Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNGVẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.12 KB, 24 trang )

NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNGVẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG
NGÂN HÀNG TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I - Hoạt động của một ngân hàng thường mại trong nền kinh tế thị
trường
Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Với hàng hoá kinh doanh là tiền tệ, ngân hàng đóng vai trò là "chất bôi
trơn" của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong mỗi một cơ chế khác nhau, hoạt động
của ngân hàng mang lại những hiệu quả kinh tế khác nhau. Điều này thể hiện
rất rõ nét qua sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam.
1- Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường
1.1- Nền kinh tế thị trường là gì?
Nhìn lại lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội vào căn cứ và hình
thức tổ chức kinh tế xã hội có thể khẳng định rằng nền kinh tế xã hội đã và
đang trải qua hai kiểu tổ chức kinh tế xã hội: Kinh tế tự nhiên và kinh tế thị
trường. Kinh tế tự nhiên là kiểu tổ chức kinh tế xã hội với nền kinh tế khép kín
từng vùng, địa phương, lãnh thổ và kinh tế sản xuất lạc hậu. Nhịp độ phát triển
hình thức tổ chức kinh tế này rất chậm và phân công lao động đã xuất hiện
nhưng ở trình độ rất thấp. Nông nghiệp chiếm vị trí thống trị, sản xuất phụ
thuộc nhiều vào thiên nhiên và chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực tiêu dùng.
Do sự phát triển của lực lượng sản xuất - xã hội; nền kinh tế tự nhiên
dần chuyển lên nền kinh tế thị trường. Đây là kết quả của sự chuyển đổi từ quá
trình sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá tư bản chủ
nghĩa. Kinh tế thị trường - một kiểu tổ chức kinh tế xã hội trong đó sản xuất và
toàn bộ quá trình tái sản xuất gắn chặt với thị trường; hoạt động thông qua
một trung tâm đó là thị trường. Tất cả các quan hệ kinh tế do phân công lao
động xã hội làm nảy sinh đều được thực hiện qua quan hệ hàng hoá - tiền tệ
trên thị trường. Sự phát triển của thị trường được thể hiện qua sự phát triển
của trình độ phân công lao động xã hội, mối quan hệ qua lại giữa thị trường
trong nước và nước ngoài.


Trong nền kinh tế tự nhiên, các chức năng của nền kinh tế đều được
thực hiện chủ yếu qua quá trình kế hoạch hoá của Nhà nước. Mọi hoạt động
sản xuất và đời sống đều được bao cấp bởi Nhà nước nên mang tính hình thức
rất cao. Lợi ích kinh tế - đặc biệt là lợi ích cá nhân người lao động - động lực
trực tiếp của sự phát triển chưa được quan tâm đúng mức, do vậy đây là một
nền kinh tế có tính thích nghi rất chậm chạp, tính năng động kém.
Ngược lại, trong nền kinh tế thị trường, tính tự chủ của các thành phần
kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí sản xuất và tự
chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Trên thị trường
hàng hoá rất phong phú, người ta được tự do mua bán và gặp nhau ở giá cả
thị trường. Đặc biệt, nền kinh tế thị trường có một tính năng riêng biệt - Đó là
sự cạnh tranh, là "bộ máy" điều chỉnh về sự trật tự của thị trường. Với hoạt
động kinh doanh mua và bán tự do của phía các thành phần kinh tế, nền kinh
tế thị trường là một hệ thống kinh tế rất phức tạp và đa dạng. Nó chịu sự điều
hành quản lý của hệ thống tiền tệ và luật pháp của Nhà nước. Sự vận động của
tiền tệ được coi là "hệ tuần hoàn máu" còn hệ thống luật pháp được coi như
"hệ thần kinh" của cơ chế thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm của nền kinh tế thị trường, nó cũng
có những hạn chế mà bản thân nó không thể giải quyết được như khủng
hoảng, thất nghiệp, lạm phát, bất bình đẳng, ô nhiễm... Do vậy, sự quản lý vĩ mô
bằng các chính sách và pháp luật là một yêu cầu không thể thiếu được trong
hoạt động vận hành của cơ chế kinh tế thị trường.
Ở Việt Nam, từ năm 1996, Đại hội lần thứ VII của Đảng cộng sản Việt
Nam đã xác định chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền
kinh tế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
1.2- Nền kinh tế thị trường Việt Nam với hoạt động Ngân hàng
Một tiền đề cơ bản của quá trính chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hoá sang
cơ chế kinh tế thị trường của mỗi nền kinh tế là trình độ phát triển kinh tế phải
trải qua tích luỹ cơ bản. Đây cũng chính là sự khó khăn của Việt Nam khi
chuyển sang cơ chế kinh tế mới. Việt Nam đang đứng trước một thực trạng:

