiến bộ, nhằm xây
dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ hạnh phúc, bền vững. Quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về gia đình được ghi nhận tại Điều 64 Hiến pháp năm 1992: “Gia đình là tế
bào của xã hội. Nhà nước bảo hộ HN và GĐ theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ
một chồng, vợ chồng bình đẳng. Cha mẹ có trách nhiệm nuôi dạy con thành những người
công dân tốt, con cháu có bổn phận chăm sóc ông bà, cha mẹ. Nhà nước và xã hội không
thừa nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”.
Mặc dầu đường lối chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đã
đề cập như vậy, song hiện nay các vụ án về HN và GĐ vẫn phát sinh và có chiều hướng gia
tăng, đòi hỏi Tòa án phải ADPL để giải quyết các loại án này. Nghiên cứu về ADPL trong
giải quyết án hôn nhân nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các thành viên trong gia đình.
Thực hiện nguyên tắc vợ chồng bình đẳng, tránh tình trạng phân biệt đối xử, tình trạng bạo
lực trong gia đình.
Trong hoạt động tư pháp thì hoạt động của Tòa án là trung tâm có vai trò quan
trọng trong hệ thống cơ quan tư pháp và Tòa án là cơ quan duy nhất nhân danh nhà nước
tiến hành hoạt động xét xử các loại án nói chung và HN và GĐ nói riêng. Trong những
năm qua, việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ đã giải quyết được những mâu thuẫn
bất hòa trong gia đình, đã bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các thành viên trong gia
đình, bên cạnh những mặt đã đạt được trong quá trình ADPL giải quyết án HN và GĐ

vẫn còn những thiếu sót, như có vụ án trong quá trình giải quyết còn để tồn đọng dây dưa
kéo dài, có vụ còn bị sửa, hủy gây ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên đương sự.
ở tỉnh Thái Nguyên trong những năm qua, số lượng án về HN và GĐ có phần
tăng. Đối với loại án này mỗi vụ án có nội dung đa dạng và tính phức tạp cũng khác
nhau, nên việc ADPL để giải quyết loại án này gặp không ít khó khăn, trong nhận thức
vận dụng pháp luật cũng như những khó khăn từ khách quan mang lại. Tuy vậy, quá trình

giải quyết án HN và GĐ ở Thái Nguyên trong những năm qua đã đạt được những kết quả
nhất định góp phần giải quyết các mâu thuẫn bất hòa trong hôn nhân, bảo vệ các quyền
lợi các quyền lợi hợp pháp của đương sự. Thông qua việc ADPL trong việc giải quyết án
HN và GĐ đã góp phần làm ổn định quan hệ trong hôn nhân, giữ gìn kỷ cương pháp luật,
giữ ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, góp phần tăng cường nền pháp chế XHCN
trên toàn tỉnh Thái Nguyên. Đồng thời, hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ,
ngoài việc đấu tranh với các hành vi trái pháp luật nẩy sinh trong lĩnh vực về hôn nhân,
còn phổ biến tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho nhân dân, từ sự hiểu biết pháp luật,
nhân dân sẽ tham gia thực hiện pháp luật, bảo vệ pháp luật, tố giác những hành vi vi phạm
pháp luật trong quan hệ hôn nhân, đồng thời qua thực tiễn APPL trong giải quyết án HN và
GĐ sẽ phát hiện ra những thiếu sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi các điều
khoản của pháp luật cho phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Bên cạnh những mặt đã đạt được, qua quá trình kiểm tra giám đốc án và xét xử
phúc thẩm của TAND tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện có những thiếu sót của việc ADPL
trong quá trình giải quyết, nên dẫn đến một số vụ án bị sửa, hủy; một số ít vụ án còn bị
dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến quyền lợi các đương sự. Trong hoạt động xét xử,
TAND tỉnh Thái Nguyên cũng đã bộc lộ một số tồn tại, như xét xử oan sai, án tồn đọng
còn nhiều, còn có vụ án vi phạm thời hạn tố tụng. Đặc biệt, một số vụ án do ADPL không
chuẩn xác, nên còn bị sửa, hủy nhiều lần, kéo dài nhiều năm, gây ảnh hưởng đến đời sống,
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến
nhân dân khiếu kiện vượt cấp lên đến các cơ quan Trung ương. Tồn tại trên là những lực cản
cho quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền.

Xuất phát từ lý do trên tôi chọn đề tài: "áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn
nhân và gia đình của Tòa án nhân dân ở tỉnh Thái Nguyên" làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các vụ án nói chung và ADPL trong giải
quyết án HN và GĐ nói riêng đã được giới khoa học pháp lý và nhất là những người trực
tiếp làm công tác xét xử của ngành Tòa án quan tâm nghiên cứu. Đã có nhiều công trình

nghiên cứu, bài viết đề cập đến một số khía cạnh về những vấn đề liên quan đến đề tài
như: TS Đặng Quang Phương (1999), "Thực trạng của các bản án hiện nay và một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện các bản án", Tạp chí TAND số: 7, 8; Th.s Nguyễn Văn Cừ
(2000), “Quyền sở hữu của vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2000”, Tạp chí
Luật học số: 4; Trần Thị Quốc Khánh (2004), “Từ hòa giải trong truyền thống dân tộc
đến hòa giải ở sơ sở ngày nay”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 11; Bùi Văn Thuấn
(2002), “Phụ nữ và pháp luật, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản riêng và
chung”, Nhà xuất bản Phụ nữ; Trương Kim Oanh (1996), "Hòa giải trong tố tụng dân
sự", Luận văn thạc sỹ Luật học; Th.s Nguyễn Phương Lan (2005) "Một số ý kiến về vợ chồng
nhận nuôi con nuôi", Tạp chí Luật học số 2; Th.s Nguyễn Hồng Hải (2003), "Bàn về chia tài
sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo pháp luật Việt Nam hiện nay"; Khoa Nhà
nước và Pháp luật- Học viện CTQG Hồ Chí Minh (2004), "Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật", Hà Nội…
Qua nghiên cứu những công trình nêu trên cho thấy, các tác giả chỉ đề cập mặt này
hay mặt khác của việc ADPL trong quá trình giải quyết án HN và GĐ, mà chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ nói
chung, cũng như ở Thái Nguyên nói riêng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Là việc ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái
Nguyên.

* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét nghiên cứu tình hình ADPL để giải
quyết án HN và GĐ của các TAND ở tỉnh Thái Nguyên, trong khoảng thời gian từ năm
2000 đến năm 2004.
4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích luận văn:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ.
+ Đánh giá thực tiễn của việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ ở tỉnh Thái
Nguyên.

