THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI CHĂN NUÔI Ở
TỈNH PHÚ THỌ
I. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế xã hội ở tỉnh Phú Thọ ảnh hưởng đến
phát triển chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trang trại nói riêng.
1.Đặc điểm tự nhiên.
Vị trí địa lý.
Phú Thọ nằm ở vị trí trung tâm miền Bắc Việt Nam, là tỉnh miền núi mang
sắc thái của 3 vùng địa hình: Đồng bằng, trung du và miền núi. Phía bắc giáp
Yên Bái-Tuyên Quang, phía nam giáp Hoà Bình, phía đông giáp Vĩnh Phúc-Hà
Tây, phía tây giáp Sơn La.
Toạ độ địa lý từ 22
0
55
’
đến 21
0
45
’
độ vĩ bắc, 104
0
47
’
đến 105
0
27
’
độ kinh
đông, nằm tiếp giáp với đồng bằng Sông Hồng, là nơi chu chuyển tuyến Hà Nội
đi các tỉnh miền núi tây Bắc và Việt Bắc cũng như khá gần với 2 cửa khẩu Hà
Khẩu (Lào Cai) và Thanh Thuỷ (Hà Giang), mở ra triển vọng lớn trong quá
trình phát triển kinh tế và hội nhập. Có lợi thế là có 3 con sông lớn chảy qua:
sông Hồng, sông Lô, sông Đà, đây là nguồn nước quan trọng không chỉ đáp ứng
cho nhu cầu về nông nghiệp mà còn rất thuận lợi cho giao thông đường thuỷ.
Phú Thọ còn có 9.481 km đường bộ và 94,7 km đường sắt chạy qua địa bàn
tỉnh; 3 tuyến đường sắt phục vụ cho nhà máy giấy Bãi Bằng , supe Lâm Thao,
cảng Việt Trì (dài 14,6km). Nếu được khai thác hợp lý thuận lợi trên sẽ giúp
cho Phú Thọ đẩy mạnh phát triển kinh tế. đặc biệt là khâu luân chuyển hàng
hoá ra khỏi vùng nhanh chóng, giá thành hạ. Đây là một thuận lợi rất quan
trọng đối với phát triển nông nghiệp nói chung và trong chăn nuôi nói riêng.
Để đẩy mạnh chăn nuôi theo mô hình trang trại thì việc có địa lý thuận lợi, lưu
thông dễ dàng là một yếu tố thuận lợi và cần thiết trong phát triển chăn nuôi
nói riêng và các ngành kinh tế khác, hàng hoá sản xuất ra với sản lượng lớn,
giao thông thuận lợi, đẩy mạnh lưu thông hàng hoá ra khỏi vùng, chi phí giảm,
giá thành giảm- tăng lợi nhuận, tăng khả năng tái sản xuất.
Địa hình.
Phú Thọ là vùng chuyển tiếp giữa đồng bằng châu thổ sông Hồng và miền
núi phía Bắc,địa hình tương đối phức tạp, song có thể chia làm 3 kiểu địa hình
chính:
- Địa hình vùng núi cao (chiếm 34,3%) phân bổ chủ yếu ở Thanh Sơn, Yên
Lập và một phần ở Hạ Hoà. Đặc điểm có nhiều dãy núi cao trên 1.000m như
núi Cẩn:1.042m, núi Lưỡi Hái:1.058m, núi Ten:1.244m, núi Voi:1.360m. Các dải
núi chạy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, độ cao tuyệt đối trên 700m, địa hình
chia cắt mạnh có nhiều khe sâu và đỉnh cao dốc.