Đất nước đã và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xuất phát từ một
xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ sản xuất rất thấp; đất
nước phải trải qua hàng chục năm chiến tranh ... Tuy vậy, dưới sự lãnh đạo tài
tình sáng suốt của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực ủng hộ và quyết tâm của nhân
dân trên con đường đổi mới xây dựng một nền kinh tế theo định hướng xã hội
chủ nghĩa, Việt Nam đã và đang vượt qua được nhiều khó khăn và đạt được
nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Năm 2001 là một trong những năm không dễ dàng cho sự ổn định và
phát triển kinh tế xã hội. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
cùng với những yếu kém nội tại của nền kinh tế chưa khắc phục được, thêm
vào đó là nạn thiên tai, hạn hán, lũ lụt liên tiếp ở nhiều vùng trong cả nước gây
ra những thiệt hại không nhỏ về người và của, đã đặt Việt Nam trước những
thách thức lớn.
Mặc dù những khó khăn thách thực đã có sự lường trước, nhiều giải
pháp kinh tế đã được đặt ra trong Hội nghị Trung ương VI (lần 1) và tại kỳ
họp thứ 4 quốc hội khoá X. Các giải pháp kinh tế đó đã được Chính phủ cụ thể
hoá, chỉ đạo một cách sát sao, do vậy đã hạn chế được những tác động bất lợi
do hậu quả của cuộc khủng hoảng khu vực, giữ được môi trường kinh tế vĩ mô
ổn định, không có những biến động lớn,, nền kinh tế vẫn duy trì được mức tăng
trưởng ... Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn chứa đựng nhiều yếu tố đáng lo ngại:
Nhịp độ tăng trưởng kinh tế đạt mức thấp nhất từ năm 1990 trở lại đây, sản
phẩm kém sức cạnh tranh, ứ đọng hàng tồn kho, sản xuất cầm chừng, khu vực
dịch vụ tăng chậm, các doanh nghiệp trong nước bộc lộ nhiều yếu kém, đầu tư
nước ngoài giảm sút, sự mất cân đối mang tính cơ cấu ngày càng rõ nét ...
Riêng trong lĩnh vực tiền tệ Ngân hàng về cơ bản vẫn giữ vững và ổn
định được sức mua của đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế
lạm phát ở mức cho phép...
Một nhân tố bất khả kháng là mấy năm vừa qua có nhiều thiên tai, chỉ
riêng cơn bão số 5 đã làm thiệt hại khoảng 5000 tỷ đồng thêm nữa trong năm
2001 lại lụt lội khắp các tỉnh miền trung, thiệt hại càng trút thêm gánh nặng

tài chính đất nước vốn đã khó khăn. Mặt khác, cộng thêm tình hình khủng
hoảng tài chính tiền tệ ở các nước trong khu vực, hiện tượng USD tăng giá, xu
hướng chuyển đổi tiền gửi nội tệ thành USD, găm giữ ngoại tệ tại các đơn vị có
nguồn thu ngoại tệ đã ảnh hưởng đáng kể tới hoạt động kinh doanh cả các
Ngân hàng thương mại. Đáng chú ý là có sự có mặt của 24 chi nhánh Ngân
hàng nước ngoài và 4 ngân hàng liên doanh sau một thời gian làm quen đầy
thân thiện nay họ đã trở thành đối thủ thực sự, đến năm 2000 họ đã đặt nhiều
quan hệ chặt chẽ với nhiều doanh nghiệp lớn, có mức dư nợ chiếm sấp xỉ 25%
tổng số dư nợ cả hệ thống Ngân hàng thương mại, trong đó đầu tư trung và
dài hạn chiếm tới 40%.
Có thể nói, đây là những ảnh hưởng trực tiếp của thị trường đối với
hoạt động của toàn ngành Ngân hàng Việt Nam nói chung và Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn nói riêng. Điều này đặt Ngân hàng Nông
nghiệp và phát triển nông thôn trước một thử thách mới, một sự chuyển đổi
nhạy bén mới trong năm 2001 nhằm hoạt động kinh doanh đạt kết quả tốt.
2- Vai trò hoạt động tín dụng của Ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế thị trường
2.1- Vài nét sơ qua về hoạt động của Ngân hàng thương mại trong cơ chế quản
lý bao cấp.
Với cơ chế quản lý bao cấp trước đây hệ thống ngân hàng chỉ là một cấp,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện chức năng cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực tiền tệ, làm nhiệm vụ cung cấp vốn kể cả các doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ, chứ chưa xuất hiện khái niệm Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ
hoạt động kinh doanh tiền tệ hay một trung gian tài chính nói trên. Các tổ chức
ngân hàng cho vay theo kế hoạch với lãi suất thấp, không tính đến hiệu quả sử
dụng gây nên tình trạng doanh nghiệp làm ăn được nhưng với một số lượng
vay cố định muốn mở rộng kinh doanh sản xuất đành chịu. Ngược lại những xí
nghiệp làm ăn thua lỗ không cần vốn nhưng với chế độ "Vay như được" nên cố
gắng sử dụng hết định mức vào lĩnh vực kém hiệu quả. Nên kết quả là người
khoẻ ăn được thì không ăn, người yếu không ăn được nhưng cứ cố nhồi nhét

