Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.83 KB, 24 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐẾN NĂM 2010
I. BỐI CẢNH TRONG NƯỚC VÀ QUỐC TẾ
1. Bối cảnh trong nước
Trong thời gian tới, sự phát triển của kinh tế trang trại sẽ diễn ra trong
bối cảnh như sau:
*Công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp- nông thôn đang
diễn ra trên diện rộng.
Quá trình công nghiệp hoá này vẫn đang trong giai đoạn đầu và đến nay
vẫn chưa có bước đột phá lớn, nông nghiệp Việt Nam vẫn là một nền nông
nghiệp lạc hậu. Tuy nhiên, nó vẫn đang dần lan rộng trên khắp các vùng, các
miền và các ngành, tiểu ngành sản xuất nông nghiệp. Vùng Đồng bằng Sông
Hồng là vùng hoàn thành điện khí hoá nông thôn sớm nhất trong số 8 vùng
sinh thái. Trong tương lai, công nghiệp hoá nông thôn vùng Đồng bằng Sông
Hồng sẽ diễn ra theo chiều sâu, tức là đẩy mạnh hơn nữa việc đưa tiến bộ khoa
học vào sản xuất, đặc biệt là những tiến bộ của công nghệ sinh học, những loại
máy móc hiện đại, cải thiện cơ sở hạ tầng... sẽ là điều kiện hỗ trợ cho kinh tế
trang trại tăng trưởng mạnh.
*Chủ trương chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Nhà
nước, hướng tới một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá, tức là sản xuất cái
mà thị trường cần, cụ thể như “tiếp tục phát triển thế mạnh của vụ đông, phát
triển cây thực phẩm và chăn nuôi gắn với chế biến nhiều trình độ công nghệ;
hình thành các vùng chuyên canh rau, thịt, trái cây, hoa... phục vụ cho đô thị,
cho du lịch và xuất khẩu”. Là một thực thể kinh tế sẽ đóng vai trò chủ chốt
trong công cuộc chuyển đổi ấy, định hướng sản xuất của các trang trại sẽ là
định hướng sản xuất của nông nghiệp cả vùng.
*Phát triển kinh tế trang trại đang được nhà nước khuyến khích mạnh
mẽ, nhưng thực tế hiện nay Đồng bằng Sông Hồng không còn nhiều khả năng
mở rộng diện tích đất nông nghiệp nên kinh tế trang trại được khuyến khích
phát triển theo chiều sâu, chú trọng các loại cây con đặc sản để sản xuất sang
các vùng khác.


2. Bối cảnh quốc tế
*Xu hướng hội nhập mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu đặt ra nhiều khó
khăn nhưng cũng đem lại không its cơ hội cho sản phẩm nông nghiệp. Với các
mục tiêu hội nhập AFTA năm 2006, rồi tiến tới gia nhập WTO, và các tổ chức
kinh tế quốc tế khác, kinh tế Việt Nam buộc phải thay đổi lối sản xuất, cải tiến
phương thức quản lý, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm. Trong bối cảnh
này, nhất là khi tiến trình cắt giảm thuế quan của AFTA của các nước trong
khối ASEAN đã cơ bản hoàn thành và tiến trình của Việt Nam cũng đang ở giai
đoạn gấp rút, thì nông sản Việt Nam vốn đã có nhiều hạn chế về chất lượng, về
kĩ thuật chế biến, về hình thức sản phẩm... phải đối mặt với sự cạnh tranh gay
gắt của đối thủ nước ngoài mà trước hết là từ phía các nước ASEAN.Thế
nhưng cơ hội cũng nhiều. Chưa bao giờ chúng ta có được một thị trường tiềm
năng lớn đến thế. Một thị trường ASEAN với hơn 500 triệu dân và các thị
trường truyền thống (Mĩ, Tây Âu), thị trường Châu Phi rộng lớn đang mở ra
những cơ hội mới để Việt Nam và vùng Đồng bằng Sông Hồng phát triển
những nông phẩm hàng hoá là thế mạnh của mình.