+ Đề ra những giải pháp đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án HN và GĐ của
TAND ở tỉnh Thái Nguyên hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn: Để thực hiện được mục đích trên luận văn có nhiệm vụ
cụ thể sau đây:
+ Xây dựng khái niệm, ADPL trong giải quyết án HN và GĐ và phân tích các đặc
điểm, nội dung, cũng như nêu lên các giai đoạn của việc ADPL trong hoạt động giải
quyết án HN và GĐ.
+ Đánh giá kết quả đạt được, những ưu điểm, hạn chế của hoạt động ADPL trong
giải quyết án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên và rút ra các nguyên nhân khách
quan và nguyên nhân chủ quan của hạn chế.
+ Nêu lên các quan điểm, yêu cầu và đề xuất các giải pháp cụ thể như: Tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Tòa án; hoàn thiện các QPPL nhằm
đảm bảo ADPL trong giải quyết án HN và GĐ; kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực của
Thẩm phán, cán bộ Tòa án và HTND… nhằm đảm bảo việc ADPL trong giải quyết án HN
và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong
đó có vấn đề ADPL giải quyết án HN và GĐ.
* Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của triết học Mác - Lênin về duy vật
biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc; phương pháp kết hợp giữa lý
luận và thực tiễn; phương pháp phân tích tổng hợp thống kê, so sánh, điều tra, khảo sát.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của hoạt động ADPL trong giải
quyết án HN và GĐ, làm rõ những đặc thù của loại án này ở tỉnh Thái Nguyên.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động ADPL giải
quyết án HN và GĐ ở tỉnh Thái Nguyên và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo

ADPL trong hoạt động giải quyết án HN và GĐ tỉnh Thái Nguyên có hiệu quả, đáp ứng yêu
cầu của công cuộc cải cách tư pháp.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về hoạt động ADPL trong giải quyết
án HN và GĐ của TAND ở tỉnh Thái Nguyên. Góp phần nghiên cứu những vấn đề lý
luận về ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, làm phong phú thêm những vấn đề lý luận
trong lĩnh vực này.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và cơ sở thực
tiễn cho những người trực tiếp làm công tác ADPL trong giải quyết án HN và GĐ, nhằm
thực hiện nghiêm chỉnh luật HN và GĐ.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng
dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên luật và không chuyên luật, hệ thống các
trường chính trị của Đảng, cho những người đang trực tiếp làm công tác giải quyết án HN
và GĐ tại TAND nói chung và TAND tỉnh Thái Nguyên nói riêng.
8. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 6 tiết.

Chương 1
cơ sở lý luận về áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình của tòa
án nhân dân

1.1. khái niệm đặc điểm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình
1.1.1. Khái niệm áp dụng pháp luật
Thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh pháp luật là một yêu cầu khách quan của cơ
quan quản lý nhà nước bằng pháp luật ở nước ta hiện nay. Pháp luật được ban hành nhiều
nhưng ít đi vào cuộc sống thì điều đó chứng tỏ công tác quản lý nhà nước kém hiệu quả.
Do đó, xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Vậy thực hiện pháp luật là gì? Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có

mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, tạo ra cơ sở pháp lý
cho hành động thực tế của các chủ thể pháp luật. Các QPPL rất phong phú cho nên hình
thức thực hiện chúng cũng khác nhau. Căn cứ vào tính chất của hoạt động, thực hiện
pháp luật, khoa học pháp lý đã xác định những hình thức thực hiện pháp luật sau:
- Tuân thủ pháp luật: Là hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp
luật tự kiềm chế, không tiến hành những hoạt động hay hành vi mà pháp luật ngăn cấm.
- Thi hành pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
tích cực thực hiện nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định.
- Sử dụng pháp luật: Là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các chủ thể
tích cực chủ động thực hiện các quyền chủ thể của mình theo pháp luật quy định.
- áp dụng pháp luật (hiểu một cách khái quát) là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó nhà nước dựa vào pháp luật để trao quyền cho các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội, các cá nhân để căn cứ vào các quy định pháp luật ban hành các quyết định
cá biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể.
Quan niệm ADPL như vừa nêu trên được thể hiện rất rõ trong đời sống xã hội:
Chẳng hạn để ADPL hình sự nhằm buộc kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp luật
hình sự thì nhà nước đã trao quyền cho Toà án và Toà án căn cứ vào các quy định cụ thể
của pháp luật hình sự để xét xử ra một bản án (văn bản ADPL hình sự) buộc kẻ phạm tội

phải chịu một hình phạt nhất định. Hoặc để bảo vệ an toàn giao thông, Nhà nước bằng
pháp luật đã quy định cho các chiến sỹ cảnh sát giao thông có quyền áp dụng các quy
phạm pháp luật giao thông ra các quyết định xử phạt hành chính đối với các chủ thể có
hành vi vi phạm pháp luật giao thông như vượt đèn đỏ, đi vào đường ngược chiều Ngoài
ra, trong một số trường hợp, Nhà nước cũng cho phép một số tổ chức xã hội được ADPL,
như pháp luật về Hội cho phép một số tổ chức xã hội được ADPL ra các quyết định tuyển
nhân viên vào làm việc trong tổ chức của mình.
Trong các hình thức thực hiện pháp luật, thì ADPL là một hình thức thực hiện
pháp luật đặc biệt, vì pháp luật ở đây được thực hiện bởi các chủ thể nắm quyền lực Nhà
nước. Nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là những hình thức
mà mọi chủ thể pháp luật đều có thể tự thực hiện thì ADPL là hình thức luôn có sự tham

gia của Nhà nước. ADPL là hình thức rất quan trọng của thực hiện pháp luật. Trong đó pháp
luật tác động vào cuộc sống, vào các quan hệ xã hội để đạt được hiệu quả cao nhất, các quy
định của nó đều được thực hiện triệt để, bởi vì ADPL luôn có sự can thiệp của nhà nước.
Trong thực tế, nếu chỉ thông qua các hình thức thực hiện pháp luật như: Tuân thủ
pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật, thì pháp luật có lúc không được thực
hiện triệt để vì các chủ thể không tự giác thực hiện, bởi các hình thức này chỉ do các chủ
thể pháp luật tự giác thực hiện mà không có sự bắt buộc thực hiện của Nhà nước.
Nghiên cứu ADPL cho thấy có các đặc điểm sau:
Một là, ADPL chỉ do những cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành. Pháp luật
quy định cho mỗi loại cơ quan nhà nước được quyền áp dụng một số loại văn bản pháp
luật nhất định trong những trường hợp nhất định. Chẳng hạn, chỉ có các cơ quan Công an,
Viện kiểm sát và Toà án mới được ADPL hình sự để điều tra, truy tố và xét xử kẻ phạm
tội. Còn UBND các cấp không được ADPL hình sự.
Hai là, ADPL là một hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, thể hiện: Cơ quan
ADPL áp dụng theo ý chí đơn phương mà không phụ thuộc vào ý chí của bên bị áp dụng.
Việc thực hiện các quy định trong văn bản ADPL được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng
chế nhà nước.

