Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.57 KB, 44 trang )

NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN
MẶT TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Sự cần thiết khách quan và vai trò của thanh toán không dùng tiền
mặt trong nền kinh tế thị trường.
Một trong những phát minh quan trọng nhất của con người có tính đột phá,
đẩy nên văn minh của nhân loại tiến một bước dài đó là sự phát minh ra tiền tệ.
Tiền tệ ra đời và không ngừng được nghiên cứu hoàn thiện nhằm vào hai mục tiêu
chính: Sự tiện lợi và sự an toàn.
Tiền tệ là một loại hàng hoá đặc biệt, nó là công cụ nhiệm mầu trong quá trình
phát triển nền kinh tế, tiền tệ cũng có một quá trình lưu thông dựa trên cơ sở của
lưu thông và trao đổi hàng hoá. Do vậy, ở bất cứ xã hội nào còn sản xuất và lưu
thông hàng hoá thì còn tồn tại tiền như nội quy luật khách quan.
Cho đến đầu thế kỷ 20, khi tiền gắn liền vào quá trình sản xuất và trao đổi,
tiền được xem là có các chức năng sau: Là thước đo giá trị trao đổi của hàng hoá,
là phương tiện để lưu thông hàng hoá, là phương tiện cất giữ giá trị phương tiện
thanh toán, là phương tiện tiền tệ quốc tế và trong đó chức năng thước đo giá trị
trao đổi là quan trọng và cơ bản nhất của tiền tệ để phân biệt với các tài sản khác.
Việc dùng tiền là phương tiện trao đổi sẽ đẩy mạnh hiệu quả của nền kinh tế, giúp
cho việc lưu thông và trao đổi hàng hoá dễ dàng thuận tiện, thúc đẩy nền sản xuất
xã hội ngày càng phát triển, ngoài ra còn loại bỏ được nhiều thời gian dành cho
việc trao đổi các hàng hoá và dịch vụ. Thanh toán tiền tệ bao gồm: Thanh toán
bằng tiền mặt và thanh toán không dùng tiền mặt.
Giai đoạn đầu của sản xuất, lưu thông hàng hoá thì thanh toán giữa người mua
và người bán được thực hiện bằng tiền mặt nhưng khi sản xuất và lưu thông hàng
hoá ngày càng phát triển ở mức độ cao sẽ kéo theo việc thanh toán bằng tiền mặt
không ngừng tăng lên về số lượng, khi số lượng sản phẩm hàng hoá sản xuất ra
nhiều và tiêu thụ lớn được diễn ra một cách thường xuyên liên tục trong phạm vi
rộng khắp thì việc thanh toán bằng tiền mặt càng bộc lộ những nhược điểm của nó
khi phải thanh toán một lượng hàng hoá trao đổi lớn cần phải có một lượng tiền
mặt lớn tương ứng để thanh toán, như thế vận chuyển khối lượng tiền mặt quá lớn
vừa cồng kềnh, tốn kém, không an toàn, khó khăn nhất là trong điều kiện người


mua và người bán lại ở cách xa nhau về địa lý.
Thanh toán bằng tiền mặt quá lớn sẽ làm tăng các khoản chi phí trong lưu
thông tiền mặt như chi phí cho việc in ấn, vận chuyển, đóng gói, bảo quản, kiểm
đếm, cất trữ tiêu huỷ, phân loại tiền.
Ngoài ra, thanh toán bằng tiền mặt không chỉ gây áp lực bất lợi với việc tổ
chức điều hoà lưu thông tiền tệ mà còn gây sự lãng phí vốn lớn, không được tập
trung vận dụng cho sự phát triển kinh tế do có một khối lượng vốn lớn của nền
kinh tế trôi nổi nằm ngoài lưu thông. Hơn nữa thanh toán bằng tiền mặt cản trở tốc
độ chu chuyển gây ảnh hưởng không tốt đến phát triển sản xuất.
Thêm vào đó việc thanh toán bằng tiền mặt tạo ra những sơ hở không kiểm
soát được, thuận lợi cho những kẻ tham nhũng tìm cách chiếm đoạt tài sản của xã
hội như tình trạng thất thu thế, trốn thuế trong kinh doanh, hiện tượng tham ô hối
lộ, khai khống hoá đơn bán hàng…
Cũng xuất phát từ kẽ hở của việc sử dụng tiền mặt trong thanh toán. với
những quy chế nêu trên lúc này thanh toán bằng tiền mặt không còn phù hợp,
không đáp ứng được yêu cầu của nền kinh tế hiện đại và hình thức thanh toán
không dùng tiền mặt (TTKDTM) ra đời. Nó là kết quả tất yếu của quá trình phát
triển ngày càng cao của sản xuất lưu thông hàng hoá, nó đã nhanh chóng chiếm ưu
thế và trở thành một phần không thể thiếu được trong nền kinh tế thị trường.
TTKDTM ra đời đã khắc phục được phần nào nhược điểm của thanh toán bằng
tiền mặt. Có thể nói TTKDTM mang lại hiệu quả kinh tế cao, phù hợp với sự phát
triển của sản xuất lưu thông hàng hoá cho nên việc mở rộng và phát triển này trong
nền kinh tế thị trường là rất cần thiết và được các ngân hàng quan tâm và phát triển
mạnh mẽ.
1.1.2. Vai trò của thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế thị
trường.
TTKDTM là cách thức thanh toán không có sự xuất hiện của tiền mặt mà
được tiến hành bằng cách trích tiền từ tài khoản của người chi trả để chuyển vào tài
khoản của người thụ hưởng mở tại ngân hàng hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau
thông qua vai trò trung gian của ngân hàng.