*Sựtiến bộ của khoa học kĩ thuật vẫn đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn
cầu và ngày càng khẳng định vị trí của nó trong nền kinh tế mỗi quốc gia. Nông
nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng cũng không nằm ngoài vùng xoáy ấy. Ngày
càng có nhiều giống nông sản mới được tạo ra với năng suất cao, chất lượng
tốt, tính thích nghi cao, đáp ứng mọi nhu cầu của thị trường. Đồng thời các
loại máymóc, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích, kĩ thuật cấy ghép... cũng không
ngừng được cải tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất lên nhiều lần. Những tiến bộ
ấy, một mặt, hỗ trợ mạnh mẽ cho kinh tế trang trại phát triển quy mô của mình
theo đúng hướng sản xuất hàng hoá, mặt khác tạo ra nguy cơ lạc hậu về khoa
học kĩ thuật của Việt Nam so với thế giới, bởi xuất phát điểm của chúng ta quá
thấp. Dù sao, những thời cơ, cơ hội mà chúng đem lại cho một nước có lợi thế
đi sau như Việt Nam cũng thật là quý báu.
*Quan hệ chính trị thương mại với một số thị trường có chiều hướng
bất lợi, đặc biệt là thị trường Mĩ trong khoảng vài ba năm trở lại đây. Điều này

làm giảm khả năng xuất khẩu nông sản sang các thị trường này. Cũng có nghĩa
là phải xem xét khả năng tiêu thụ sản phẩm, tìm kiếm thị trường mới, hoặc
thay đổi cơ cấu sản xuất của mình, tìm hướng kinh doanh khác.
Nhìn chung, những thách thức thời cuộc đối với kinh tế nông nghiệp dù
gay gắt nhưng đồng thời nó cũng ngầm tạo ra những thời cơ và dộnglực cho
sự phát triển của ngành. Còn riêng đối với kinh tế trang trại, có thể nói, chưa
bao giờ hoàn cảnh, điều kiện trong nước và quốc tế lại thuận lợi như ngày nay,
nhất là khi kinh tế trang trại đã trở thành một chủ trương lớn, được nhà nước
khuyến khích mạnh.
II. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ TRANG TRẠI
1. Quan điểm phát triển
*Định hướng cơ cấu sản xuất của các trang trại: cơ cấu sản xuất của các
trang trại không chỉ phụ thuộc thị trường mà còn phụ thuộc vào điều kiện tự
nhiên – kinh tế xã hội của vùng và đảm bảo an toàn lương thực quốc gia.
Trong thời gian tới, nông nghiệp nói chung và kinh tế trang trại vùng nói riêng
sẽ sản xuất theo hướng “tiếp tục phát triển thế mạnh của vụ đông, phát triển
cây thực phẩm và chăn nuôi gắn với công nghiệp chế biến nhiều trình độ công
nghệ; hình thành các vùng chuyên canh sản xuất rau, thịt, trái cây, hoa… phục
vụ cho đô thị, du lịch và xuất khẩu”
(4)
.Đây cũng là những đối tượng sản xuất
đáp ứng yêu cầu thâm dụng lao động, thâm dụng tiến bộ khoa học kĩ thuật đối
với kinh tế trang trại ở vùng đồng bằng ít đất này. Bên cạnh đó hết sức lưu ý
những sản phẩm hứa hẹn đem lại lợi nhuận cao như nuôi vật cảnh, trang trại
gây giống… đặc biệt thích hợp ở các vùng ven đô.
*Phát triển kinh tế trang trại nhằm khai thác , sử dụng có hiệu quả đất
đai, vốn, kĩ thuật, kinh nghiệm quản lý góp phần phát triển nông nghiệp bền
vững; tạo việc làm, tăng thu nhập; khuyến khích làm giàu đi đôi với xoá đói
giảm nghèo; phân bố lại lao động, dân cư, xây dựng nông thôn mới.. Tiếp tục
phát triển trên diện rộng không chỉ ở những vùng có nhiều đất, nhất là đất

trống, đồi núi trọc, đất còn hoang hoá mà còn ở ngay trên những vùng đất ít
(là phần lớn) bằng thâm dụng lao động, tăng cường đầu tư vốn và thâm dụng
kĩ thuật, gắn với chế biến và thương mại, dịch vụ, làm ra nông sản có giá trị
kinh tế lớn.
