Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Xây dựng hệ thống marketing mix và chiến lược marketing chung cho công ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.05 KB, 26 trang )

Xây dựng hệ thống marketing mix và chiến lược marketing chung cho công
ty
I. Thực trạng hoạt động marketing của công ty
1. Thực trạng
Khái niệm marketing đã được hình thành từ rất lâu trên thế giới, nhưng
mới chỉ được biết đến ử Việt Nam từ những năm 90 của thế kỷ 20.
Hiện nay, marketing trong doanh nghiệp được coi là nhân tố cơ bản cho sự
thành công của doanh nghiệp trên thương trường. Sức ép cạnh tranh cũng ngày
càng ra tăng trong nền kinh tế, được sôi động và khốc liệt hơn khi Việt Nam đã
chính thức là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), nó đã khiến
cho các doanh nghiệp ngày càng chú trọng và phát triển thương hiệu của mình.
Như vậy, sự nhận về vai trị của marketing là rất rõ rang và phần lớn các
doanh nghiệp hiện nay đều không phủ nhân. Nhưng trên thực tế lại không như
vậy. Đại bộ phận doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì bộ phận marketing
thường rất nhỏ lẻ và có nguy cơ bị “xóa sổ” khi cơng ty gặp vấn đề về liên quan
tới tài chính. Chính vì vậy đa số những công ty này hoạt động marketing của họ
đều rất chủ quan, dựa theo cảm tính cá nhân mà không hề thong qua bất kỳ một
cuộc nghiên cứu marketing nào. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân và sơ hữu
nhà nước haọt động dựa trên quan điểm marketing thiển cận-tập chung sản xuất,
họ không cần chú ý đến cái khách hàng muốn và chỉ tập trung tăng giá trị cho
bản thân doanh nghiệp thay vì phải tập trung cho khách hàng.
Tuy nhiên, nhìn một cách khách quan có thể thấy rằng để có một hệ thống
marketing hoạt động hiệu quả địi hỏi chí phí khá cao và thơng thường chỉ có
những cơng ty có tiềm lực tài chính lớn mới thực hiện được. Nhưng khơng phải
vì lý do đó mà những cơng ty vừa và nhỏ khơng trú trọng đến vai trò của hệ
thống marketing, họ chỉ cần áp dụng những ý tưởng marketing vào hoạt động
kinh doanh của mình, định hướng theo giá trị khách hàng để hiểu khách hàng
cần gì? muốn gì? Và như thế nào để thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của họ.


Cơng ty TNHH Thiện Mỹ là một ví dụ điển hình. Mặc dù hệ thống


marketing của cơng ty cịn rất thô sơ, nhỏ lẻ và hoạt động chỉ tập trung vào nỗ
lực của một số cá nhân trong công ty. Nhưng với triết lý kinh doanh định hướng
vào khách hàng công ty đã thỏa mãn tốt hơn nhu cầu của khách hàng.Các hoạt
động marketing dù với quy mô nhỏ và chưa thật sự triệt để nhưng cũng phần
nào phản ánh nỗ lực của công tykhi muốn ổn định và mở rộng thị trường mục
tiêu của mình
Một số hoạt động marketinh hiện tại của cơng ty.
Hoạt động nghiên cứu marketing: Vì là công ty vừa và nhỏ nên công ty
TNHH Thiện Mỹ khơng thực hiện theo đúng quy trình marketing gồm 5bước là
(Mục tiêu nghiên cứu; kế hoạch nghiên cứu; thu thập thong tin; phân tích thong
tin; báo cáo kết quả nghiên cứu.). Công ty tổ chức nghiên cứu thông qua việc
thu thập thong tin trực tiếp từ những khách hàng lớn, khách hàng chung thành
của mình. Đây là nguồn thơng tin được công ty chú trọng và sử dụng nhằm đáp
ứng cho viêc hoạch định sản phẩm mới cũng như hồn thiện sản phẩm của mình
hơn. Ngồi ra, một số kênh thơng tin sơ cấp từ báo chí quảng cáo chuyên
nghành, internet….
Hoạt động marketing mix
+ sản phẩm: hiện tại công ty cung cấp ra thị trường một số lọai sản phẩm
chủ yếu
Thiết kế chương trình quảng cáo thương mại
Thiết kế, gia công biển quảng cáo công nghiệp
PR
Tuy nhiên sản phẩm chủ yếu cũng như chính sách sản phẩm chủ yếu của
công ty tập trung vào thiết kế , gia công biển quảng cáo công nghiệp. Đối với
công ty sản phẩm có ý nghĩa quan trọng và hơn nữa nó cịn phản ánh khả năng
của công ty. Vấn đề về phát triển sản phẩm mới với hàm lượng kỹ thuật tiên tiến
được công ty thường xuyên áp dụng nhằm đem lại sự thỏa mãn cao hơn đối với
khách hàng mục tiêu.