Đặc điểm của TTKDTM
Thứ nhất: Trong TTKDTM, tiền tệ và hàng hoá vận động ngược chiều với
nhau.
Việc thanh toán không phải thực hiện bằng cách trao trả trực tiếp tiền và hàng
giữa người mua và người bán mà được thực hiện bằng cách trích chuyển đổi từ tài
khoản tiền gửi của người mua sang tài khoản tiền gửi của người bán sau khi hàng
hoá đã hoặc đang vận chuyển từ người bán tới người mua.
Thứ hai: TTKDTM sử dụng tiền ghi sổ hay còn gọi là tiền bút tệ.
Đây là đặc điểm cơ bản nhất của TTKDTM. Việc thanh toán được thực hiện
bằng cách trích chuyển từ tài khoản của người trả tiền chuyển vào tài khoản của
người thụ hưởng tại ngân hàng, kho bạc Nhà nước hoặc bằng cách bù trừ lẫn nhau.
Thứ ba: Trong TTKDTM, mỗi khoản thanh toán ít nhất có 3 bên tham gia đó
là: người trả tiền, người nhận tiền và các chuyên gia thanh toán.
Vai trò của TTKDTM
TTKDTM đã tạo ra những thuận lợi to lớn cho toàn bộ xã hội, thúc đẩy nền
kinh tế phát triển nhờ những ưu điểm vượt trội của nó so với thanh toán bằng tiền
mặt. TTKDTM ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế
thị trường.
Thứ nhất: TTKDTM thúc đất sản xuất và lưu thông hàng hoá mở rộng và
phát triển.
TTKDTM góp phần thúc đẩy tốc độ thanh toán, tốc độ chu chuyển vốn và quá
trình tái sản xuất xã hội. Khi nền sản xuất phát triển, việc trao đổi hàng hoá không
bị bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà diễn ra trên phạm vi rộng khắp
cả thế giới, đồng thời với khối lượng hàng hoá ngày càng tăng lên đã dẫn đến việc
thanh toán bằng tiền mặt trở lên bất tiện và không an toàn. Nếu như những người
tham gia trao đổi giao cho các ngân hàng hay các trung gian tài chính thanh toán
hộ thông qua tài khoản của mình ở ngân hàng nhanh chóng, thuận tiện, tiết kiệm và
đảm bảo an toàn tài sản, từ đó góp phần thúc đẩy quá trình sản xuất hàng hoá thông
suốt, thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh hơn.
Thứ hai: TTKDTM tạo nguồn vốn cho hệ thống ngân hàng Thương mại.

Khi các khách hàng đến mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng sẽ tạo ra một
lượng tiền nhàn rỗi mà ngân hàng có thể sử dụng để kinh doanh tạo lợi nhuận khi
những khách hàng này chưa sử dụng đến. Hơn nữa, thông qua nghiệp vụ này các
NHTM đã thực hiện chức năng “tạo tiền” của mình. Tiền ghi sổ được tạo ra khi
Ngân hàng tiến hành trích chuyển tiền từ tài khoản của người này sang tài khoản
của người khác.
Thứ ba: TTKDTM làm tiết kiệm chi phí lưu thông:
TTKDTM góp phần giảm khối lượng tiền mặt cần thiết trong lưu thông, do đó
tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ, chi phí in ấn, bảo quản, kiểm đếm, bốc rỡ tiền
mặt, chi phí giao nhận tiền mặt, tổ chức điều hoà lưu thông tiền mặt…đặc biệt với
những món thanh toán giá trị lớn, khoảng cách xa.
Thứ tư: TTKDTM là công cụ cạnh tranh hiệu quả giữa các ngân hàng:
Ngày nay, các ngân hàng không cạnh tranh với nhau chỉ bàng các sản phẩm
truyền thống đơn thuần. Các dịch vụ thanh toán được xem như là công cụ cạnh
tranh lành mạnh có hiệu quả bởi lẽ tổ chức tốt công tác TTKDTM sẽ tạo được sự
hấp dẫn đối với khách hàng, thu hút khách hàng đến mở tài khoản, tiền gửi vào
ngân hàng, giao dịch thanh toán qua ngân hàng, từ đó rễ ràng tiếp cận và sử dụng
các sản phẩm khác của ngân hàng, làm tăng khả năng cạnh tranh của ngân hàng.
Cuối cùng, TTKDTM tạo điều kiện để NHNN quản lý và điều tiết nền kinh tế
và điều hành chính sách tiền tệ của mình. NHNN có thể kiểm soát và điều hoà khối
lượng tiền trong lưu thông một cách rễ ràng hơn nhờ kiểm soát được khối lượng
tiền tín dụng mà các NHTM tạo ra ngày càng nhiều hơn.
Như vậy, TTKDTM giữ một vai trò vô cùng quan trọng. Đứng trên giác độ
của ngành ngân hàng, nó phản ánh khá trung thực trình độ quản lý, trình độ kỹ
thuật nghiệp vụ của Ngân hàng cũng như sự tín nhiệm của khách hàng. Trong nội
bộ một ngân hàng, TTKDTM không chỉ tác động đến nghiệp vụ thanh toán mà còn
tác động đến các mặt nghiệp vụ khác của ngân hàng như nghiệp vụ tín dụng. Nếu
làm tốt công tác TTKDTM thì sẽ thúc đẩy nghiệp vụ tín dụng phát triển và ngược
lại. Đi đôi với sự phát triển kỹ thuật tin học, ngày nay hoạt động ngân hàng hiện
đại cũng chuyển hướng kinh doanh bằng cách mở rộng các dịch vụ thay cho kinh