- Địa hình núi thấp, nhiều đồi gò úp bát, xen kẽ thung lũng (chiếm40,8%),
phân bổ chủ yếu ở Đoan Hùng, Hạ Hoà, Thanh Ba, Cẩm Khê, Phù Ninh, Tam
Nông. Địa hình này thấp dần từ Đông Bắc xuống Đông Nam, núi thấp có độ dốc
trung bình 20
0
đến 30
0
, độ cao từ 100m đến 600m. Địa hình này ở Phú Thọ có
nhiều thuận lợi cho phát triển trồng trọt, chăn nuôi, riêng chăn nuôi ở Phú Thọ
vùng này được phát triển tập trung ở các huyện Hạ Hoà, Phù Ninh, Lâm Thao,
Thị xã Phú Thọ được coi là vùng trọng điểm để phát triển chăn nuôi theo mô
hình trang trại, riêng Tam Nông, Thanh Thuỷ là vùng có tiềm năng để phát
triển chăn nuôi đại gia súc: trâu, bò…, phát triển kết hợp trồng trọt, chăn nuôi,
thức ăn chăn nuôi được lấy từ trồng trọt giảm tối đa chi phí thức ăn mua
ngoài, tăng lợi nhuận, tăng thu nhập cho các hộ chăn nuôi.
- Địa hình bằng (chiếm 24.9%) phân bổ chủ yếu ở Lâm Thao, Thanh Ba, Việt
Trì và các ven sông Đà, sông Hồng, sông Lô, địa hình này phát triển các ngành
thuộc lĩnh vực công nghiệp và công nghiệp chế biến, dịch vụ. Ngoài ra còn phát
triển trồng cây lương thực, thực phẩm ở các vùng ven sông phục vụ cho phát
triển chăn nuôi trong địa bàn tỉnh.
Đất đai, khí hậu.
- Đất đai: tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh Phú Thọ là 3.519 km
2
trong
đó đất nông nghiệp là 967 km
2
, đất lâm nghiệp có rừng là 1.392 km
2
, đất
chuyên dùng 211km
2
, đất ở 76km
2
đất chưa sử dụng và sông suối 872km
2
.
Nguồn quỹ đất chủ yếu là lâm nghiệp (39,64%) nông nghiệp chỉ chiếm 27,25%,
cơ cấu đất sử dụng trong địa bàn tỉnh Phú Thọ được trình bày qua đồ thị sau:
- Khí hậu: Cũng như các tỉnh khác thuộc đồng bằng và trung du miền Bắc,
Phú Thọ nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, điều kiện khí hậu được chia thành
2 mùa rõ rệt: mùa khô lạnh từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, mùa mưa nóng
và ẩm từ tháng 5 đến tháng 10. Theo số liệu thống kê tại trạm khí tượng thuỷ
văn ở thành phố Việt Trì, một số năm gần đây, nhiệt độ trung bình năm là 23
0
C,
nhiệt độ trung bình cao nhất vào tháng 5 (28,9
0
C) và thấp nhất vào tháng1
(16,9
0
C), nhiệt độ trung bình tối cao lên đến 37,7
0
C vào tháng 5 và nhiệt độ
trung bình tối thấp nhất xuống 9
0
C vào tháng 12 và tháng 1 hàng năm( xem đồ
thị 2 và đồ thị 3):
Đồ thi 1: Cơ cấu đất sử dụng của tỉnh Phú Thọ.
Nói tóm lại: Đất đai, khí hậu, thời tiết Phú Thọ rất thuận lợi cho việc phát
triển nông nghiệp và đặc biệt phát triển ngành chăn nuôi. Tuy nhiên ở khu vực
địa hình núi cao như Thanh Sơn, Yên Lập và một phần ở Hạ Hoà trong mùa
mưa bão (4-6 trận bão trong năm), có thể xảy ra lũ quét, lốc và gió xoáy kèm
theo mưa đá nên cũng ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp nói chung và chăn
nuôi nói riêng, tuy nhiên do công tác phòng chống tốt nên đã phần nào hạn chế
được ảnh hưởng trên.
Nhi
ệt
độ
Đồ thị 2: Nhiệt độ không khí trung bình tháng trong năm.
( nguồn: Đài khí tượng Thuỷ văn khu vực Việt Trì).
Đồ thị 3: Lượng mưa trung bình trong năm
(Nguồn: Đài khí tượng thuỷ văn Việt Trì)
Hệ thống sông, suối.