+ Giá: Cơng ty định giá sản phẩm của mình thường rẻ hơn so với thị
trường nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cao hơn so với đối thủ cung cấp. Với chính
sách này hoạt động sản xuất của cơng ty luôn hoạt động với mức độ thường
xuyên, và rất ổn định. Trong những năm tới công ty vẫn định hướng chính sách
giá của mình như vậy nhằm đảm bảo cũng như mở rộng thị trưường mục tiêu
của mình.
+ Phân phối: Hiện tại cơng ty sử dụng hình thức phân phối cấp một ( từ
nhà sản xuất- người tiêu dùng) mà không sử dụng qua trung gian, đặc điểm
này phù hợp với tính chất cơng việc và nghành nghề kinh doanh hiện tại.
+ Xúc tiến hỗn hợp: Đây là hoạt động mà cơng ty vẫn đang bỏ ngỏ và ít
chú ý tới. Khách hàng biết đến công ty chủ yếu quáự giới thiệulẫn nhau mà
không thông qua một kênh hông tin nào từ phía cơng ty. Hoạt động marketing
trực tiếp của công ty đến khách hàng chưa được thực hiện, nếu có cũng chỉ là
nỗ lực của 1 vài cá nhân trong ban giám đốc. Vì vậy trong những năm vừa qua
cơng ty rất bị động trong việc tìm kiếm khách hàng mới, những đơn đặt hàng
thường tập trung ở những khách hàng lớn, hoặc nhận thầu lại của công ty khác.
Tuy nhiên trong tương lai cơng ty có kế hoạch cụ thể trong việc tiếp thị trực tiếp
đến khách hàng của mình.
Tóm lại, Thực trạng marketing của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay đó là
sự thiếu chuyên nghiệp, “nửa làm nửa chơi”.Riêng đối với công ty hiện Mỹ mặc
dù đã có ý thức về vai trị của hệ thống marketing nhưng nhìn chung thì hoạt
động marketing của cơng ty cịn rất thơ sơ và thường là giải pháp tình thếlàm
theo xu hướng, chưa thật sự tạo ra được sự khác biệt rõ rệt trong việc cung ứng
sản phẩm và dịch vụ so với đối thủ cạnh tranh. Trong thời gian tới tình hình này
sẽ đựoc cải thiện khi cơng ty chính thức thành lập phịng marketing và chun
mơn hóa rõ rang cho từng bộ phận.
1. Nguyên nhân: Đẻ giải thích cho thực trạng hoạt động marketing của công ty

Thiện Mỹ có thể xem xét những vấn đề cơ bản sau.



Do nguồn lực cịn hạn chế, nên việc hình thành và chun mơn hóa giữa các bộ

-

phận trong cơng ty gặp khó khăn
Chí phí duy trì và hoạt động của bộ phận marketing rất cao, và chiếm phần rất ít

-

ttrong quỹ đầu tư của công ty
Sự chậm thay đổi trong khuynh hướng tiêu dùng của khách hàng cũng là một

-

nguyên nhân khiến cơng ty vẫn chậm chạp trong việc hình thành hệ thống
marketing cho công ty.
II. Xây dựng hệ thống marketing mix
1.