Ba là, ADPL là một hoạt động được tiến hành theo một thủ tục tố tụng rất chặt
chẽ. Chẳng hạn, muốn ADPL hình sự phải thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật
tố tụng hình sự và Bộ luật hình sự.
Bốn là, ADPL là một hoạt động sáng tạo. Nghĩa là, khuôn khổ của pháp luật cho
phép người ADPL phải vận dụng tri thức khoa học của mình để ADPL sáng tạo mà
không rập khuôn, máy móc.
áp dụng pháp luật thường được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Thứ nhất, khi cần áp dụng các biện pháp cưỡng chế bằng một chế tài thích hợp
đối với những chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật. Chẳng hạn, khi cần cưỡng chế một
hình phạt tù đối với kẻ thực hiện hành vi phạm tội thì các cơ quan bảo vệ pháp luật như
Công an, Viện kiểm sát, Tòa án đã dựa trên cơ sở pháp luật hình sự để tiến hành điều tra,
truy tố, xét xử, ra bản án, ấn định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội và buộc họ

phải chấp hành hình phạt đã nêu trong bản án đó.
- Thứ hai, khi những quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Chẳng hạn, Điều 55
của Hiến pháp năm 1992 quy định: "Lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân",
nhưng quyền và nghĩa vụ đó chỉ phát sinh khi có quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân được nhà nước trao quyền tuyển dụng công dân đó vào
làm việc.
- Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên
tham gia QHPL mà các bên không tự giải quyết được. Chẳng hạn, khi phát sinh tranh
chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong hợp đồng dân sự mà hai bên không bàn bạc
giải quyết được nên phải nhờ đến Tòa án và Tòa án căn cứ vào các quy định của pháp
luật ra một bản án xác định các quyền và nghĩa vụ giữa các bên.
- Thứ tư, trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia
kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó hoặc Nhà nước xác
nhận sự tồn tại hay không tồn tại một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: Việc xác nhận di
chúc, chứng thực thế chấp, chứng nhận đăng ký kết hôn
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra một khái niệm: ADPL là một hoạt động mang
tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền, các tổ chức xã hội, các cá nhân được Nhà nước trao quyền căn cứ
vào các quy định của pháp luật để đề ra một văn bản ADPL làm phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt các quan hệ pháp luật.
1.1.2. Khái niệm áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình
Trước khi nguyên cứu khái niệm ADPL trong giải quyết HN và GĐ, ta cần làm rõ
khái niệm HN và GĐ.
1.1.2.1. Khái niệm hôn nhân và gia đình
*
Khái niệm hôn nhân: Trước hết hôn nhân là hiện tượng xã hội, là sự liên kết
giữa người đàn ông và người đàn bà. Trong xã hội có giai cấp, hôn nhân mang tính
giai cấp. Dưới chế độ XHCN, hôn nhân là sự liên kết giữa người đàn ông và người

đàn bà được pháp luật thừa nhận để xây dựng gia đình và chung sống với nhau suốt
đời. Sự liên kết đó phát sinh, hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan
hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Quan hệ này là quan hệ giới
tính, thực chất và ý nghĩa của nó biểu hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng, giáo dục con
cái, đáp ứng cho nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày.
Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị bằng pháp luật điều
chỉnh quan hệ hôn nhân cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phù hợp với
lợi ích giai cấp mình, xã hội nào thì có hình thái hôn nhân đó và tương ứng với chế
độ hôn nhân nhất định. Chẳng hạn, xã hội phong kiến có hình thức hôn nhân phong
kiến, mang bản chất của hôn nhân phong kiến. Trong xã hội tư bản có hình thức hôn
nhân tư sản mang bản chất của xã hội tư sản. Xã hội XHCN có hình thức của hôn
nhân xã hội chủ nghĩa.
ở nước ta hiện nay, hôn nhân theo Luật HN và GĐ Việt Nam là sự liên kết giữa
một người đàn ông và một người đàn bà trên nguyên tắc hoàn toàn tự nguyện, bình đẳng
theo quy định của pháp luật để chung sống với nhau suốt đời, xây dựng gia đình hạnh
phúc, dân chủ, hoà thuận và bền vững. Khoản 6, Điều 8 Luật HN và GĐ năm 2000 giải
thích: "Hôn nhân là quan hệ giữa người vợ và chồng sau khi đã kết hôn".
* Khái niệm gia đình: Rộng hơn khái niệm hôn nhân, hôn nhân là mối quan hệ
giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, là tiền đề xây dựng gia đình. Xã hội loài người đã
trải qua nhiều hình thái gia đình khác nhau, gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát

sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu
nhỏ của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội khác nhau
mang tính chất và kết cấu của gia đình cũng khác nhau. Gia đình XHCN là hình thái
cao nhất trong lịch sử, chế độ XHCN quyết định sự xuất hiện và phát triển của gia
đình XHCN. Quan hệ bình đẳng về mọi mặt giữa vợ chồng trong gia đình XHCN
phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình cũng như ngoài xã
hội.
ở Việt Nam Khoản 10, Điều 8 Luật HN và GĐ năm 2000 quy định: "Gia đình là
tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc do quan hệ

nuôi dưỡng làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau" [36, tr.13].
Như vậy, gia đình có thể gồm vợ chồng, con cái, anh chị em, cha mẹ, ông bà… cùng
chung sống với nhau, có quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dưỡng. Trong quá trình
chung sống phát sinh các quyền và nghĩa vụ đối với nhau. HN và GĐ là những hiện tượng xã
hội mà luôn luôn được các nhà triết học, xã hội học, sử học, luật học nghiên cứu. Hôn nhân
là cơ sở của gia đình, còn gia đình là tế bào của xã hội, mà trong đó kết hợp chặt chẽ, hài hòa
lợi ích của mỗi công dân, nhà nước và xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh một
cách khoa học rằng, HN và GĐ là phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh
tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp và chặt chẽ. Trong tác phẩm
"Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và Nhà nước" (1884), Ph.Ăngghen đã nhấn
mạnh rằng: Chế độ gia đình trong xã hội phụ thuộc vào quan hệ sở hữu thống trị trong xã
hội đó và bước chuyển từ hình thái gia đình này lên hình thái gia đình khác cao hơn suy
cho cùng được quyết định bởi những điều kiện vật chất của đời sống xã hội. Bằng tác
phẩm đó, Ph.Ăngghen đã làm thay đổi quan điểm trước đây về hình thái HN và GĐ trong
lịch sử.
Tại các Điều 9, 10, 11, chương X, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định
việc kết hôn, để được công nhận hôn nhân hợp pháp; việc đăng ký kết hôn phải tuân theo
các quy định của pháp luật và việc ly hôn cũng như giải quyết các quan hệ liên quan đến
hôn nhân cũng được tiến hành theo trình tự pháp luật nhất định, các bước phải được tuân thủ
theo Bộ luật Tố tụng dân sự khi giải quyết một vấn đề cụ thể thì được áp dụng theo Luật Hôn
nhân và gia đình.