doanh chênh lệch lãi suất tiền gửi và cho vay là chủ yếu trước đây. Trong đó, dịch
vụ thanh toán đóng vai trò trọng tâm và đặc biệt quan trọng.
Kinh tế hiện đại coi hệ thống thanh toán hạ tầng cơ sở cho sự phát triển. Nói
đến thanh toán trong nền kinh tế tức là nói đến TTKDTM. Muốn có lâu dài kinh tế
– xã hội phát triển toàn diện thì phải có nền móng vững chắc. Trong đó có một
phần là trình độ phát triển của hệ thống thanh toán. Hệ thống thanh toán phải
không ngừng được củng cố và phát triển để có thể đảm đương được trọng trách đó.
Các hệ thống thanh toán cũng phải không ngừng được đa dạng hoá và công nghệ
thanh toán được nâng cao để hoàn thiện, mở rộng các hình thức TTKDTM cho phù
hợp với nền kinh tế luôn vận động và phát triển không ngừng.
1.2. Quy định chung trong thanh toán không dùng tiền mặt.
Để từng bước tiến gần với trình độ và thông lệ quốc tế trong thanh toán ngày
09/05/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 30/CP về phát hành và sử dụng séc
trong thanh toán và tháng 12/1996 NHNN đã có Thông tư số 07/thanh toán – NH1
hướng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng Séc. Tháng 12/2003 Chính phủ
ban hành Nghị định 159/CP thay thế cho nghị định 30/CP về Séc.
Ngày 20/9/2001 Chính phủ ban hành Nghị định 64/2001/NĐ - CP về hoạt
động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, bãi bỏ Nghị định
91/CP về tổ chức TTKDTM. Thông tư 05 hướng dẫn một số điều của Nghị định
159/CP.
Ngày 26/3/2002 NHNN ban hành Quyết định số 226/2002/QĐ- NHNN về
việc ban hành quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ
thanh toán thay thế cho Quyết định số 22 – QĐ/NH1 ngày 21/02/1994 của Thống
đốc NHNN ban hành thể lệ TTKDTM. Quyết định số 144 - QĐ/NH1 ngày
30/06/1994 của Thống đốc NHNN về điều kiện thực hiện TTKDTM đối với các
quỹ tín dụng nhân dân.
Trên cơ sở hiện đại học hoạt động thanh toán thông qua việc cải tiến đồng loạt
các nghiệp vụ thanh toán của hệ thống ngân hàng, áp dụng rộng rãi công nghệ
thông tin trong thanh toán ở tất cả các cấp ngân hàng thể hiện qua:
Quyết định số 1557/2001/QĐ-NHNN ngày 14/12/2001 của Thống đốc NHNN