Phú Thọ nằm ở trung lưu của hệ thống sông Hồng, trên địa bàn tỉnh có 3 sông
lớn chảy qua bao gồm sông Hồng, sông Lô, sông Đà. Ngoài ra còn có sông Bứa,
sông Chảy và nhiều sông, ngòi và suối nhỏ thuộc chi lưu của các sông trên, đặc
điểm chủ yếu của hệ thống sông ngòi như sau:
- Sông Hồng: Chiều dài chảy qua Phú Thọ từ Hởu Bổng (Hạ Hoà) đến bến
Gót (Việt Trì) khoảng 110km, chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, lưu vực lũ
lớn nhất trên 30.000m
3
/s.
Tháng
Lượ
ng
mưa
Tháng
- Sông Lô: Chiều dài chảy qua Phú Thọ từ Chi Đám (Đoan Hùng) đến bến Gót
(Việt Trì) khoảng 67km, cũng chảy theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, lưu lượng
lớn nhất xấp xỉ 9.000m
3
/s .
- Sông Đà:Chảy qua Phú Thọ từ Tinh Nhuệ (Thanh Sơn) đến Hồng Đà (Tam
Nông) khoảng 41,5km theo hướng Bắc-Nam. Đây là con sông chảy qua Phú
Thọ có lượng mưa dữ dội nhất của vùng cao hiểm trở Tây Bắc nên có lưu
lượng lũ lớn hơn 18.000m
3
/s. Lượng lũ chiếm tới 49% tổng lượng lũ sông
Hồng và là nguyên nhân gây ra lũ nhiều nhất.
- Hệ thống sông suối nhỏ: Ngoài 3 sông lớn ở trên còn có sông Bứa và một
phần sông Chảy ở phía Bắc của tỉnh. Ngoài ra còn có hệ thống sông, suối nhỏ
tập trung ở các lưu vực sông chính với mật độ trung bình từ 0,5 đến
1,5km/km
2
. Biên độ dao động giữa 2 mùa lũ- kiệt lớn, biên độ trung bình là
9,65m dao động lớn nhất là 12,25m. Về mùa lũ nước sông cao hơn nước trong
đồng, do vậy các công trình tự tiêu, tự chảy phục vụ nông nghiệp không phát
huy được vào mùa lũ.
Do các hệ thống sông chảy qua, nên các vùng ven sông thường có lượng
phù sa bồi đắp mầu mỡ rất thuận lợi cho việc phát triển nông ngiệp như chăn
nuôi trông trọt, phát triển trồng cây lương thực, thực phẩm không chỉ phục vụ
cho nhu cầu tiêu dùng con người mà còn thúc đẩy mạnh mẽ phát triển chăn
nuôi, phát triển mạnh mẽ công nghệ chế biến sản xuất thức ăn phục vụ cho
chăn nuôi trong địa bàn tỉnh Phú Thọ, chăn nuôi phát triển tới quy mô trang
trại và cao hơn nữa. Hệ thống sông suối còn tạo điều kiệncho phát triển lưu
thông hàng hoá ra khỏi vùng được dễ dàng và nhanh chóng, chi phí giảm, giá
thành hạ.
2. Điều kiện kinh tế- xã hôi và cơ sở hạ tầng.
2.1 Điều kiên kinh tế – xã hội.
+ Điều kiện về xã hội:
- Dân số và dân tộc: Theo số liệu điều tra dân số năm 2002 tỉnh Phú Thọ có
1289027 người trong đó 86,08% sống ở vùng nông thôn và chỉ có 13,92% sống
ở thành thị, mật độ dân số là 370 người/km2. Tỷ tăng dân số trung bình là
1,03%/năm. Phú Thọ đến năm 2003 dân số tăng lên 1307428 người trong đó
dân số thàng thị chiếm 14,62%. Dân số sống ở nông thôn là 85,38% như vậy
dân số tỉnh Phú Thọ có sự tăng lên về số lượng đây là nguồn lao động dồi dào
phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Phú Thọ. Phú Thọ có 23 dân tộc
sinh sống, tuy nhiên người kinh vẫn chiếm đa số, tiếp đến là dân tộc Mường,
Tày, Dao.