1.1.2.2. áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình - Khái niệm
và đặc điểm
* Về khái niệm ADPL trong giải quyết án HN và GĐ:
Trong tổ chức bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tòa án
là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử. Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên
của Nhà nước Việt Nam độc lập, mặc dù không quy định rõ Tòa án là cơ quan xét xử,
nhưng trên tinh thần của Hiến pháp chúng ta cũng có thể hiểu Tòa án là cơ quan xét
xử. Các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992 đã quy định rõ về chức năng xét xử của

Tòa án, Điều 127, Hiến pháp 1992 đã quy định: "Tòa án NDTC, các TAND địa
phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật định là cơ quan xét xử của
nước CHXHCNVN" [29, tr.171]. Trên cơ sở Hiến pháp, Điều 1, Luật Tổ chức TAND
quy định về chức năng xét xử của Tòa án: "Tòa án xét xử những vụ án về hình sự, dân
sự, HN và GĐ, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy
định của pháp luật" [29, tr.7].
Trong quá trình xét xử tòa án phải ADPL để giải quyết các vụ án. Đối với các vụ
án HN và GĐ, Tòa án phải ADPL để giải quyết kể từ khâu phân loại đơn, thụ lý đơn,
điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh, định giá tài sản… cho đến khi đưa vụ án ra xét xử
và tùy từng vụ án cụ thể mà phân loại giải quyết khác nhau như: Quyết định di lý, vụ án
tạm đình chỉ, đình chỉ, công nhận hòa giải thành, công nhận thuận tình ly hôn hoặc quyết
định đưa vụ án ra xét xử.
Hoạt động giải quyết án HN và GĐ cụ thể được giao cho một Thẩm phán chịu
trách nhiệm từ khi nhận đơn thụ lý. Trình tự các bước giải quyết án HN và GĐ trước đây
phải tuân theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1986, nay được áp dụng
theo Bộ luật Tố tụng dân sự nước CHXHCNVN năm 2004. Theo quy định khi đương sự
gửi đơn đề nghị giải quyết vụ án HN và GĐ đến TAND cấp có thẩm quyền giải quyết,
sau khi nhận đơn Tòa án tiến hành phân loại và thụ lý giải quyết theo trình tự tố tụng, như
điều tra thu thập chứng cứ vụ án, lựa chọn QPPL, ra các quyết định hoặc ra bản án buộc
các đương sự thi hành bằng nhiều hình thức như, tự nguyện thi hành hoặc có sự cưỡng
chế thi hành của cơ quan thi hành án dân sự.

Ngoài cơ quan Tòa án ADPL, giải quyết án HN và GĐ còn có sự tham gia của
Viện Kiểm sát nhân dân (cùng cấp) trong giai đoạn điều tra. Kiểm soát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng dân sự, như tham gia định giá tài sản, yêu cầu điều tra
bổ sung tham gia phiên tòa xét xử và được phát biểu về việc giải quyết vụ án, thực hiện
quyền công tố tại phiên tòa. Tuy nhiên, TAND là cơ quan có trách nhiệm chủ yếu trong
việc giải quyết vụ án HN và GĐ. Nếu Viện kiểm sát từ chối không tham gia giai đoạn
điều tra và xét xử, thì vụ án vẫn được Toà án tiến hành giải quyết theo quy định của pháp
luật. Hầu hết trong các giai đoạn ADPL, hoạt động giải quyết án HN và GĐ do Tòa án

trực tiếp giải quyết mà không phụ thuộc vào các chủ thể khác.
* Đặc điểm của áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ
của TAND:
áp dụng pháp luật của trong giải quyết án HN và GĐ có những đặc điểm như sau:
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ chỉ do các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền tiến hành, đó là hệ thống TAND. Toà án là cơ quan có thẩm quyền duy nhất
có quyền ADPL để giải quyết án HN và GĐ. Toà án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền
ADPL để giải quyết các vụ án HN và GĐ.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ được tiến hành theo một thủ tục
chặt chẽ do pháp luật tố tụng dân sự và các QPPL của Luật Hôn nhân và gia đình quy
định. Khi tiến hành giải quyết một vụ án HN và GĐ, các trình tự xây dựng hồ sơ từ khâu
thụ lý, điều tra, thu thập chứng cứ đến khi ra quyết định hoặc vụ án đưa ra xét đều phải
tuân theo các bước như đã quy định trong Luật Tố tụng dân sự nhằm đảm bảo quyền lợi
hợp pháp của các bên đương sự.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ là một hoạt động mang tính
quyền lực của nhà nước, Tòa án được nhà nước trao quyền để lựa chọn các QPPL và
ADPL trong giải quyết án HN và GĐ.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ là một hoạt động mang tính
khoa học và sáng tạo do Thẩm phán và Hội đồng xét xử thực hiện. Chỉ có Thẩm phán,
Hội đồng xét xử trực tiếp giải quyết vụ án HN và GĐ mới được áp dụng các QPPL, sao
cho phù hợp và khoa học để giải quyết án HN và GĐ. Trong khuôn khổ của pháp luật cho

phép, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ADPL sáng tạo, nghĩa là dựa vào trí tuệ và niềm tin
nội tâm của mình để ADPL.
- áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN và GĐ diễn ra trên phạm vi rộng với
nhiều vụ án đa dạng, phức tạp. Tuy cùng một loại án về HN và GĐ nhưng tính chất từng
vụ án cũng khác nhau, trong các vụ án các đương sự có thiện chí cùng nhau hướng đến
giải quyết vụ việc đơn giản có thể thực hiện việc giải quyết vụ án trong một thời gian
ngắn, nhưng nếu có sự tranh chấp thì vụ việc phải tuân thủ theo các bước của Luật Tố
tụng dân sự.