ban hành quy chế thanh toán bù trừ điện từ liên Ngân hàng; Quyết định số
44/2002/QĐ- TTg ngày 21/3/2002 của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng
chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hoạch toán và thanh toán vốn giữa các tổ
chức cung ứng dịch vụ và thanh toán thay cho quyết định số 196/TTg ngày
01/4/1997 của Thủ tướng Chính phủ về việc sử dụng các dữ liệu thông tin trên vật
mang tin để làm chứng kế toán và thanh toán của các Ngân hàng và các tổ chức tín
dụng; Quyết định số 212/2002/QĐ-NHNN ngày 20/3/2002 Thống đốc NHNN ban
hành quy trình kỹ thuật nghiệp vụ thanh toán bù trừ điện tử liên ngân hàng; Quyết
định số 309/2002/QĐ-NHNN ngày 09/4/2002 của Thống đốc NHNN ban hành quy
chế thanh toán điện tử liên ngân hàng.
Có thể nói Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện chế độ TTKDTM cho
phù hợp với nền kinh tế tạo điều kiện cho các ngân hàng, tổ chức tín dụng triển
khai nhiều thể thức, hình thức thanh toán tiên tiến, từng bước hoà nhập với hệ
thống thanh toán theo thông lệ các nước trong khu vực và trên thế giới.
1.2.1. Đối với khách hàng (chủ tài khoản)
1.2.1.1. Điều kiện để thực hiện TTKDTM
Để tham gia thực hiện giao dịch thanh toán qua ngân hàng, người sử dụng
dịch vụ thanh toán là tổ chức, cá nhân (gọi tắt là khách hàng) phải mở tài khoản
thanh toán tại ngân hàng hoặc các tổ chức khác làm dịch vụ thanh toán.
Khách hàng được quyền lựa chọn ngân hàng để mở tài khoản, được quyền lựa
chọn sử dụng các dịch vụ thanh toán khi tiến hành thanh toán phải thực hiện thanh
toán thông qua tài khoản đã mở theo đúng chế độ quy định và phải trả phí thanh
toán theo quy định của ngân hàng và tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
1.2.1.2. Quyền của chủ tài khoản
Chủ tài khoản có quyền sử dụng số tiền trên tài khoản thông qua lệnh thanh
toán hợp pháp, hợp lệ. Chủ tài khoản được ngân hàng nơi mở tài khoản tạo mọi
điều kiện để sử dụng tài khoản của mình theo cách có hiệu quả và an toàn nhất.
- Được lựa chọn và sử dụng các dịch vụ thanh toán do Ngân hàng cung cấp
phù hợp với yêu cầu, khả năng và quy định của pháp luật.
- Được uỷ quyền cho người khác sử dụng tài khoản của mình theo quy định.

- Được yêu cầu ngân hàng nơi mở tài khoản thực hiện các lệnh thanh toán
phát sinh hợp pháp, hợp lệ trong phạm vi có số dư và có hạn mức thấu chi (nếu
được phép).
- Được yêu cầu cung cấp các thông tin về những giao dịch thanh toán và có số
dư trên tài khoản của mình.
- Được yêu cầu ngân hàng nơi mở tài khoản đóng, phong toả hoặc thay đổi
cách thức sử dụng tài khoản khi cần thiết.
- Được hưởng lãi xuất cho số tiền trên tài khoản theo mức lãi xuất do ngân
hàng quy định tuỳ theo đặc điểm của chủ tài khoản, số dư tài khoản và phù hợp với
cơ chế quản lý lãi suất của NHNN ban hành trong từng thời kỳ.
1.2.1.3. Trách nhiệm của chủ tài khoản
Trách nhiệm của chủ tài khoản phải đảm bảo có đủ tiền trên tài khoản để thực
hiện các lệnh thanh toán đã lập. Chịu trách nhiệm về việc chi trả vượt quá số dư có
trên tài khoản trừ trường hợp đã có thoả thuận thấu chi với ngân hàng. Khách hàng
là tổ chức tín dụng có nhận thanh toán phải duy trì trên tài khoản tiền gửi tại
NHNN số dư bình quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định.
- Tự tổ chức hạch toán, theo dõi số dư trên tài khoản, đối chiếu với giấy báo
nợ, giấy báo có hoặc giấy báo số dư tài khoản do ngân hàng nơi mở tài khoản tiền
gửi đến.
- Chịu trách nhiệm về những sai sót hay hành vi lợi dụng, lừa đảo khi sử dụng
dịch vụ thanh toán qua tài khoản do lỗi của mình.
- Tuân thủ các hướng dẫn của ngân hàng nơi mở tài khoản về việc lập các
lệnh thanh toán và sử dụng phương tiện thanh toán, thực hiện giao dịch thanh toán
qua tài khoản sử dụng, luân chuyển, lưu trữ chứng từ giao dịch, đảm bảo các biện
pháp an toàn trong thanh toán do ngân hàng quy định.
- Thông báo kịp thời với ngân hàng mở tài khoản khi phát hiện thấy sai sót,
nhầm lẫn trên tài khoản của mình hoặc tài khoản của mình bị lợi dụng. Cung cấp
thông tin chính xác khi yêu cầu sử dụng dịch vụ thanh toán hoặc trong quá trình sử
dụng dịch vụ thanh toán qua tài khoản.
- Không được cho thuê, cho mượn tài khoản, hoặc sử dụng tài khoản của