Nghiên cứu hệ thống marketing của đối thủ cạnh tranh
Như trên đã trình nêu, hiện nay sự cạnh tranh trong nghành quang cáo tại
Việt Nam chủ yếu tập trung vào các công ty quảng cáo trong nứớc. Đa số những
công ty này thường gia công theo đơn hàng từ các cơng ty lớn hơn hoặc các
cơng ty nước ngồi, nhằm hồn thiện một chương trình quảng cáo. Chính vì
vậy, hầu hết các công ty VN thường tập trung vào khâu sản xuất, và ít quan tâm
đến phát triển thương hiệu của mình cũng như xây dựng hệ thống marketing cho
cơng ty. Hiện tại ở thị trường Việt Nam có nhiều cơng ty quảng cáo với hệ
thống marketing khá hồn chỉnh, trong đó GOLDSUN là cơng ty có hệ thơng
marketing khá tốt và mang lại hiệu quả nền kinh tế cao.

GoldSun - thành lập năm 1994 là một công ty quảng cáo hoạt động trong
lĩnh vực truyền thông và marketing, định hướng phát triển đa dạng hóa về các
loại hình dịch vụ.
Công ty quảng cáo GoldSun là thành viên của Hiệp hội Quảng cáo Quốc tế
IAA, điều đó giúp cơng ty cập nhật và lĩnh hội kịp thời những thông tin về
ngành quảng cáo trên thế giới.
Hệ thống marketing của goadsun hoạt động rất hiệu quả trong tất cả các
haọt động marketing
Sản phẩm: Goldsun tập trung cung ứng ra thị trường những sản phẩm và
dịch vụ rất đa dạng nhằm thỏa mãn mọi nhu cầu quảng cáo của các doanh
nghiệp, sản phẩm gồm có:


-

Quảng cáo ngoài trời

-

Thiết kế sang tạo

-

In ấn trên mọi chất liệu

-

Quan hệ cộng đồng

-


Xây dựng thương hiệu

-

Kế hoạch truyền thơng
Trong những sản phẩm này Goldsun có lợi thế nổi trội trong sự kết hợp hài
hòa và tổng hợp sức mạnh của các dịch vụ quảng cáo và quan hệ cơng chúng.
Theo cơng ty chính sách sản phẩm trong những năm tới là tiếp tục phát triển
thêm sản phẩm mới và tập trung đầu tư mạnh trong lĩnh vực quan hệ cộng đồng.
Hiện tại thì đây vẫn là thế mạnh của công ty nhưng trong những năm tới hoạt
động này sẽ được làm mới rất nhiều và phù hợp hơn đối với nền kinh tế Việt
Nam đang có những thay đổi lớn.
Qua đó ta có thể thấy được chính sách về sản phẩm của cơng ty rất rõ rang
đó là sự đa dạng hóa trong những danh mục sản phẩm dịch vụ cung cấp ra thị
trường nhằm mở rộng thị trường mục tiêu cũng như phát triển thương hiệu,
song song với đó là phát triển sản phẩm cốt lõi nhằm nâng cao hình ảnh thương
hiệu của mình và mang lại tính chuyên nghiệp cao hơn trong sản phẩm khi đến
với khách hàng.
Giá: Với chiến lược định vị đó là tạo hình ảnh thương hiệu có tính chun
nghiệp cao ln mang lại cho khách hàng sự thỏa mãn tối ưu khi tiêu dùng sản
phẩm của cơng ty, chính vì vậy Goldsun định giá sản phẩm khá cao tạo ra trong
tâm trí khách hàng sự chuyên nghiệp và chất lượng trong sản phẩm, dịch vụ mà
Goldsun cung cấp.
Phân phối: Goldsun với hệ thống phân phối trực tiếp với địa điểm trực
tiếp tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, ngồi ra cơng ty cịn sử dụng trang
web để khách hàng liên hệ và đặt hàng.
Xúc tiến hỗn hợp: Đây là hoạt động được cơng ty rất coi trọng trong quả
trình phát triển thương hiệu. Công ty đã xây dựng trang web riêng cho mình