Dựa trên cơ sở khái niệm ADPL và từ sự phân tích về ADPL trong giải quyết án
HN và GĐ nêu trên, chúng ta có thể rút ra khái niệm: ADPL trong giải quyết án HN và
GĐ là một hoạt động mang tính tổ chức, tính quyền lực nhà nước mà trong đó nhà nước
thông qua các Thẩm phán, hoặc Hội đồng xét xử căn cứ vào các quy định của pháp luật
hôn nhân, gia đình và các quy định khác của pháp luật để ra một quyết định cá biệt, hoặc
một bản án làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật về HN và GĐ.
1.2. các giai đoạn và nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn
nhân và gia đình
1.2.1. Các giai đoạn áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia
đình
áp dụng pháp luật giải quyết án HN và GĐ nói riêng của TAND, là sự biểu hiện cụ
thể của ADPL nói chung. Do tính đa dạng của tranh chấp về HN và GĐ như một bên kiên
quyết xin ly hôn, một bên kiên quyết xin đoàn tụ, tranh chấp con hoặc tranh chấp về tài
sản trong hôn nhân… cùng những quy định về thủ tục tố tụng khi giải quyết các vụ án do
pháp luật quy định, nên ADPL trong việc giải quyết án HN và GĐ có bốn giai đoạn sau:
Một là, phân tích những tình tiết khách quan của vụ án HN và GĐ làm rõ các
đăng trưng pháp pháp lý của vụ án:
Đây là hoạt động đầu tiên trong các giai đoạn ADPL, giải quyết án HN và GĐ.
Trong hoạt động này, Tòa án phải xác định loại việc, thẩm quyền thuộc Tòa án cấp nào giải
quyết, hoặc thông báo cho các đương sự quyền được lựa chọn Tòa án. Do vậy, khi thụ lý
vụ án cần thu thập các thông tin liên quan đến vụ án như đơn phải có xác nhận của chính
quyền địa phương nơi cư trú, sao nộp đăng ký kết hôn, xác định nơi có hộ khẩu cư trú hoặc

nơi cư trú cuối cùng của đương sự, nguyện vọng của các đương sự lựa chọn Toà án nào
giải quyết và các giấy tờ khác có liên quan để xác định thẩm quyền giải quyết của Toà án.
Để phân tích các tình tiết khách quan của vụ án HN và GĐ thì phải tiến hành
điều tra xác minh, làm rõ nội dung vụ án. Tuy nhiên, có những trường hợp không nhất
thiết phải tiến hành điều tra, mà xuất phát từ nguyên tắc quyền tự định đoạt và nghĩa
vụ chứng minh của các bên đương sự tự xuất trình chứng cứ, các đương sự tự thỏa
thuận được các tranh chấp trong quan hệ HN và GĐ, thì vụ án cũng không phải tiến

hành tất cả các hoạt động điều tra, đây cũng là đặc điểm riêng của vụ án HN và GĐ. Ví
dụ: Khi thụ lý giải quyết một vụ kiện xin ly hôn, Tòa án yêu cầu nguyên đơn và bị đơn
cung cấp các loại giấy tờ có liên quan đến quan hệ hôn nhân, các đương sự tự viết vào bản
tự khai. Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự tự thỏa thuận, định đoạt được các
mối quan hệ trong hôn nhân thì Tòa án ra quyết định công nhận việc thỏa thuận của họ.
Trên cơ sở kết quả điều tra xác minh vụ án chủ thể ADPL phân tích những tình tiết
khách quan của vụ án HN và GĐ, làm rõ các đặc trưng pháp lý của vụ án để tiến hành các
bước tiếp theo giải quyết vụ án đó.
Hai là, lựa chọn các QPPL về HN và GĐ, về dân sự, về tố tụng dân sự tương ứng
để giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình.
Nói chung việc lựa chọn QPPL để ADPL được tiến hành theo ý chí đơn phương của
Toà án có thẩm quyền, không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị áp dụng, điều này được thể
hiện rất rõ đối với việc ADPL trong giải quyết án hình sự và giải quyết vi phạm hành chính,
nhưng đối với việc giải quyết án HN và GĐ về cơ bản cũng như vậy, song có một số trường
hợp có thể trong khi giải quyết vụ án các đương sự có thể thực hiện quyền của mình theo
pháp luật quy định sẽ thay đổi quan điểm, nên dẫn đến vụ án không phải tiếp tục điều tra, xét
xử mà có thể ra một trong các quyết định theo hướng khác phụ thuộc vào ý chí của các chủ
thể bị ADPL, nhưng lựa chọn các QPPL vẫn là do cơ quan toà án.
Ba là, làm sáng tỏ tư tưởng và nội dung của QPPL hôn nhân gia đình và các
QPPL khác khi đưa ra áp dụng đối với vụ án HN và GĐ.
Đây là quá trình vận dụng tổng hợp các tri thức chính trị, kinh tế, xã hội, đặc biệt là
các tri thức pháp lý. Để làm sáng tỏ tư tưởng nội dung các quy phạm liên quan đến lĩnh vực
HN và GĐ. Giai đoạn này của quá trình ADPL nhằm nhận thức đúng đắn nội dung, tư tưởng

của QPPL đưa ra áp dụng, để giải quyết án HN và GĐ. Việc ADPL phải thông qua người có
thẩm quyền khi ADPL.
Bốn là, ra quyết định áp dụng pháp luật hoặc ra một bản án để giải quyết vụ án
HN và GĐ.
Đây là giai đoạn thể hiện kết quả của ba giai đoạn trên, ở giai đoạn này Tòa án có
thẩm quyền ra quyết định hoặc bản án để quy định trách nhiệm, quyền lợi và nghĩa vụ

của các đương sự đang có tranh chấp trong quan hệ hôn nhân. Văn bản ADPL này thể
hiện rất rõ năng lực, trình độ của Thẩm phán và Hội đồng xét xử khi ADPL. Bởi vì, trong
giai đoạn này các phán quyết cuối cùng mang tính pháp lý, phán quyết này chính là việc
vận dụng các quy định pháp luật về lĩnh vực HN và GĐ để giải quyết án HN và GĐ.
Quyết định ADPL phải phù hợp với QPPL đưa ra áp dụng chứ không thể xuất phát
từ ý chí chủ quan hoặc tình cảm cá nhân của người có thẩm quyền, nội dung quyết định
bản án phải rõ ràng, chính xác.
1.2.2. Nội dung hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và
gia đình
Hoạt động ADPL trong giải quyết án HN và GĐ cũng rất đa dạng và phong phú,
nhưng quy về những nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động ADPL trong thụ lý, điều tra, đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án:
 Thụ lý vụ án:
Cá nhân, cơ quan, tổ chức do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định có quyền khởi kiện
về việc HN và GĐ, yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết. Điều 27, 28 của Bộ luật Tố
tụng dân sự quy định những loại việc mà Tòa án thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi
kiện thuộc lĩnh vực HN và GĐ gồm:
- Ly hôn, tranh chấp về con nuôi, chia tài sản khi ly hôn.
- Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.
- Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.
- Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ.
- Tranh chấp về cấp dưỡng.
- Yêu cầu hủy việc kết hôn trái phép.
- Yêu cầu công nhân thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.

- Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly
hôn.
- Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm
nom con sau khi ly hôn.
- Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.

- Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.
- Các tranh chấp khác và những yêu cầu khác về HN và GĐ mà pháp luật có quy
định.
Trong thực tế các loại việc tranh chấp về HN và GĐ khi các đương sự gửi đơn đến
Tòa án viết rất đơn giản ít các thông tin để xem xét, thuộc loại tranh chấp nào, thuộc thẩm
quyền Tòa án nào giải quyết.
- Sau khi nhận đơn khởi kiện và tài liệu, những chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy
vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thông báo cho người khởi kiện biết để
họ đến Tòa án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí.
- Tòa án dự tính số tiền tạm ứng án phí, ghi vào phiếu báo và giao cho người khởi
kiện để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được giấy
báo của Tòa án về việc tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án
phí.
Tòa án thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho Tòa án biên lai tạm thu tiền án
phí. Nếu trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì Tòa án phải
thụ lý khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo, nếu có.
Khác với pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự tại Điều 37 quy định: "Nếu
thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình, Tòa án báo ngay cho nguyên đơn nộp tiền tạm
ứng án phí, trong thời hạn 1 tháng kể từ ngày nộp đơn Tòa án thụ lý vụ án kể từ ngày
nguyên đơn nộp tiền", nhưng đối với Bộ luật Tố tụng dân sự tại Điều 167 quy định: "Tòa
án phải nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Tòa án hoặc gửi qua bưu điện
và phải ghi vào sổ nhận đơn. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn
khởi kiện Tòa án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây:
- Tiến hành thủ tục thụ lý vụ án nếu thuộc thẩm quyền của mình.

- Chuyển đơn khởi kiện cho Tòa án có thẩm quyền và thông báo cho người khởi
kiện, nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án khác.
- Trả lại đơn cho người khởi kiện, nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án.
Việc trả lại đơn thì được phân ra trong các trường hợp:

- Người khởi kiện không có quyền khởi kiện hoặc không có năng lực hành vi tố
tụng dân sự.
- Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của chính quyền nhà nước có thẩm quyền trừ
trường hợp Tòa án bác đơn xin ly hôn, bác đơn xin thay đổi nuôi con thay đổi mức cấp
dưỡng
- Chưa có đủ điều kiện khởi kiện.
- Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Như vậy, khi thụ lý đơn để giải quyết vụ án, Tòa án trước khi thụ lý cần phải xem
xét nhiều vấn đề liên quan như các chứng từ liên quan đến vụ kiện, thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ, thẩm quyền của Tòa án cấp nào được giải quyết, người khởi
kiện có quyền khởi kiện hay không, có đủ năng lực dân sự không đồng thời Tòa án
phải thụ lý theo đúng thời hạn của Bộ luật Tố tụng dân sự quy định.
 Điều tra vụ án:
Đối với vụ án HN và GĐ, quá trình điều tra vụ án thuộc trách nhiệm của Tòa
án, Chánh án phân công cho một Thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án, điều tra thu
thập chứng cứ, đây là giai đoạn rất quan trọng, khó khăn nhất trong quá trình giải
quyết vụ án. Thu thập được chứng cứ đầy đủ, khách quan thì Tòa án mới có thể phán
quyết chính xác và đúng pháp luật. Do đó, đòi hỏi Thẩm phán phải thận trọng khi thu
thập chứng cứ như các bước chủ yếu sau:
- Thẩm phán tiến hành lấy lời khai đương sự theo Điều 86 Bộ luật Tố tụng dân sự,
chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản
khai chưa đầy đủ, rõ ràng, đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong
trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm phán lấy lời khai của đương sự.
Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung vào những nội dung đương sự chưa khai.

Việc lấy lời khai của đương sự cũng có thể được thực hiện tại trụ sở Tòa án, trong
những trường hợp cần thiết có thể lấy lời khai của đương sự ngoài trụ sở Tòa án. Sau khi
ghi xong, biên bản ghi lời khai phải được người khai tự đọc lại hay nghe đọc lại và ký tên
hoặc điểm chỉ. Đương sự có quyền sửa đổi, bổ sung vào biên bản ghi lời khai, ký tên

hoặc điểm chỉ xác nhận và có dấu của Tòa án, nếu nhiều bản thì phải có dấu giáp lai.
Trường hợp biên bản ghi lời khai ở ngoài trụ sở Tòa án phải có người làm chứng hoặc
xác nhận của Uỷ ban nhân dân, công an xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi
lập biên bản. Ngoài việc lấy lời khai của đương sự, khi xét thấy cần thiết Thẩm phán tiến
hành lấy lời khai, nếu người làm chứng chưa đủ 18 tuổi hoặc năng lực hành vi dân sự của
họ bị hạn chế thì phải được tiến hành lấy lời khai với sự có mặt người đại diện hoặc
người đang quản lý trông nom.
Đối với vụ án ly hôn, khi có tranh chấp về con, nếu con từ 9 tuổi trở lên, khi giải
quyết cần phải xem xét nguyện vọng của con.
Từ kết quả lấy lời khai nếu thấy có mâu thuẫn thì tiến hành cho đối chất giữa các
đương sự với nhau nhằm làm sáng tỏ những vấn đề mâu thuẫn, việc đối chất phải được
ghi lại thành biên bản có chữ ký của những người tham gia đối chất.
- Tiến hành điều tra xác minh, trong những trường hợp và xét thấy cần thiết Tòa án tiến
hành đến tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, cơ quan công tác hoặc nơi cư trú của đương sự để xác
minh nhằm làm rõ những vấn đề liên quan đến vụ án.
Cùng với việc lấy lời khai như trên thì cũng tiến hành thu thập các tài liệu khác
như:
- Đăng ký kết hôn.
- Bản sao giấy khai sinh các con.
- Các giấy tờ có ý nghĩa chứng minh về tài sản.
- Các giấy vay nợ, giấy cho vay.
- Các giấy tờ về nhà đất và các giấy tờ khác có liên quan đến vụ án.
Bên cạnh đó, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể mà Toà án quyết định trưng cầu
giám định theo sự đề nghị của các bên đương sự hoặc theo đề nghị của một bên đương
sự. Nếu trong trường hợp xét thấy kết luận giám định chưa đầy đủ, rõ ràng thì Tòa án ra
quyết định giám định bổ sung hoặc giám định lại.

- Định giá tài sản: Tài sản của các bên đương sự có tranh chấp về giá, Tòa án
quyết định thành lập hội đồng định giá và tùy thuộc vào loại tài sản cần định giá mà tiến
hành mời các thành viên hội đồng định giá cho phù hợp.