mình cho các giao dịch thanh toán đối với những khoản tiền đã có bằng chứng về
nguồn gốc bất hợp pháp.
1.2.2. Đối với ngân hàng
Là trung gian thanh toán giữa người mua và người bán, ngân hàng và các tổ
chức làm dịch vụ thanh toán phải làm đúng vai trò trung gian thanh toán của mình.
1.2.1.2. Quyền của ngân hàng
- Khi nhận được giấy đăng ký mở tài khoản của khách hàng, ngân hàng có
trách nhiệm giải quyết việc mở tài khoản tiền gửi của khách hàng nay trong ngày
làm việc. Sau khi đã chấp nhận việc mở tài khoản, ngân hàng thông báo cho khách
hàng biết số hiệu tài khoản, ngày bắt đầu hoạt động của tài khoản.
- Ngân hàng được chủ động trích tài khoản tiền gửi cử khách hàng và có
quyền từ chối thực hiện các lệnh thanh toán theo đúng quy định.
- Trong trường hợp phát hiện người sử dụng tài khoản vi phạm các quy định
hiện hành hoặc thoả thuận đã có quyền không thực hiện các yêu cầu sử dụng dịch
vụ thanh toán của khách hàng, giữ lại tang vật và thông báo ngay với cấp có thẩm
quyền xem xét xử lý.
- Phong tỏa, đóng, chuyển đổi hoặc tất toán dư tài khoản theo quy định.
- Được quy định các biện pháp đảm bảo an toàn trong thanh toán tùy theo yêu
cầu và đặc thù hoạt động.
- Yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin có lien quan khi sử dụng dịch vụ
thanh toán theo quy định.
- Phạt do khách hàng vi phạm các quy định về sử dụng tài khoản đã thỏa
thuận hoặc đã quy định.
1.2.2.2. Trách nhiệm của ngân hàng
Trách nhiệm của ngân hàng hướng dẫn khách hàng thực hiện đúng các quy
định về lập hồ sơ mở tài khoản, lập chứng từ giao dịch và các quy định có liên
quan trong việc sử dụng tài khoản, ngân hàng có trách nhiệm phát hiện và điều
chỉnh kịp thời các tài khoản mở sai hoặc sử dụng chưa chính xác.
- Thực hiện đầy đủ, kịp thời các lệnh thanh toán, các yêu cầu sử dụng tài
khoản của khách hàng phù hợp với quy định hoặc thỏa thuận giữa ngân hàng và

khách hàng. Kiểm soát các lệnh thanh toán của khách hàng, đảm bảo đúng lập
đúng thủ tục quy định, hợp pháp, hợp lệ và khớp với các yếu tố đã đăng ký, cung
ứng đầy đủ, kịp thời các dịch vụ phương tiện thanh toán cần thiết phục vụ nhu cầu
giao dịch của khách hàng qua ngân hàng.
- Thực hiện hạch toán theo các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trên cơ sở các
chứng từ kế toán hợp pháp, hợp lệ nhận được. Điều chỉnh các khoản mục bị hạch
toán sai, hạch toán không đúng bản chất hoặc không phù hợp với nội dung sử dụng
của chủ tài khoản theo quy định.
- Gửi đầy đủ, kịp thời các giấy báo Nợ, giấy báo Có, bản sao sổ tài khoản,
giấy báo số dư tài khoản theo yêu cầu của người sử dụng tài khoản. Thông tin kịp
thời về những giao dịch thanh toans và số dư tài khoản cho khách hàng theo định
kỳ hoặc đột xuất khi có yêu cầu.
- Bảo mật các thông tin có liên quan đến tài khoản và giao dịch trên tài khoản
của khách hàng theo quy định.
- Bảo quản, lưu trữ hồ sơ mở tài khoản và các chứng từ giao dịch qua tài
khoản theo đúng cách thức và thời hạn do Thống đốc NHNN quy định.
- Niêm yết công khai các quy định về mở và sử dụng tài khoản.
- Chịu trách nhiệm về những thiệt hại, vi phạm, lợi dụng trên tài khoản của
khách hàng do lỗi của mình.
1.3. Khái quát về có chế thanh toán không dùng tiền mặt
Nền kinh tế thị trường nước ta hiện nay chưa đạt đến trình độ phát triển cao vì
thế, việc sử dụng TTKDTM còn chưa phổ biến, chủ yếu là trong các doanh nghiệp
lớn. Trong điều kiện đó, cơ chế TTKDTM của nước ta có những nội dung riêng
phù hợp với trình độ kinh tế. Trong phần này em xin nêu khái quát về các thê thức
TTKDTM và các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng theo quy định
của pháp luật hiện nay ở Việt Nam.
1.3.1. Các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng
1.3.1.1. Sự cần thiết của thanh toán vốn giữa các ngân hàng
Chức năng thanh toán của ngân hàng đang phát triển với những mô thức
phong phú, đa dạng và ngày càng chiếm giữ vai trò quan trọng đối với hoạt động

kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia. Sự nhanh chóng thuận tiện an toàn và hiệu quả trong
thanh toán sẽ đảm bảo chác các dòng vốn trong nền kinh tế – xã hội được tập trung
và phân phối nhanh, đáp ứng có hiệu quả cho sự phát triển kinh tế. Ngược lại, sự
chậm trễ, ách tắc trong thanh toán là biểu hiện của nền kinh tế trì trệ kém phát
triển.
Cùng với các nghiệp vụ khác của ngân hàng, cung cấp các dịch vụ TTKDTM
là một trong những hoạt động chính của Ngân hàng và ngày càng tạo ra những tiện
tích cho con người sử dụng. TTKDTM là sự chuyển dịch giá trị từ tài khoản tiền
gửi không kỳ hạn của bên trả tiền sang tài khoản tiền gửi không kỳ hạn của bên thụ
hưởng.
Trong trường hợp bên trả tiền và bên thụ hưởng đều mở tài khoản tại một đơn
vị Ngân hàng thì việc thanh toán của hai chủ thể sẽ không ảnh hưởng đến vốn của
ngân hàng và việc kiểm soát sẽ không gặp phải khó khăn lớn. Tuy nhiên, việc
thanh toán giữa các chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường không chỉ bó hẹp
trong phạm vi một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán mà còn được thực hiện
giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ với nhau. Với việc TTKDTM giữa hai khách
hàng mở tài khoản tiền gửi không kỳ hạn ở hai chi nhánh ngân hàng khách hệ
thống sẽ có sự chuyển dịch tiền tương ứng theo. Ngân hàng phục vụ bên trả tiền và
ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng không những phải thực hiện thanh toán theo yêu
cầu của khách hàng mà phải thực hiện thanh toán vốn với nhau một cách sòng
phẳng, chính xác và kịp thời, đồng thời phải có biện pháp thích hợp để kiểm soát
tính xác thực của các khoản thanh toán nhằm đảm bảo an toàn tài sản. Đây là công
việc nội bộ giữa các ngân hàng bắt nguồn từ yêu cầu thanh toán của chủ tài khoản
trả tiền.
Khi TTKDTM ngày càng phát triển và tạo ra những tiện ích cho khách hàng
thì nghiệp vụ thanh toán vốn giữa các ngân hàng càng phải có sự thay đổi theo để
đảm bảo cho sự chính xác, kịp thời.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu và xác lập phương thức, quan hệ thanh toán
giữa các ngân hàng là hết sức cần thiết trong hoạt động ngân hàng. Ngoài ra, công
việc thanh toán vốn giữa các ngân hàng còn xuất phát từ nhu cầu tập trung và điều

hòa vốn thuộc ngân sách nhà nước của các ngành và nhu cầu điều hòa của chính
các ngân hàng, từ yêu cầu của nghiệp vụ ngân hàng như hạch toán lãi, điều chuyển
tiền mặt, tài sản…
1.3.1.2. Các phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng
Do quan hệ thanh toán rất đa dạng và xuất phát từ các tổ chức hạch toán ở
mỗi hệ thống ngân hàng: Hệ thống NHNN, hệ thống NHNN quốc doanh, hệ thống
NHNN cổ phần nên trong thanh toán vốn giữa các ngân hàng áp dụng nhiều
phương thức khác nhau.
1.3.1.2.1. Phương thức thanh toán liên hàng trong cùng hệ thống
Thanh toán liên hàng là phương thức thanh toán vốn giữa các chi nhánh ngân
hàng trong cùng một hệ thống ngân hàng.
Thực chất của thanh toán liên hàng là việc chuyển tiền từ ngân hàng này đến
ngân hàng kia để phục vụ thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ của hai khách hàng
(mua và bán) khi cả hai khách hàng không cùng mở tài khoản tại một ngân hàng,
hoặc là chuyển cấp vốn, điều hòa vốn trong nội bộ một hệ thống ngân hàng.
Tùy theo đặc điểm của từng hệ thống ngân hàng, để tiến hành tổ chức hệ
thống thanh toán liên hàng một cách thích hợp. Chẳng hạn có những hệ thống ngân
hàng tổ chức hệ thống thanh toán liên hàng toàn hệ thống, nhưng có một số hệ
thống ngân hàng còn thiết lập thêm hệ thống thanh toán giữa các chi nhánh ngân
hàng trong cùng một tỉnh, một thành phố và thực hiện kiểm soát, đối chiếu liên
hàng nội tỉnh theo sự ủy quyền của cấp Trung ương.
Phương thức này được phát triển qua rất nhiều giai đoạn theo sự phát triển của
ngành ngân hàng và tình hình ứng dụng tin học trong ngân hàng.
* Giai đoạn thanh toán liên hàng truyền thống
Việc ứng dụng tin học chưa cao, các ngân hàng xử lý, giao nhận chứng từ,
kiểm soát và đối chiếu chứng từ bằng công nghệ thủ công. Do vậy phương thức
kiểm soát và đối chiếu đã chuyển từ kiểm soát tập chung, đối chiếu tập chung sang
kiểm soát tập chung, đối chiếu phân tán.
+ Phương thức “Kiểm soát tập chung, đối chiếu phân tán”: Theo phương thức
này, các chi nhánh trực tiếp chuyển tiền cho nhau, trung tâm thanh toán làm nhiệm

vụ kiểm soát tất cả các chuyển tiền sau đó lập hồ sơ đối chiếu gửi các chi nhánh
nhận tiền để Ngân hàng này đối chiếu (đối chiếu phân tán ở các ngân hàng nhận
chuyển tiền).
(2)