nhằm tiếp cận nhanh chóng và khách quan hơn với khách hàng. Hoạt động
marketing trực tiếp đến với khách hàng của mình được cơng ty rất coi trọng và
coi đây là kênh thơng tin chính đưa sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng. Với
đội ngũ nhân viên marketing chuyên nghiệp goldsun ln đạt được kết quả cao
trong q trình tiếp thị hình ảnh thương hiệu của cơng ty.
Nghiên cứu thị trường: Công ty goldsun nghiên cứu thị trường theo định
kỳ 1năm 1 lần công ty sử dụng hệ thống phần mềm nghiên cứu thị trường TNS
(Taylor Nelson Sofres) để xử lý nguồn dữ liệu sơ cấp. Với họat động nghiên
cứu có tổ chức và chun nghiệp cơng ty có thể cso thơng tin rất nhanh và chính
xác trong khuynh hướn tiêu dùng của khách hàng nói chung. Tuy nhiên để thực
hiện hồn chỉnh một chương trình nghiên cứu địi hỏi chi phí rất cao.
Tóm lại, hệ thống marketing của goldsun hoạt động khá chuyên nghiệp và
hiệu quả, vai trò của từng bộ phận trong hệ thống marketing được chuyên mơn
hóa rõ rệt tạo ra năng suất cao hơn trong cơng việc. Đặc biệt với nguồn lực tài
chính và nhân lực khá tốt, công ty đang từng bước mở rộng thị trường mục tiêu
và phát triển thương hiệu trong những năm sắp tới.
2. Xây dựng ngân sách marketing
Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO). Đó là một bài tốn khó cho các doanh nghiệp Việt Nam. Gia nhập
WTO sẽ tạo nhiều thuận lợi, cơ hội, tận dụng được các nguồn đầu tư để cùng
phát triển, nhưng vơ vàn những thách thức khó khăn. Sức ép mở cửa thị trường
sẽ ảnh hưởng lên cả công ty quốc doanh lẫn tư nhân, nhưng các công ty Việt
Nam sẽ dễ thâm nhập vào thị trường khác bằng liên doanh, dễ nhận được công
nghệ chuyển giao và có thêm nguồn vốn. Đứng trước một luật chung, một sân
chơi chung, thì ai tận dụng được thời cơ, năng động, sáng tạo thì chắc hẳn sẽ
gây được tiếng vang và phải biết cách đưa hình ảnh thương hiệu của mình tới
nhiều đối tượng khách hàng hơn. Để làm đựoc điều đó các cơng ty nói chung
phải chú ý xây dựng hệ thống marketing một cách chuyên nghiệp, Công ty
TNHH Thiện Mỹ hiện tại cần có kế hoạch về phân bổ nguồn tài chính của cơng



ty nhằm xây dựng tốt hệ thống marketing. Nhưng không thể nói cụ thể một cách
chính xác nguồn chi phí cho marketing bao nhiêu là thích hợp vì nó phụ thuộc
vào nhiều yếu tố bao gồm:
Ngân sách marketing dựa trên chiến lược kinh doanh.
Một doanh nghiệp theo đuổi chiến lược "khác biệt" (differentiation) với
chiến lược định vị là "người đi tiên phong về cơng nghệ", thì bên cạnh những
đầu tư về mặt nghiên cứu công nghệ mới, sẽ phải đầu tư thích đáng về ngân
sách marketing để xây dựng mục tiêu định vị này trên thị trường nhằm làm cho
người tiêu dùng nhận thức được "sự khác biệt về công nghệ" ấy.
Ngược lại, một doanh nghiệp theo đuổi chiến lược "giá thành thấp" (cost
leadership) với chiến lược định vị là "giá thấp nhất trên thị trường hàng ngày" sẽ
chỉ cần một ngân sách marketing tối thiểu, nhằm có thể chứng minh cho khách
hàng thấy rằng "trên thị trường không ai có giá thấp hơn tơi".
Ngân sách marketing dựa trên mục tiêu thị trường.
Nếu mục tiêu thị trường của công ty trong năm 2007 là tăng 200% khối
lượng sản phẩm, từ vị trí thứ 4 lên vị trí thứ 2 trên toàn nghành và đặc biệt đứng
đầu tại thị trường Hà Nội.
Với một mục tiêu đầy tham vọng như trên, Công ty có thể cần phải đầu tư
đủ mạnh để tạo lợi thế cạnh tranh đối với chất lượng sản phẩm, năng lực sản
xuất và giá thành, công nghệ, dịch vụ, kênh phân phối, kho hàng, giao nhận và
vận chuyển, nhân lực ... và công ty không thể thiếu một chiến lược truyền thơng
marketing chặc chẽ mà trong đó các yếu tố marketing mix được phối hợp một
cách hài hoà nhằm có thể tạo ra sự chuyển biến tích cực trên thị trường để giúp
công ty đạt được mục tiêu đề ra.
Như vậy ngân sách marketing của công ty sẽ là tập hợp các chi phí để thực
hiện các sáng kiến và các chương trình marketing nhằm để đạt được mục tiêu
kinh doanh mà doanh nghiệp đề ra.