Ví dụ: Định giá về nhà đất, ngoài thành phần đại diện cơ quan tài chính thì phải
có cơ quan địa chính, cơ quan xây dựng và có đại diện Uỷ ban nhân dân cấp phường,
xã, tổ dân phố nơi có tài sản định giá chứng kiến việc định giá. Hoặc nếu định giá tài
sản là ô tô thì phải có thành viên của Sở giao thông cùng tiến hành định giá, đồng thời
phải có mặt các bên đương sự trong buổi định giá.
- Đối với những chứng cứ thu thập ở nơi xa, Tòa án có thể ra quyết định ủy thác
để Tòa án nơi khác hoặc cơ quan có thẩm quyền lấy lời khai của đương sự, thẩm định tại
chỗ, định giá tài sản hoặc có các biện pháp khác để thu thập chứng cứ. Trong những
trường hợp cần thiết pháp luật quy định cho áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để
bảo vệ chứng cứ, tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc đảm bảo việc thi
hành án. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời như:
- Giao người chưa thành niên cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục.
- Buộc thực hiện trước một phần cấp dưỡng.
- Kê biên tài sản đang tranh chấp.
- Cấm chuyển dịch về quyền về tài sản đang tranh chấp.
- Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp.
- Phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng, kho bạc nhà nước ở nơi gửi.
- Phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ.
Quá trình điều tra cần tuân thủ nghiêm ngặt, chính xác các quy định của Bộ luật
Tố tụng dân sự thì mới đảm bảo tính khách quan, làm rõ bản chất sự thật khách quan của
vụ việc.
 Đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án.
- Trong trường hợp đình chỉ vụ án áp dụng Điều 192 Bộ luật Tố tụng dân sự trong
các trường hợp sau:
+ Nguyên đơn hoặc bị đơn chết, quyền và nghĩa vụ của họ không ai thừa kế.

+ Người khởi kiện rút đơn khởi kiện và được Tòa án chấp nhận hoặc người khởi
kiện không có quyền khởi kiện.
+ Các đương sự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết tiếp vụ án.

+ Nguyên đơn triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn vắng mặt.
+ Các trường hợp khác do pháp luật quy định.
Nếu vụ án thuộc một trong các trường hợp nêu trên, Toà án tiến hành phân tích,
đánh giá, làm rõ các tình tiết trong vụ án, đồng thời đối chiếu với pháp luật hiện hành, lựa
chọn QPPL để áp dụng ra quyết định đình chỉ đối với vụ án đó.
Hậu quả pháp lý của việc đình chỉ, nếu đình chỉ theo các trường hợp như nêu
trên, tiền tạm ứng án phí đương sự đã nộp được sung và công quỹ nhà nước. Nếu trả lại
đơn theo Điều 168 Bộ luật Tố tụng dân sự tiền tạm ứng án phí được trả lại cho người đã
nộp.
- Trường hợp tạm đình chỉ giải quyết vụ án áp dụng Đ189 Bộ luật Tố tụng dân sự
trong các trường hợp sau:
+ Một bên đương sự mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định người đại diện
theo pháp luật.
+ Nguyên đơn đề nghị tạm đình chỉ có lý do chính đáng.
+ Cần đợi kết quả giải quyết vụ án khác có liên quan hoặc chờ kết quả ủy thác
điều tra, chờ kết quả giám định.
+ Các trường hợp khác mà pháp luật có quy định.
Sau đó phân tích đánh giá, làm rõ các tình tiết trong vụ án, đối chiếu với pháp luật
hiện hành, lựa chọn QPPL để áp dụng ra quyết định tạm đình chỉ đối với vụ án đó.
Hậu quả của việc tạm đình chỉ, tiền tạm ứng án phí, lệ phí của đương sự được gửi
vào kho bạc nhà nước và được xử lý khi Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Quyết định tạm
đình chỉ và đình chỉ có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
Thứ hai, hoạt động ADPL trong trường hợp hòa giải thành.
Trong trường hợp hòa giải thành, sau khi tiến hành thụ lý vụ án HN và GĐ, Tòa án
tiến hành điều tra vụ án cũng tuân theo các bước như trường hợp vụ án đình chỉ và tạm
đình chỉ, nhưng việc thu thập các tài liệu chứng từ có liên quan đến vụ án phải tùy thuộc
vào tính chất của từng vụ việc đang giải quyết, những vụ án đơn giản thì nội dung điều

tra dễ dàng hơn những vụ phức tạp, khi đã điều tra đầy đủ làm rõ các tình tiết khách quan
trong vụ án, thì Tòa án mới tiến hành hòa giải.

Việc hòa giải phải tuân quy định tại Điều 180, 181, 185, 186 Bộ luật Tố tụng dân
sự. Tòa án triệu tập các bên đương sự đến hòa giải, giúp các bên đi đến thỏa thuận với nhau
về các vấn đề đang tranh chấp. Trước khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải nắm vững
các tình tiết nội dung của vụ án, cần chủ động chuẩn bị nội dung hòa giải. Đồng thời phải
thông báo cho các đương sự có liên quan, người đại diện của đương sự biết về địa điểm,
thời gian, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Thành phần hòa giải cũng được pháp luật quy
định gồm: Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải, thư ký ghi nội dung biên bản hòa giải.
Trong vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải, nhưng
các đương sự khác đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải không ảnh hưởng đến
quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các
đương sự có mặt, nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các
đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải. Khi tiến hành hòa giải,
Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật liên quan đến việc
giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình, phân tích hậu
quả pháp lý nếu vụ án phải xét xử, để họ tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án.
Sau đó phân tích đánh giá, làm rõ các tình tiết trong vụ án, đồng thời nắm
được tâm tư nguyện vọng của các bên đương sự rồi tiến hành hòa giải. ở đây việc hòa
giải đòi hỏi Thẩm phán phải nắm vững kiến thức pháp luật, có sự hiểu biết sâu rộng
và có kinh nghiệm, cần phải kiên trì phân tích, động viên các bên hướng đến giải
quyết những tranh chấp thì việc hòa giải mới đạt được kết quả. Khi các bên đương sự
đã thỏa thuận được với nhau về các vấn đề tranh chấp, nội dung hòa giải phải được
ghi lại thành biên bản và có chữ ký của các bên đương sự, của thư ký và chủ tọa phiên
hòa giải theo quy định tại Điều 186 Bộ luật Tố tụng dân sự, hết 7 ngày kể từ ngày lập
biên bản hòa giải thành không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Tòa án đối chiếu
với pháp luật hiện hành lựa chọn QPPL áp dụng Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự để
ra quyết định công nhận việc hòa giải thành.
Hiệu lực của quyết định công nhận hòa giải thành có hiệu lực pháp luật ngay sau
khi ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng có thể bị

kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là nhầm

lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Thứ ba, hoạt động ADPL trong trường hợp thuận tình ly hôn.
Trong trường hợp thuận tình ly hôn, khi tiến hành thụ lý vụ án HN và GĐ, tiến
hành điều tra vụ án cũng phải tuân thủ các bước như trên, nhưng trong trường hợp
này, vụ án ly hôn nên cần phải điều tra thêm về con cái như độ tuổi các con, nguyện
vọng của con khi bố mẹ ly hôn, về tài sản, nợ chung, nợ riêng cũng phải được điều tra
đầy đủ, rõ ràng. Trong trường hợp này, vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn mà việc hòa
giải không thành, các đương sự thực sự thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có
khả năng đoàn tụ, họ tự nguyện ly hôn và thỏa thuận được với nhau các mối quan hệ
trong hôn nhân, như thỏa thuận về chia tài sản, nợ chung, việc trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con, thì Tòa án lập biên bản ghi nhận lại nội dung của sự thỏa
thuận đó, đồng thời đối chiếu với pháp luật hiện hành để lựa chọn QPPL và ADPL để
ra quyết định công nhận việc thuận tình ly hôn của các bên đương sự.
Quyết định công nhận thuận tình ly hôn có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban
hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, nhưng có thể bị kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ rằng sự thỏa thuận đó là nhầm lẫn, lừa dối, đe
dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Thứ tư, hoạt động ADPL trong trường hợp đưa vụ án ra xét xử bằng một bản án:
Điều 28 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2002, quy định thẩm quyền của TAND
các cấp như sau:
- Phiên tòa sơ thẩm của TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây
gọi chung là TAND cấp huyện).
- Phiên tòa sơ thẩm của TAND cấp tỉnh.
- Phiên tòa phúc thẩm những vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật của Tòa án cấp huyện bị kháng cáo kháng nghị theo quy định của pháp luật.
- Giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực
thi hành của TAND cấp huyện bị kháng nghị theo quy định của pháp luật.
- Giải quyết các việc khác theo quy định của pháp luật.

Căn cứ vào các quy định của pháp luật về phân cấp, phân từng loại vụ việc cho các

cấp Tòa án giải quyết. Trong việc giải quyết các vụ án HN và GĐ, TAND cấp huyện
được giải quyết theo trình tự sơ thẩm và TAND cấp tỉnh có thẩm quyền giải quyết các vụ
án HN và GĐ theo trình tự từ sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định
của pháp luật.
Thông thường những vụ án phải đưa ra xét xử thì tính chất của vụ việc cũng
phức tạp hơn, mặt khác các đương sự cũng không có thiện trí hướng đến giải quyết các
tranh chấp bằng con đường thương lượng, hòa giải. Sau khi Tòa án tiến hành thụ lý vụ án
HN và GĐ, điều tra, xác minh, thu thập các tài liệu chứng từ có liên quan đến vụ án, yêu
cầu các bên chứng minh những vấn đề liên quan đến tranh chấp tuân theo các bước như
đã nêu ở trên. Khi đã điều tra đầy đủ, làm rõ các tình tiết khách quan vụ án, nếu vụ án có
tài sản phải định giá tài sản. Sau đó tiến hành hòa giải, phân tích để các đương sự tự thỏa
thuận với nhau, nhưng việc hòa giải không đi đến kết quả. Sau khi phân tích, đánh giá các
tình tiết của nội dung vụ án, đồng thời đối chiếu với pháp luật hiện hành để lựa chọn
QPPL để áp dụng quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong trường hợp này, từ khi thụ lý đến khi đưa vụ án ra xét xử đây là quá trình
chuẩn bị xét xử, ADPL để tiến hành xét xử vụ án HN và và GĐ phải tuân theo bước sau
đây:
- Thủ tục bắt đầu phiên tòa gồm có:
+ Khai mạc phiên tòa.
+ Giải thích yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người
phiên dịch.
+ Xem xét, quyết định hoãn phiên tòa khi có người vắng mặt.
+ Bảo đảm tính khách quan của người làm chứng.
- Thủ tục hỏi tại phiên tòa
+ Hỏi đương sự về thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu.
+ Nghe lời trình bày của đương sự
+ Thứ tự hỏi tại phiên tòa: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan, người làm chứng.
+ Công bố các tài liệu của vụ án, xem xét vật chứng, hỏi người giám định.


+ Kết thúc việc hỏi tại tòa.
- Tranh luận tại phiên tòa.
+ Trình tự phát biểu tranh luận.
+ Phát biểu sau khi tranh luận và đối chất.
+ Phát biểu của Viện kiểm sát.
+ Trở lại việc hỏi (nếu xét thấy cần thiết).
- Nghị án và tuyên án
+ Nghị án.
+ Trở lại xét hỏi và tranh luận.
+ Tuyên án, cấp trích lục cho đương sự và cơ quan có liên quan.
Hoạt động ADPL của Hội đồng xét xử đối với vụ án HN và GĐ được hiện theo
các trình tự như sau:
 Hoạt động ADPL theo trình tự sơ thẩm của TAND cấp huyện.
Đây là lần xét xử đầu tiên đối với án HN và GĐ và hầu hết tất cả các loại án này
đều được xét xử ở cấp huyện. Trước đây, việc ADPL giải quyết án HN và GĐ ở cấp sơ
thẩm của TAND cấp huyện, theo pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989,
từ ngày 01- 01- 2005 trình tự giải quyết án HN và GĐ được áp dụng theo Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2004.
Xét xử án HN và GĐ của TAND cấp huyện có số lượng vụ án nhiều, chiếm đa số
trong toàn tỉnh và là cấp xét xử từ khâu chuẩn bị xét xử đến khi xét xử tại phiên tòa. Nếu
việc ADPL được chính xác thì kết quả vụ án không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình
tự phúc thẩm và trình tự giám đốc hoặc vụ án không bị dây dưa kéo dài, hạn chế tình
trạng quá tải cho Tòa án cấp trên cũng như việc khiếu kiện vượt cấp.
Đối với vụ án HN và GĐ, việc tranh chấp sau khi hòa giải không thành mà phải
đưa ra tòa xét xử chủ yếu là tranh chấp về tài sản sau ly hôn và tranh chấp quyền nuôi
con, truy nhận cha cho con. Giai đoạn hòa giải làm tốt thì sẽ hạn chế số lượng án và thời
gian ở giai đoạn xét xử, tránh tốn kém tiền của nhà nước chi phí cho việc xét xử và công
tác thi hành án sau này.
Khi vụ án tiến hành đưa ra xét xử, phải tuân thủ theo các bước như đã nêu ở trên.
Về nội dung vụ án cần được Hội đồng chuẩn bị chu đáo như nội dung cần hỏi, cách hỏi

×