Chú giải
1. Ngân hàng A cho ngân hàng B qua bưu điện.
2. Ngân hàng A gửi giấy báo chuyển tiền cho TTTT để kiểm soát.
3. TTTT sau khi kiểm soát lập sổ đối chiếu gửi ngân hàng B.
Phương thức này được sử dụng trong thời gian khá dài, cho tới gần đây trước
khi áp dụng chuyển tiền điện từ và phương thức này áp dụng trong thanh toán liên
hàng truyền thống.
* Giai đoạn thanh toán chuyển tiền điện tử.
Đến nay, phương thức thanh toán liên hàng nội bộ được chuyển thành chuyển
tiền điện tử (thanh toán tập trung) với nội dung chủ yếu là sử dngj công nghệ thông
tin hiện đại để chuyển các lệnh chuyển tiền từ ngân hằng A (khởi tạo nghiệp vụ)
qua trung tâm thanh toán ch ngân hàng B nhận (nhận nghiệp vụ).
Trong chuyển tiền điện tử, các ngân hàng lại quay về áp dụng phương thức
kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung.
Phương thức “Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung”: Theo phương thức
này, ngân hàng chuyển tiền gửi tiền cho ngân hàng nhận tiền thông qua trung tâm
Kiểm soát và đối
chiếu
(3)
Ngân hàng B
Ngân hàng A
(1)
thanh toán (truyền quan mạng). Trung tâm thanh toán làm nhiệm vụ kiểm soát và
đối chiếu tất cả các chuyển tiền trong toàn hệ thống.
Sơ đồ phương thức “Kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung:.



Chú giải:
1. Ngân hàng A chuyển tiền qua mạng về TTTT để TTTT chuyển tiếp về ngân
hàng B.
2. TTTT truyền chuyển tiền về ngân hàng B
3. Cuối ngày TTT đối chiếu cho tất cả các ngân hàng.
4. Các ngân hàng xác nhận đối chiếu gửi TTTT.
Trong giai đoạn công nghệ thống tin đã phát triển như vũ bão và được áp
dụng rộng rãi trong hoạt động ngân hàng, các ngân hàng Việt Nam đang chuyển
dần từ thanh toán liên hàng truyền thống sang thanh toán liên hàng điện tử, tiến tới
xây dựng hệ thống thanh toán hiện đại nhằm xử lý các khoản thanh toán chuyển
tiền một cách nhanh chóng, chính xác, an toàn và quản lý chặt chẽ vốn trong thanh
toán.
Do ứng dụng công nghệ thông ngân hàng hiện đại nên việc kiểm soát và đối
chiếu khớp đúng được thực hiện ngay trong ngày trên hệ thống máy vi tính theo
quy trình.
Trung tâm thanh
toán
(3)
(4)))
(1)
(3)(4)(2)
Ngân hàng B
Ngân hàng A
Việc chuyển tiền đi từ NHA sẽ qua trung tâm kiểm soát và đối chiếu để kiểm
soát trước khi chuyên cho NHB.
Cuối ngày, các đơn vị chuyển tiền điện tử có nhiệm vụ lập và gửi báo cáo
chuyển tiền trong ngày theo quy định tới trung tâm thanh toán để phục vụ cho việc
đối chiếu.

Trung tâm thanh toán có trách nhiệm kiểm soát và đối chiếu khớp đúng toàn
bộ doanh số chuyển tiền phát sinh trong ngày giữa các đơn vị chuyển tiền cùng hệ
thống và gửi bảng đối chiếu cho các đơn vị chuyển tiền.
Các đơn vị chuyển tiền chỉ được lưu trữ số liệu sau khi đã đối chiếu khớp
đúng với trung tâm thanh toán.
1.3.1.2.2. Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng
Thanh toán bù trừ là phương thức thanh toán vốn giữa các ngân hàng. Qua
nghiệp vụ này, các ngân hàng thực hiện bù trừ các khoản thu hộ, chi hộ lẫn nhau
và định kỳ sẽ thanh toán số chênh lệch sau mỗi phiên toán bù trừ.
Thanh toán bù trừ được áp dụng giữa các ngân hàng khác hệ thống với nhau
(thanh toán bù trừ khác hệ thống) hoặc có thể áp dụng đối với các đơn vị ngân
hàng thuộc cùng hệ thống ngân hàng (thanh toán bù trừ cùng hệ thống). Tùy thuộc
vào phương pháp trao đổi chứng từ, trên cơ sở chứng từ giấy (thanh toán bù trừ
giấy) và thanh toán bù trừ điện tử.
Thanh toán bù trừ có vai trò hết sức quan trọng, giúp việc thanh toán vốn giữa
các ngân hàng được nhanh chóng, sòng phẳng đặc biệt là thanh toán khác hệ thống.
Do việc giải quyết thanh toán ngay trong ngày nên thanh toán bù trừ tạo điều
kiện để đẩy nhanh được tốc độ thanh toán cho cả khách hàng và ngân hàng.
Do việc thanh toán chỉ thực hiện trên số chênh lệch của mỗi đợt bù trừ nên
góp phần tiết kiệm được vốn trong thanh toán.
1.3.1.2.3. Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước
Thanh toán qua tài khoản giử tại ngân hàng Nhà nước được áp dụng trong
thanh toán qua lại giữa hai ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng khác hệ thống đếu có
tài khoản gửi tại NHNN (cùng hoặc khác chi nhánh, sở giao dịch NHNN) các
khoản thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN của các ngân hàng cũng đều
phát sinh trên cơ sở các khoản thanh toán của khách hàng và của nội bộ các ngân
hàng như các khoản điều chuyển vốn, các khoản vay trả giữa các ngân hàng với
nhau.
Các NHTM phải mở tài khoản tại NHNN và trên tài khoản tiền gửi phải
thường xuyên có đủ số dư để thanh toán kịp thời. Những trường hợp thanh toán