Đây là một kịch bản thường được các doanh nghiệp mới vào thị trường
thường nghiên cứu và vận dụng: tập trung mọi nỗ lực để dành thị phần nhằm đạt
lợi thế kinh tế về qui mô.
Ngân sách marketing phụ thuộc vào tình hình cạnh tranh trên thị trường.
Có thể nói một cách khác là chiến lược của công ty phụ thuộc vào chiến
lược của đối thủ cạnh tranh.
Giã sử công ty vẫn hài lịng với thị phần mà mình đang có và khơng dự
định những chương trình to lớn trong năm nay. Nhưng qua nhiều kênh thơng tin
tình báo thị trường khác nhau mà công ty biết rằng đối thủ cạnh tranh của mình
đã đặt ra những mục tiêu đầy tham vọng trong năm nay và đang chuẩn bị nhiều
kế hoạch lớn. Điều đó có nghĩa là vị trí thị trường của cơng ty đang bị đe doạ.
Trong tình hình như vậy, cơng ty buộc phải có chiến lược ngăn chặn hoặc đáp
trả trước khi tình hình trở nên quá muộn.
Như vậy cơng ty có thể phải chi nhiều hơn mức chi bình thường cho ngân
sách marketing trong năm đó, và mức độ nhiều bao nhiêu là phụ thuộc vào
chiến lược của đối thủ cạnh tranh, và mức độ đe doạ của chiến lược đối thủ cạnh
tranh đối với vị trí thị trường bạn.
Trong một thị trường bình ổn, cơng ty có thể lấy mức chi của đối thủ cạnh
tranh gần nhất để làm cơ sở xây dựng ngân sách cho mình. Trong trường hợp
này ai sử dụng đồng tiền một cách hiệu quả hơn, thông minh hơn sẽ là người
chiến thắng.
Ngân sách marketing phụ thuộc vào mục tiêu tài chính và khả năng của
doanh nghiệp.
Một số doanh nghiệp xây dựng ngân sách marketing dựa trên mục tiêu tài
chính mà doanh nghiệp muốn đạt được trong năm tài chính đó (dựa trên bảng kế
hoạch P&L). Chẳng hạn doanh nghiệp đặt ra một chỉ tiêu về doanh số, lãi gộp
và lãi rịng, rồi dựa theo đó mà phân bổ ngân sách marketing cùng các chi phí
hoạt động khác.



Trong trường hợp này, marketing phải xây dựng kế hoạch dựa trên nguồn
ngân sách được phân bổ, làm thế nào đạt được hiệu quả cao nhất với nguồn
ngân sách được ấn định từ trên xuống.
Cách làm này thường có một số mặt hạn chế về mặt hiệu quả đối với các
thị trường và nghành hàng năng động.
Nếu công ty thuộc loại doanh nghiệp vừa và nhỏ thì khơng thể địi hỏi chi
phí marketing q cao cho hoạt động của mình.
Ngân sách marketing trong thời kỳ kinh tế suy thối.
Trong tình hình kinh tế suy thối, các doanh nghiệp thường cắt giảm các
hoạt động marketing mang tính chiến lược (ảnh hưởng lâu dài), và chỉ tập trung
duy trì các hoạt động marketing hỗ trợ bán hàng (ảnh hưởng trước mắt) để có
thể bán được sản phẩm, nhằm có thể tồn tại qua giai đoạn khó khăn, chờ thị
trường khởi sắc trở lại.
Ngân sách marketing và chu kỳ thị trường của sản phẩm.
Ngoài ra, ngân sách marketing phụ thuộc vào giai đoạn của chu kỳ sống
sản phẩm trên thị trường. công ty cần phải đầu tư mạnh cho một sản phẩm mà
thị trường đang ở thời kỳ mới khai phá và còn nhiều triển vọng tiềm năng, mục
tiêu nhằm có thể nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường.
Nhưng cơng ty sẽ phải cân nhắc từng đồng chi ra cho một sản phẩm mà thị
trường đang đi đến giai đoạn thoái trào. Thay vào đó cơng ty cần tranh thủ thu
lợi nhuận trước khi chính thức rút lui khỏi thị trường này.
Tóm lại, ngân sách marketing là một kết quả có được từ sự cân nhắc dựa
trên chiến lược kinh doanh, các mục tiêu về tài chính của doanh nghiệp, mục
tiêu thị trường, tình hình cạnh tranh và khả năng của doanh nghiệp. Đối với
công ty TNHH Thiện Mỹ nên cân nhắc kỹ lưỡng trong việc phân bổ nguồn ngân
sách cho marketing. Chú trọng phát triển nhhững hoạt động có ích nhất, đem lại
hiêu quả cao nhất để làm sao với chi phí marketing hạn hẹp vẫn có thể thực hiện
được mục tiêu thị trường của mình.