- Lao động và việc làm: Hiện tại tỉnh Phú Thọ có 67 vạn lao động. Theo kết
quả điều tra và dự báo nguồn lực lao động của tỉnh sẽ tăng lên 72 vạn người
vào năm 2005 và 76 vạn vào năm 2010. Thực tế cho thấy nguồn lao động của
tỉnh hiện tại cũng như trong tương lai vẫn dư thừa. Để tạo công ăn việc làm
cho người lao động, năm 2002 tỉnh đã đào tạo được 2500 người có việc làm
mới và xuất khẩu 1400 lao động. Hiện tại tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị còn 3,6%.
Tỷ lệ đói nghèo ở nông thôn giảm 3,2% (còn 12,48%).
Như vậy dân số và lao động ở Phú Thọ còn thừa, đây là nguồn lao động có
thể tận dụng vào làm trong các ngành trồng trọt, chăn nuôi, đặc biệt là chăn
nuôi theo mô hình trang trại, có thể mở rộng quy mô để tận dụng nguồn lao
động dư thừa, giá thuê rẻ mạt tiết kiệm được chi phí trong sản xuất. Như vậy
nếu có biện pháp sử dụng hợp lý nguồn lao động sẽ giúp cho ngành chăn nuôi
nói chung và trong các trang trại chăn nuôi nói riêng phát triển mạnh cả về
quy mô và số lượng, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trang trại của
Phú Thọ và giải quyết được việc làm cho nhiều lao động thất nghiệp ở nông
thôn, thu nhập của người dân tăng lên và giúp cho việc giải quyết chương
trình xoá đói giảm nghèo của tinh Phú Thọ được nhanh chóng xoá được hộ đói,
giảm hộ nghèo.
- Giáo dục và y tế: tỉnh có 12 huyện thị, thành phố; 267 xã, phường, trong đó
xã miền núi chiếm gần 80% và vẫn còn tồn tại 50 xã đặc biệt khó khăn. Tuy
nhiên, cho đến nay 8 huyện và 277 xã đã phổ cập trung học cơ sở, đạt 83,76%.
Hệ thống trạm y tế có ở tất cả các xã trong tỉnh, trong đó có đến trên 56% tram
có bác sỹ.
+ Điều kiện về kinh tế: Nền kinh tế của tỉnh Phú Thọ phát triển khá đa dạng
và toàn diện; ngoài hoạt động sản xuất nông,lâm nghiệp như các tỉnh trung du
miền núi khác, trên địa bàn tỉnh còn có nhiều khu công nghiệp đã và đang hình
thành trong những năm qua, kể từ khi tái lập tỉnh đến nay, do phát triển đúng
hướng, phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ
chế thị trường nên các chỉ tiêu kinh tế xã hội ở tỉnh Phú Thọ đều tăng. Nghị
quyết của Tỉnh uỷ Phú Thọ (Số 15- NQ/TU ngày 06/01/2003) đánh giá thành
tựu kinh tế năm 2002 và xác định chỉ tiêu nhiệm vụ chủ yếu năm 2003 của tỉnh
như sau:
- Thành tựu năm 2002: Tổng giá trị GDP tăng 9,5% so với năm 2001, trong
năm 2002 tỉnh đã huy động được nguồn vốn đầu tư đa thành phần lên đến
1.648 tỷ đồng, tăng 15,8% so với năm 2001. Cơ cấu vốn bao gồm:
Tỷ lệ (%) Tăng so với năm
2001(%)
Vốn nhà nước: 53,3 18,2
Vốn trong dân: 27,6 8,5
Vốn đầu tư nước ngoài: 19,1 36,4
Cơ cấu nguồn vốn 2002
Giá trị sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 8,3%, năng suất luá bình quân
đạt 47,33 tạ/ha/vụ, sản lượng đạt bình quân 345.576,5 tấn. Bình quân lương
thực gần 310kg/người/năm, cơ bản đã đảm bảo được an ninh lương thực.