cho no... hậu quả là cả hai cùng chết, nền kinh tế kém phát triển bởi những tư
tưởng ỷ lại trông chờ vào Nhà nước, vừa gò bó hoạt động tài chính, làm triệt
tiêu tính năng động sáng tạo, nảy sinh hiện tượng tiêu cực, sự giao lưu vốn bị
bó hẹp trong một chương trình khép kín (Ngân sách Nhà nước) của Ngân hàng
Nhà nước - Xí nghiệp quốc doanh.
2.2- Hoạt động của Ngân hàng thương mại trong cơ chế mới (trong thời gian
chuyển dịch cơ cấu kinh tế)
Nhiệm vụ kinh doanh của Ngân hàng thương mại rất phong phú và đa
dạng. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kinh tế và xã hội. Hoạt
động của Ngân hàng thương mại có nhiều phương pháp mới, nhưng các
nghiệp vụ kinh doanh về cơ bản là không thay đổi.. Nghiệp vụ mà bất kỳ Ngân
hàng thương mại nào cũng đã thực hiện trong nhiều năm và vẫn đang tiếp tục
thực hiện là nhận tiền gửi và hoạt động cho vay đầu tư. Các Ngân hàng thương
mại luôn tạo ra nguồn vốn nhằm đáp ứng nhu cầu đối với các doanh nghiệp,
Chính phủ và cá nhân. Làm được điều đó tức là các Ngân hàng thương mại đã
tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất, cung ứng các dịch vụ
cần thiết của toàn xã hội.
- Mở rộng các biện pháp huy động và cho vay vốn như phát hành các loại
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu có mục đích, có bảo đảm giới hạn bằng vàng.
- Ngân hàng cung ứng tín dụng ngắn hạn giúp các doanh nghiệp thúc
đẩy tiêu thụ, ổn định sản xuất kinh doanh, có tích luỹ mở rộng khả năng sản
xuất, mặt khác về dài hạn giúp các doanh nghiệp đầu tư trang thiết bị cần
thiết cho sự phát triển sản xuất kinh doanh lơị ích sau này.
- Ngân hàng, với sự tham gia của vốn tự có vào các doanh nghiệp ở Việt
Nam, sẽ làm gia tăng nhiều đóng góp vốn đầu tư mới cần thiết theo một tỷ lệ
nợ vốn thích hợp trong cơ cấu của các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy phát
triển chung của nền kinh tế.
- Ngân hàng đảm nhiệm quản lý và thực thi các hình thức thanh toán
cho chu trình phát triển kinh tế. Để đối phó với những đòi hỏi và thách thức
của nền kinh tế Việt Nam hôm nay và ngày mai. Mở rộng các dịch vụ như bảo