Con nguời cũng là vấn đề rất quan trọng trong một hệ thống marketing
hiệu quả. Số lượng bao nhiêu là phù hợp? quản lý những con người đó như thế
nào để họ phát huy hêt khả năng của mình vẫn là bài tốn rất khó khơng chỉ
riêng với bộ phận marketing. Ngồi ra tính chun nghiệp trong cơng việc của
họ cũng ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của hệ thống, Chính vỉ vậy một phần
ngân sách marketing phải được phân bổ nhằm phát huy nhân tố con người trong
hệ thống marketing.
3. Chiến lược marketing chung
Bất kỳ một công ty dù đang hoạt động trong lĩnh vực nào, với quy mơ lớn
hay nhỏ cũng đều phải có mục tiêu kinh doanh xác định, mục tiêu đó có thể là
về doanh số, lợi nhuận hay thị phần, những mục tiêu này thường được gọi là
mục tiêu marketing. Để đạt được mục tiêu marketing phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố, yếu tố căn bản then chốt đó là “con đường” và chiến lược marketing
chính là con đường mà các doanh nghiệp thường sử dụng để đạt được muc tiêu
của mình.
Cơng ty TNHH Thiện Mỹ vẫn đang trong giai đoạn đầu của quả trình gia
nhập vào nghành quảng cáo nên chiến lược marketing chung của công ty là phải
bám chắc thị trường và thâm nhập theo chiều sâu. Với chiến lược này ngân sách
giành cho hoạt động marketing cũng sẽ khơng lớn vì sẽ khơng mất nhiều chi phí
trong q trình phát triển thương hiệu hơn nữa nó rất phù hơp vơí nguồn ngân
sách cịn khiêm tốn của cơng ty. Mặt khác, xây dựng chiến lược marketing
nghĩa là lập kế hoạch phù hợp, cân đối và hợp nhất chiến lược sản phẩm, chiến
lược giá cả, chiến lược phân phối và chiến lược xúc tiến hỗn hợp của doanh
nghiệp. Đây là sự cần thiết cho một doanh nghiệp nói chung và cơng ty Thiện
Mỹ nói riêng nếu muốn có một kế hoạch marketing hiệu quả.
4. Xây dựng chiến lược marketing 4p cho công ty
Marketing-mix không chỉ là một chiến lược trong hoạt động kinh doanh,
nó là một triết lý dẫn dắt tồn bộ hoạt động của doanh nghiệp trong việc phát