- Chỉ tiêu chủ yếu năm 2003: chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP năm 2003 là
từ 9,5% đến 10% trong đó giá trị sản xuất công nghiệp tăng 14,5% đến 15,5%
giá trị sản xuất nông nghiệp và thuỷ sản tăng trên 5% và giá trị các ngành dịch
vụ tăng 11% đến 12%, kim ngạch xuất khẩu đạt 85 triệu USD, tăng 7,4% trong
sản xuất lương thực ổn định ở mức trên 40 vạn tấn.
Cơ cấu kinh tế công nghiệp và xây dựng 38,6%, dịch vụ 33,5% và nông lâm,
thuỷ sản 27,9% tỷ lệ tăng dân số tự nhiên dưới 1.01%. Đối với công tác xoá đói
giảm nghèo phấn đấu không còn hộ đói và giảm hộ nghèo còn dưới 10%. Phấn
đấu 100% số xã có điện lưới, trong đó trên 80% số hộ được sử dụng điện. Năm
2003 toàn tỉnh sẽ xuất khẩu từ 2,5 ngàn đến 3 ngàn lao động.
2.2. Về cơ sở hạ tầng.
Nhìn chung cơ sở hạ tầng của tỉnh Phú Thọ đang được chú ý, kết cấu hạ
tầng kinh tế xã hội có tiến bộ. 100% xã có đường ôtô vào trung tâm xã, đây là
một điều kiện hết sức thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp hàng hoá, vật
tư, thiết bị được chuyên trở dễ dàng. Làm mới và nâng cấp 64km đường quốc
lộ, 72km đường tỉnh lộ, 683km đường nông thôn, kiên cố hóa 184,8 km kênh
mương mới (đến nay đã có trên 500 km kênh mương cấp 1 và cấp 2 được cứng
hoá). đã có 87,6% xã có điện lưới; 100% trụ sở UBND xã đã có máy điện thoại,
bình quân 3,49 máy/ 100 hộ dân ( nghị quyết số 15 – NQ/TU ngày 06/01/2003
của Tỉnh uỷ Phú Thọ). Về thuỷ lợi, cả tỉnh có 165 hồ nước, 98 trạm bơm nước,
hàng trăm km kênh mương xây, giải quyết nước sinh hoạt cho nhiều xã.
Như vậy cơ sở hạ tầng phát triển tốt là một điều kiện thuận lợi cho phát
triển kinh tế nói chung, ngành nông nghiệp nói riêng đặc biệt là phục vụ phát
triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, phát triển thuận lợi như phát triển thị
trường đầu vào, đầu ra …
II. Thực trạng phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi ở tỉnh Phú Thọ.
1. Số lượng các loại hình trang trại chăn nuôi ở tỉnh Phú Thọ.
a. Nhận xét thông qua hai cuộc tổng điều tra trang trại năm2002 và
năm 2003 của tỉnh Phú Thọ.
Phú Thọ là một tỉnh trung du miền núi với diện tích đất tự nhiên là
3.519km
2
. Trong đó đất nông nghiệp chiếm 967km
2
, đất lâm nghiệp chiếm
1.392km
2
; đất ở 76km
2
; đất chưa sử dụng 872km
2
, đất chuyên dùng 211km
2
.
Do địa hình tỉnh phong phú và đa dạng có đồng bằng, có đồi núi, có sông ngòi,
có cơ sở hạ tầng từng bước xây dựng và phát triển, nhân dân trong tỉnh cần cù
sáng tạo để làm giàu cho bản thân và xã hội. Hơn nữa từ khi có Nghị quyết 10
của bộ chính trị ra đời, quyền chủ động sản xuất được giao về cho các hộ gia
đình, năng lực sản xuất thực sự được giải phóng. Do vậy bộ mặt của nông
thôn, nông nghiệp đã thay đổi; sản phẩm phát triển theo xu hướng phát triển
sản xuất hàng hoá, đời sống người dân được nâng cao. Riêng các hộ sản xuất
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản đã có một số vượt trội, quy mô sản xuất khá hơn và
đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế của tỉnh. Trong điều kiện tự chủ kinh
tế, nhiều hộ nông dân đã hình thành trang trại và phát triển ở hầu hết các
huyện, thị.