vượt quá số dư sẽ không được chấp nhận ngoại trừ NHNN có xác nhận một hạn
mức thấu chi hoặc cho vay qua đêm.
Trong quá trình giao dịch các NHTM sử dụng các mẫu chứng từ theo quy
định của NHNN, trên chứng từ phải có mẫu và dấu chữ ký đã đăng ký khi mở tài
khoản.
1.3.1.2.4. Thanh toán theo phương thức ủy nhiệm chi hộ, thu hộ
Uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ là phương thức thanh toán giữa hai ngân hàng theo sự
thỏa thuận và cam kết với nhau, ngân hàng này sẽ thực hiện thu hộ hoặc chi hộ cho
ngân hàng kia trên cơ sở các chứng từ thanh toán của các khách hàng có mở tài
khoản tại ngân hàng kia.
Để tiến hành thanh toán theo phương thức UNT hộ, chi hộ hai ngân hàng phải
ký hợp đồng để thống nhất với nhau về nguyên tắc thủ tục và nội dung thanh toán.
Các nghiệp vụ thanh toán thu hộ, chi hộ phát sinh được hạch toán vào tài khoản thu
hộ, chi hộ giữa các ngân hàng. Theo định kỳ thỏa thuận, hai ngân hàng đối chiếu
doanh số và số dư tài khỏan thul chi hộ để thanh toán cho nhau và tất toán số dư
của tài khoản này.
1.3.1.2.5. Phương thức mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau để thanh toán
Điều kiện để thực hiện thanh toán: Để thanh toán theo phương thức này đòi
hỏi ngân hàng hoặc đơn vị ngân hàng này phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng
kia hoặc ngược lại, theo đó hai ngân hàng phải đăng ký mẫu dấu, chữ ký của người
có thẩm quyền ra lệnh thanh toán.
Ngân hàng phát sinh nghiệp vụ có trách nhiệm lập chứng từ thanh toán (nếu là
khoản thanh toán của chính mình) hoặc bảng kê có kèm theo các chứng từ thanh
toán của khách hàng (đối với các khoản thanh toán của khách hàng) giửi tới ngân
hàng có quan hệ tiền gửi để yêu cầu thanh toán.
1.3.1.2.6. Thanh toán điện tử liên ngân hàng
* Quy trình triển khai hệ thống thanh toán điện từ liên ngân hàng
Trước xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tham gia khu vực mậu
dịch tự do các nước ASEAN (AFTA) thực hiện hiệp định thương mại Việt – Mỹ và
tham gia tổ chức thương mại quốc tế (WTO), hệ thống thanh toán của Nhà nước

Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập.
Ngày 21/03/2002 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số
44/2002/QĐ-TTg cho phép các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được sử dụng
chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn.
Từ cơ sở pháp lý trên ngân hàng Nhà nước đã ban hành các cơ chế nghiệp vụ
và quy trình kỹ thuật có liên quan, đồng thời tích cực hoàn thiện các trang bị cơ sở
vật chất và chương trình phần mềm thực hành trên máy vi tính để triển khai thực
hiện quyết định trên và đến ngày 05/02/2002 hệ thống “Thanh toán điện tử liên
ngân hàng” đã chính thức đi vào hoạt động.
Đây là hệ thống thanh toán được thiết kế theo chuẩn mực quốc tế là hệ thống
tổng thể bao gồm: Hệ thống bù trừ liên ngân hàng, hệ thống xử lý tài khoản tiền
gửi thanh toán và cổng giao diện với hệ thống chuyển tiền điện tử của NHNN.
Hiện nay, đã có gần 200 chi nhánh của 50 thành viên tham gia.
* Chức năng của hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng

×