hiện ra, đáp ứng và làm thoả mãn cho nhu cầu của khách hàng.
Doanh nghiệp cần phải biết làm thế nào để xác định và phân khúc thị trường,
xây dựng giải pháp hấp dẫn để chào cho khách hàng, và xây dựng thương hiệu
với định vị mạnh. Họ phải biết làm thế nào để làm giá cho giải pháp của mình
một cách hấp dẫn và hợp lý, và làm thế nào để chọn và quản trị kênh phân phối
để đưa sản phẩm của mình đến người tiêu dùng một cách có hiệu quả. Họ cần
phải biết làm thế nào để quảng cáo và giới thiệu sản phẩm của mình, để khách
hàng biết và mua. Không chỉ thế, họ cần phải biết áp dụng chiến lược thị trường
và phương pháp quản trị phù hợp với thực tế thị trường đầy kỹ thuật mới trong
xu hướng tồn cầu hố. Có người nói rằng khơng nhất thiết phải có một bộ phận
chun trách thực marketing để làm cơng việc phân tích thị trường, lập kế
hoạch và kiểm soát các khâu liên quan. Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp
nhỏ, hoạt động không đa dạng nơi mà giám đốc đã có nhiều kinh nghiệm và
hiểu biết về nhu cầu khách hàng. Ngay cả đối với các cơng ty lớn, cũng khơng
cần phải có một phịng marketing, bởi vì sản phẩm thì đã có các kỹ sư quản lý,
giá cả thì phịng tài chính-kế tốn quản, việc phân phối hàng đã có nhân viên
chun trách lo, và việc bán hàng cũng như là quản cáo đã có giám đốc bán
hàng lo.
Cách tiếp cận như vậy rất nguy hiểm. Các nhà kỹ thuật thường chỉ chăm
chút vào khía cạnh vật chất của sản phẩm, các cơ kế tốn thường quan tâm đến
giá thành hơn là giá trị thị trường của sản phẩm, các nhân viên giao hàng
thường đặt ưu tiên tối ưu hoá việc quản lý hàng hố, trong khi lại khơng quan
tâm lắm về dịch vụ khách hàng vốn quan trọng hơn, và việc bán hàng cũng như
thúc đẩy bán hàng thường được thực hiện không phải theo cách tốt nhất nhằm
đạt mục tiêu chung của doanh nghiệp.
Muốn hay không muốn, do số lượng sản phẩm và thị trường của doanh
nghiệp ngày càng phát triển, và do áp lực cạnh tranh cũng như yếu tố bất ổn
định của môi trường kinh doanh ngày càng tăng, doanh nghiệp cần phải tổ chức
việc quản lý hoạt động marketing tập trung, nếu không sẽ đi đến chỗ nguy hiểm



là doanh nghiệp sẽ sản xuất ra sản phẩm mà về góc độ kỹ thuật thì tuyệt vời,
nhưng lại là một tai hoạ về góc độ thương mại.
Đối với cơng ty TNHH Thiện Mỹ mặc dù là một doanh nghiệp thuộc loại
hình vừa và nhỏ, nhưng việc tổ chức hệ thống hoạt động marketing là rất cần
thiết, là hướng đi tất yếu khi môi trường cạnh tranh ngày càng ngay gắt. Mơ
hình marketing 4Ps được hầu hết các quốc gia trên thế giới áp dụng và có hiệu
quả rất lớn vì vậy nó có thể làm nền tảng kiến thức để cơng ty dựa vào đó để
xây dựng cho mình một hệ thống hoàn chỉnh và phù hợp.
Marketing mix gồm các chính sách chủ yếu: product, price, promotion and
place(sản phẩm, giá cả, xúc tiến, phân phối).
4.1 Chính sách về sản phẩm
* Lý luận chung
Sản phẩm trong môi trường marketing được hiểu là một giải pháp cho một
vấn đề, bởi vì nó giải quyết vấn đề mà khách hàng cần giải quyết, và cũng có
nghĩa là thơng qua đó doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình. Vì sản phẩm
là những gì mà khách phải trả tiền để nhận được cho nên nó là một đề tài thật sự
quan trọng.
Khách hàng có những nhu cầu và do vậy họ mua sản phẩm để thoả mãn
những nhu cầu đó. Ví dụ một cách dễ hiểu là khách hàng muốn có một cái lỗ,
họ có thể mua một cái khoan, nhưng nếu có ai đó phát minh ra một cách tạo ra
lỗ tốt hơn, thì như thế nhu cầu về khoan có thể sẽ giảm sút. Có thể rút ra từ luận
điểm nầy là doanh nghiệp nào không nhận định về công việc kinh doanh của
mình dựa trên nhu cầu khách hàng mà chỉ dựa trên sản phẩm/dịch vụ vật chất
thì có nguy cơ sẽ mất vị trí cạnh tranh trên thị trường. Như vậy đã rõ là nếu giao
cho các kỹ sư quyết định tồn bộ về sản phẩm thì sẽ rất nguy hiểm. Bởi vì các
kỹ sư thường cho rằng điều quan trọng nhất đối với một sản phẩm là tính năng
kỹ thuật của sản phẩm đó.