lãnh, cho thuê két sắt, dịch vụ trả và chuyển tiền ngoại hối, dịch vụ phục vụ
chương trình tín dụng EC... nhằm tăng lợi nhuận ngân hàng.
Hoạt động thực tiễn của hệ thống Ngân hàng thương mại nhằm tiến
hành một cách có hiệu quả nhiệm vụ của nó trong mối quan hệ haì hoà với các
lợi ích của toàn xã hội và là người "thủ môn" phụ thuộc đối với nền kinh tế,
trong số các biện pháp có tính chất rộng lớn để có thể quản lý có hiệu quả nền
kinh tế.
Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ tín dụng, loại hàng đặc biệt có
độ nhạy cao với những biến đổi của thị trường, tình hình kinh tế - xã hội. Ngân
hàng luôn phải đương đầu với đủ loại rủi ro riêng có, rủi ro từ các doanh
nghiệp, cá nhân vay tiền, rủi ro về nguồn vốn, lãi suất thanh toán... Những rủi
ro này đều có thể mang tới sự vỡ nợ cho bất kỳ Ngân hàng nào. Có thể nói rằng
rủi ro gắn liền với lợi nhuận trong hoạt động của mọi nhà ngân hàng.
Thêm vào đó nền kinh tế mở đã làm xuất hiện nhiều ngân hàng liên
doanh với nước ngoài, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, tạo môi
trường cạnh tranh giữa các ngân hàng với nhau. Cạnh tranh không phải lúc
nào cũng xấu, trái lại nó thúc đẩy sự tự nhận biết mình từ đó vươn lên để tồn
tại và phát triển. Do vậy, hoạt động của Ngân hàng thương mại xuất hiện thêm
nhiều hình thức dịch vụ kinh kỷ, uỷ thác, thanh toán, chuyển tiền với những
mục đích thu hút khách hàng, thu lợi nhuận và đặc biệt là biến đổi phù hợp với
cơ chế thị trường của nền kinh tế.
Tuy nhiên, hoạt động "nòng cốt" nhất của mọi Ngân hàng là hoạt động
"đi vay để cho vay". Chức năng đầu tiên của các Ngân hàng thương mại là mở
rộng tín dụng đối với khách hàng tin cậy. Ngay từ khi mới bắt đầu, những
người tổ chức các Ngân hàng thương mại đã luôn tìm kiếm các cơ hội để cho
vay coi đó như là chứ năng quan trọng nhất của mình và trong một số trường
hợp đặc biệt, Chính phủ phải bảo lãnh việc cho vay đáp ứng những nhu cầu tín
dụng của các cộng đồng dân cư đặc biệt.
Trong việc tạo ra khả năng tín dụng, các ngân hàng thương mại đã và
đang thực hiện các chức năng xã hội đặc biệt của mình làm cho sản phẩm xã

hội tăng đáng kể, vốn đầu tư được mở rộng và từ đó đời sống dân chúng được
cải thiện. Tín dụng của Ngân hàng thương mại có ý nghĩa quan trọng đối với
toàn bộ nền kinh tế, tạo ra khả năng tài trợ cho các hoạt động công nghiệp,
thương nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp... của đất nước. Những khả năng đó
của tín dụng khi đem so sánh với các sản phảm tiêu dùng tạo ra sản phẩm có
thể tính toán được. Công nghiệp thức ăn cung cấp cho chúng ta tất cả các sản
phẩm đã thu hoạch và chế biến, tuy vậy, những sản phẩm này không thể tiêu
dùng ngay được. Trong khi đó, tín dụng ngân hàng tạo khả năng cho những
người có nhu cầu mua nguyên liệu; chế biến ; đóng hộp; cất trữ hàng hoá và
cuối cùng là bán lẻ những sản phẩm đã được chế biến đến tận tay người tiêu
dùng. Mặc dù tín dụng ngân hàng đã tạo ra khả năng thực hiện quá trình sản
xuất lưu thông nhưng trong suốt quá trình đó, tín dụng luôn đương đầu với
khả năng có thể xảy ra, gây tổn thất cho ngân hàng.
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, vai trò tổ chức tài chính trung
gian của ngân hàng thương mại không ngừng phát huy và ngày càng mở rộng.
Nhưng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại lại chứa đựng nhiều
rủi ro nhất bởi lẽ ngân hàng đóng vai trò vừa là người cho vay, vừa là người đi
vay. Ngân hàng sẽ chịu rủi ro từ hai phía. Do vậy kinh doanh ngân hàng không
thể liều lĩnh như một số doanh nghiệp khác. Chính vì vậy nhận thức và đánh
giá đúng đắn về rủi ro ngân hàng là nhiệm vụ vô cùng quan trọng và thường
xuyên của các ngân hàng. Nếu hiểu rõ rủi ro ta có thể chấp nhận rủi ro một
cách có ý thức và có kế hoạch đối phó với hậu quả khi sự việc xấu đi. Cũng bởi
lẽ đó, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu xem vậy rủi ro Ngân hàng là gì? Nguyên nhân
và hậu quả của nó như thế nào?
II- Rủi ro trong tín dụng của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm về rủi ro tín dụng ngân hàng
1.1- Những rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nhà ngân hàng
Trong hoạt động kinh doanh của mình, ngân hàng phải đối mặt với rất
nhiều rủi ro có thể xuất hiện trên mọi phương diện. Những rủi ro này luôn có
mối quan hệ hữu cơ với nhau và kết hợp tạo thành một "dây chuyền" nguy

×