Theo kết quả điều tra vào thời điểm 01/07/2002 của tỉnh Phú Thọ, theo
tiêu trí quy định tại thông tư số 69 ngày 23/06/2000 của liên Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn – Tổng cục Thống kê. Cả tỉnh tính đến thời điểm
01/07/2002 có 192 trang trại đạt tiêu trí trên trong đó:( phân theo loại hình
sản xuất).
- Trang trại trồng cây hàng năm ( diện tích từ 2 ha trở lên, cao nhât là 17 ha)
có 5 trang trại chiếm 2,6%.
- Trang trại trồng cây lâu năm ( diện tích từ 3 ha trở lên, cao nhất là 17 ha)
có 28 trang trại, chiếm 14,58%.
- Trang trại trồng cây nông nghiệp (diện tích từ 10 ha trở lên, cao nhất là
82,5 ha) có 78 trang trại, chiếm 40,63%.
- Trang trại thuỷ sản (diện tích từ 2 ha trở lên, cao nhất là 121,3 ha ) có 60
trang trại, chiếm 31,25%.
- Trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp, có 21 trang trại, có từ 2 đến 3
sản phẩm trở lên, như cây lâm nghiệp, cây ăn quả, chăn nuôi trâu, bò, lợn, thả
cá …, chiếm 10,94%.
- Trang trại chăn nuôi: chưa có trang trại nào.
Như vậy cho đến năm 2002 cả tỉnh Phú Thọ có 192 trang trại. Tuy nhiên
trong 192 trang trại, chưa có một trang trại chăn nuôi nào, kết quả cho thấy
việc phát triển sản xuất nông, lâm nghiêp, thuỷ sản của tỉnh Phú Thọ còn hạn
chế chưa toàn diện, sự phát triển các trang trại nói trên còn mang tính tự phát,
chưa có sự định hướng của tỉnh và của Nhà nước, sự phát triển này không cân
đối cho nên hiệu quả sản xuất kinh doanh còn chưa cao.
Đến cuộc điều tra trang trại của tỉnh Phú Thọ năm 2003, theo kết quả điều
tra ngày 01/07/2003 cả tỉnh có 450 trang trại, tăng 258 trang trại so với năm
2002, đạt 134,3%. Nguyên nhân tăng chủ yếu là do có thông tư sửa đổi – bổ
sung ngày 04/07/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có thông
tư số 74 sửa đổi bổ sung tiêu trí định lượng quy định tại thông tư số 69 ngày
23/06/2000 để xác định là kinh tế trang trại: một hộ sản xuất nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản là trang trại phải đạt một trong hai tiêu trí về giá trị sản
lượng hàng hoá và dịch vụ bình quân một năm hoặc về quy mô sản xuất của
trang trại. Kết quả điều tra cho thấy ở một số huyện có số trang trại cao như
huyện Cẩm Khê có 68 trang trại, huyện Thanh Ba có 63 trang trại, huyện Yên
Lập có 60 trang trại, huyện Thanh Sơn có 40 trang trại, huyện Thanh Thuỷ có
44 trang trại, huyện có số trang trại thấp nhất là thị xã Phú Thọ 13 trang trại.
Trang trại của tỉnh được tập trung vào 6 loại hình trang trại, trong đó:
Trang trại thuỷ sản có 149 trang trại, chiếm 33,1%.
Trang trại lâm nghiệp có 141 trang trại, chiếm 31,3 %.
Trang trại trồng cây lâu năm có 69 trang trại, chiếm 15,3%.