*Coi trọng hiệu quả kinh tế của các trang trại, khuyến khích làm giàu
hợp pháp. Bên cạnh đó cũng cần nhìn nhận một thực tế là, đại bộ phận nông
dân rất kém linh hoạt thiếu nhạy bén trong cơ chế thị trường, vì thế thu nhập
và đời sống nông thôn chậm được cải thiện. Do vậy trước mắt những người có
vốn, có kinh nghiệm và có năng lực, bất kể thuộc thành phần xã hội nào, thành
phần kinh tế nào, nếu có mong muốn làm giàu từ sản xuất nông nghiệp, đều
được khuyến khích làm kinh tế trang trại, chấp nhận có một bộ phận nông dân
giàu hơn hẳn để làm đầu tàu, tạo ra động lực kích thích sản xuất, kích thích
động cơ làm giàu của bộ phận nông dân còn lại.
*Tôn trọng nguyên tắc phát triển nông nghiệp bền vững: quá trình canh
tác, chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản của trang trại không vì lợi nhuận trước
mắt mà khai thác một cách bừa bãi các tài nguyên, sử dụng tài nguyên đất, tài
(4)
(4)
Văn kiện Đại hội to n quà ốc lần thứ IX, Đảng Cộng sản Việt Nam.
nguyên nước...không chú trọng cải tạo hay chú ý đến lợi ích lâu dài, để chục
năm sau, đất đai bạc màu, o nhiễm hoá học khiến cho đất không thể tái sản
xuất được nữa. Không những thế, trang trại cũng phải được chú ý để tạo nên
một vùng sinh thái hợp lý góp phần cân bằng môi trường sống của dân cư. Yếu
tố an toàn lương thực phải được coi trọng.
2. Dự báo một số chỉ tiêu về kinh tế trang trại đến năm 2010
2.1. Những giả định
Việc dự báo một số chỉ tiêu phát triển của kinh tế trang trại vùng Đồng
bằng Sông Hồng đến năm 2010 được xây dựng dựa trên những giả định sau
đây:
*Quy hoạch sử dụng đất nông lâm thuỷ sản năm 2010: 1.018.015 ha.

*Những chỉ tiêu phát triển nông nghiệp vùng Đồng bằng Sông Hồng đến
năm 2010 là:
- Tốc độ tăng trưởng của ngành nông – lâm – thuỷ sản giai đoạn 2001
– 2010 đạt bình quân 5 – 6%/năm.
- Giá trị sản xuất nông – lâm – thuỷ sản năm 2010 (theo giá thực tế
2001) đạt khoảng 51.000 đến 52.000 tỉ đồng.
*Những chỉ tiêu về dân số – lao động:
- Tổng dân số năm 2010: 20,1 triệu người.
- Trong tuổi lao động: 12,44 triệu trong đó lao động nông thôn: 7,6
triệu
- Tốc độ phát triển bình quân của số hộ nông nghiệp, khẩu nông
nghiệp, lao động nông nghiệp vẫn như giai đoạn 1990 – 2001.
2.2. Dự báo các chỉ tiêu:
*Số lượng trang trại: trong những năm tới do nhu cầu làm kinh tế của
các hộ gia đình tăng cao cùng với những chính sách khuyến khích của Nhà
nước, kinh tế trang trại sẽ tiếp tục phát triển, không chỉ là gia tăng về số lượng
mà còn gia tăng về giá trị sản lượng. Tuy nhiên, do hạn chế về đất đai nên số
lượng trang trại sẽ tăng chậm lại, dự báo tốc độ tăng bình quân 8%/năm. Như
vậy đến năm 2010 vùng Đồng bằng Sông Hồng sẽ có khoảng 3.145 trang trại.
*Diện tích đất đai bình quân một trang trại sẽ có xu hướng giảm do chủ
trương phát triển kinh tế trang trại theo hướng thâm dụng lao động, thâm
dụng kĩ thuật nên không cần đến quy mô đất đai lớn. Bình quân đến năm 2010,
quy mô mỗi trang trại giảm còn khoảng 7 – 7,5 ha. Như vậy tổng diện tích sử
dụng của các trang trại sẽ vào khoảng 20.015 – 23.587 ha.
*Các chỉ tiêu hiệu quả: đến năm 2010, nâng mức vốn đầu tư trung bình
cho một trang trại lên 200 triệu đồng (tính theo giá 2001), tổng mức vốn đầu
tư cho trang trại là 629.000 tỉ đồng gần gấp đôi hiện nay. Phấn đấu đến năm
2010, thu nhập của một lao động trang trại tăng lên 54% tức là vào khoảng
8,624 triệu đồng, thu nhập trung bình một trang trại vào khoảng 60 triệu đồng
(tỉ suất lợi nhuận khoảng 30%).

*Lao động trang trại: vẫn nên duy trì mức lao động như hiện nay (8 lao
động/trang trại) để giải quyết phần nào lao động dư thừa.
III. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ
1. Các giải pháp về phía nhà nước
Nhà nước đóng một vai trò cực kì quan trọng trong việc tạo ra một môi
trường thuận lợi cho trang trại cả trong khâu hỗ trợ đầu vào và tiêu thụ sản
phẩm đầu ra. Những sự hỗ trợ ấy sẽ tác động thông qua các giải pháp về các
vấn đề sau đây:
1.1. Các giải pháp về đất đai
*Nhà nước cần nhanh chóng giao quyền sử dụng đất lâu dài.
- Đối với những diện tích đất trang trại đã được giao và sử dụng hợp
pháp: có thể cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng để tạo điều kiện tích tụ
đất đai nhằm phát triển các trang trại lớn. Khuyến khích bằng cách giảm thuế,
gia hạn hợp đồng thuê đất, sử dụng đất v.v... cho những chủ trang trại biết đầu
tư khoa học kĩ thuật và tái đầu tư mở rộng vào khai thác hiệu quả cao nhất
diện tích đang được giao quản lý sử dụng.
- Đối với những diện tích đất chưa được giao:
+Đẩy mạnh việc giao đất, cho thuê đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho những trang trại sử dụng hợp pháp để các chủ trang trại yên
tâm đầu tư phát triển sản xuất. Các địa phương rà soát lại các trang trại hiện
có, xúc tiến nhanh việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo chính sách
đất đai như trong Nghị quyết của Chính phủ và hướng dẫn của Tổng cục địa
chính. Những hộ gia đình cá nhân đã sử dụng đất phát triển trang trại mà
chưa được giao, chưa được thuê hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
chưa được cấp giấy chứng nhận trước khi ban hành Nghị quyết 03/2000/NQ-
CP, sử dụng đúng mục đích và không có tranh chấp thì được xét giao, cho thuê,
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho trang trại.
- Đối với những phần đất đai vượt mức hạn điền:
Mức hạn điền quy định cần phải phù hợp với đặc trưng của cơ cấu sản
xuất của từng loại trang trại và phù hợp với hiện trạng đất đai chật hẹp của

vùng, đảm bảo người sản xuất có đất, đồng thời khuyến khích tích tụ đất theo
hướng quy mô lớn ở những nơi có điều kiện. Cụ thể:
+Người nào có khả năng sản xuất tới đâu thì giao đất tới đó.
+Đối với đất trồng cây dài ngày hay để chăn nuôi đại gia súc, ở những
nơi có nhiều ruộng đất cần nghiên cứu quy định cho thuê lâu dài phần diện
tích vượt mức hạn điền trên nguyên tắc khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả,
tức là khi tính thuế sử dụng đất đai, hay thu thuế thu nhập thì phải xem xét đến
chu kì kinh doanh, biến động về lãi suất, tỉ giá… trong thời gian chưa thu
hoạch, thời hạn thuê đất vượt mức hạn điền không thể ngắn hơn chu kì sống
của vật nuôi cây trồng.