Trang trại chăn nuôi có 48 trang trại, chiếm 10,66%.
Trang trại kinh doanh tổng hợp có 26 trang trại, chiếm 5,77%.
Trang trại trồng cây hàng năm có 19 trang trại, chiếm 4,2%.
Như vậy đến năm 2003 thì xuất hiện thêm một loại hình sản xuất kinh
doanh trang trại, đó là trang trại về chăn nuôi. Năm 2002 chưa có một trang
trại nào đến năm 2003 có 48 trang trại. Cho đến nay toàn tỉnh có 7 loại hình
trang trại sản xuất kinh doanh trong nông, lâm nghiệp, thuỷ sản cơ bản đã đi
vào cân đối trong sản xuất nông nghiệp nông thôn ở tỉnh Phú Thọ .
b. Đánh giá về sự phát triển kinh tế trang trại chăn nuôi ở tỉnh Phú
Thọ.
Cho đến nay cả tỉnh có 48 trang trại chăn nuôi .Nói chung tuy chưa có sự
tách biệt giữa chăn nuôi đại gia súc ,gia súc và gia cầm nhưng có thể nói về số
lượng này đã đánh dấu một bước ngoặt về sự phát triển sản xuất trong ngành
chăn nuôi nói chung và chăn nuôi trang trại nói riêng.
Trong 48 trang trại chăn nuôi thì chủ yế là chăn nuôi lợn sinh sản, lợn thịt
và lợn choai. Chăn nuôi đại gia súc như trâu bò thì vẫn ở mức hộ chăn nuôi
nhỏ hoặc kết hợp giữa chăn nuôi lợn và chăn nuôi trâu bò .v.v. chưa đi sâu vào
chăn nuôi từng loại con .
Bên cạnh kết quả đã đạt được, kinh tế trang trại chăn nuôi trên địa bàn
tỉnh Phú Thọ còn tồn tại : sự hình thành và phát triển kinh tế trang trại còn
mang tính tự phát, phân tán, manh mún, chưa có sự hướng dẫn và giúp đỡ của
Nhà nước, nhiều trang trại còn thiếu vốn, đất đai để sản xuất và nhiều trang
trại vẫn còn bế tắc trong việc tiêu thụ sản phẩm ra thị trường, chi phí cao, giá
thấp dẫn đến lãi thấp thậm chí bị lỗ, người lao động về trình độ chuyên môn
còn hạn chế việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật còn lúng túng...quản lý
kinh tế còn kém hiệu quả. Cần phải có sự quan tâm đúng hướng của chính
quyền địa phương các cấp, có những chính sách cụ thể để khuyến khích phát
triển kinh tế trang trại ngày càng mạnh hơn .
2.Tình hình về chủ trang trại chăn nuôi ở Phú Thọ.
Kết quả của hai cuộc điều tra của tỉnh Phú Thọ về trang trại trên địa bàn
năm 2002 và năm 2003 thì phần lớn chủ trang trại vừa làm chức năng quản lý
vừa trực tiếp tham gia lao động sản xuất, rất ít chủ trang trại làm công tác
quản lý thuần tuý, hầu như không có. Đội ngũ của chủ trang trại rất đa dạng về
tuổi tác về nghề nghiệp, kiến thức về trình độ quản lý, một số bộ phận còn sử
dụng lao động làm thuê hoàn toàn và kết hợp kinh doanh các ngành nghề
khác, các chủ trang trại vừa chăn nuôi vừa tham gia vào các hoạt dộng kinh tế
khác như kinh doanh dịch vụ, buôn bán các loại hàng hoá...Ngoài phạm vi
ngành chăn nuôi .
- Về trình độ trang trại nói chung và chủ trang trại nói riêng. Theo điều tra
về trang trại năm 2003 thì có thể nói tình hình chung của các chủ trang trại
như sau:
+ Chưa qua đào tạo là 290 người chiếm 64,4%.
+ Trình độ sơ cấp, công nhân kỹ thuật là 115 người chiếm 25,5%.