+Đối với gia đình, cá nhân đã được nhà nước giao đất hoặc đã được
chuyển nhượng quyền sử dụng đất vượt mức hạn điền trước ngày 02/2/2000
thì tiếp tục sử dụng và chuyển sang cho thuê đất với thời gian sử dụng bằng
thời gian đất được giao để có thể tiến hành sản xuất đồng bộ và thuận lợi.
+Hộ nông dân không có đất sản xuất ở địa phương phải được ưu tiên
giao đất, nhất là các hộ ở diện nghèo có nguyện vọng làm kinh tế trang trại.
Cho phép các hộ gia đình phi nông nghiệp có nguyện vọng lập trang trại được
thuê đất; hộ gia đình, cá nhân ở địa phương khác nếu có nguyện vọng lập
nghiệp lâu dài, có vốn đầu tư được thuê đất để lập trang trại để tận dụng năng
lực sản xuất của địa phương.
*Tiếp tục khai hoang
Tiếp tục khai thác những vùng đất hoang hoá ở các vùng đồi núi trọc rải
rác trong vùng Đồng bằng Sông Hồng, các bãi bồi ven sông, mặt nước nuôi
trồng thuỷ sản còn chưa sử dụng. Hiện nay diện tích này còn khoảng 178.153
ha, nên có chế độ ưu đãi những hộ nào khai thác để làm kinh tế trang trại.
Những vùng có nhiều khó khăn trong khai thác và sản xuất như là địa hình
không bằng phẳng, đất bạc màu, nhiều khoáng sản, đất nhiễm lợ phải cải tạo…
thì có thể cho giao với mức thuế thấp, hoặc miễn hẳn. Cho thuê hoặc khoán
theo luật định.
*Có chính sách đồn điền đổi thửa để lập các trang trại lớn

Do tập quán sản xuất lâu đời để lại nên đất đai vùng Đồng bằng Sông
Hồng ở vào tình trạng manh mún, phân tán. Muốn phát triển kinh tế trang trại
phải “dồn” những diện tích nhỏ để có những vùng đất rộng hơn. Quá trình này
có thể được sự chủ động tiến hành của Nhà nước nhưng vì đất đai cũng là một
loại hàng hoá đặc biệt, nên thị trường đất đai cần sự hướng dẫn, kiểm soát
thường xuyên, chặt chẽ hơn của Nhà nước bằng hệ thống luật pháp hoàn
chỉnh, chặt chẽ, để sự tích tụ đất đai cho việc hình thành kinh tế trang trại một
cách nhanh chóng, thuận lợi, đúng quy luật, có hiệu quả nhất, tuân theo quy
hoạch của nhà nước và tránh những hậu quả khác ở nông thôn. Cho phép các
trang trại có thể nhận, chuyển nhượng quyền sử dụng hoặc cho thuê đất đai,
để tích tụ đất ở những nơi có điều kiện.
Một vấn đề đặt ra khi thi hành chính sách dồn điền đổi thửa là phải có
sự quản lý chặt chẽ để đảm bảo không có tình trạng người nông dân mất đất,
bần cùng hoá.
- Có chính sách ưu đãi về thuế sử dụng đất, thuế phụ thu để khuyến khích
các chủ trang trại mạnh dạn mở rộng quy mô của mình.
*Cần sớm có quy hoạch phát triển tổng thể kinh tế- xã hội, quy hoạch đất
đai ở cấp huyện.
Huyện là cấp hành chính trực tiếp giải quyết các vấn đề có liên quan đến
phát triển kinh tế trang trại. Trên cơ sở các định hướng phát triển đã được xác
định, đất đai của huyện được chia thành các tiểu vùng kinh tế- sinh thái - xã
hội. Từ đó bố trí sản xuất trên toàn bộ địa bàn của huyện và tính toán tốc độ
phát triển của từng ngành. Các tiểu vùng dự định phát triển kinh tế trang trại
cần được quy định rõ trong quy hoạch của huyện theo từng bước phát triển, từ
đó đi sâu vào quy hoạch cụ thể và thiết kế các tiểu vùng kinh tế trang trại trên
địa bàn huyện.
*Nhanh chóng xây dựng kết cấu hạ tầng cho các tiểu vùng kinh tế trang
trại

×