Như vậy chính sách sản phẩm của cơng ty là phải tạo ra những sản phẩm
khách hàng cần và nó có thể thỏa mãn nhu cầu của họ tốt hơn so với đói thủ
canh tranh. Mỗi doanh nghiệp đều có thế mạnh riêng của mình về một mặt nào
đó của sản phẩm họ cung ứng. Thế mạnh của sản phẩm đó thuờng mang lại ưu
thế hơn trong cạnh tranh, và chính sách sản phẩm lâu dài của cơng ty thuờng tập
trung vào thế mạnh này và phát triển sản phẩm đó theo chiều sâu.
Ngồi ra, Phát triển sản phẩm mới cũng là một chính sách quan trọng. Tuy
nhiên, phát triển sản phẩm mới là một điều đầy rủi ro và nhiều sản phẩm mới đã
gặp thất bại.
Để có sản phẩm mới doanh nghiệp có hai cách. Một là mua sản phẩm từ
người khác. Điều nầy có thể là mua sản phẩm và tiếp thị với nhãn hiệu của riêng
mình, hoặc mua thiết kế, công thức sáng chế hoặc mua giấp phép sản xuất một
sản phẩm của người khác. Hai là tự mình phát triển sản phẩm lấy bằng các hoạt
động R&D (nghiên cứu và phát triển) của doanh nghiệp mình.
Nhiều sản phẩm mới được đầu tư rất tốn kém nhưng vẫn có thể gặp thất
bại, chẳng hạn như sản phẩm Edsel của Ford gây thiệt hại 350 triệu đô la, RCA
thiệt hại 580 triệu đô la vào sản phẩm đầu video Selecta Vision, New Coke của
Coca Cola, Polarvision của Polaroid ...
Người ta thống kê là có đến 80% sản phẩm tiêu dùng nhanh mới bị thất
bại, sản phẩm công nghiệp mới thất bại 30%. Lại có nguồn khác nói có đến
95% sản phẩm mới bị thất bại.
Tại sao sản phẩm mới thất bại? Có thể ý tưởng về sản phẩm là tốt nhưng
do đánh giá quá cao nhu cầu thực tế của thị trường. Hoặc do sản phẩm thực tế
không được thiết kế tốt như mong muốn. Hoặc có thể do sản phẩm mới khơng
được định vị thích hợp trên thị trường. Cũng có khi do việc cho ra đời sản phẩm
mới bị hối thúc, trong khi các dữ liệu nghiên cứu thị trường chưa được thu thập
đầy đủ. Hoặc do chi phí phát triển sản phẩm mới quá cao, thị trường không thể
chấp nhận được. Hay do đối thủ cạnh tranh kịp thời tung ra sản phẩm tương tự
trước.



Do có quá nhiều sản phẩm mới gặp thất bại, doanh nghiệp phải học cách
làm cách nào để đưa sản phẩm mới vào thị trường một cách thành công. Doanh
nghiệp có thể rút kinh nghiệm từ các sản phẩm thành cơng để tìm ra điểm
chung. Cách khác là học những bài học mà các sản phẩm thất bại đã phải trả
giá.
Tóm lại để có thể phát triển một sản phẩm mới thành cơng, doanh nghiệp
phải hiểu khách hàng mình muốn gì, hiểu thị trường, hiểu đối thủ cạnh tranh và
phát triển một sản phẩm mang lại giá trị thật sự và thỏa mãn được nhu cầu thị
trường mục tiêu của mình.
Chính sách về sản phẩm cịn được thể hiện thơng qua dịch vụ mà doanh
nghiệp cung cấp cho khách hàng. Dịch vụ khách hàng là một hệ thống được tổ
chức để tạo ra một mối liên kết mang tính liên tục từ khi tiếp xúc với khách
hàng lần đầu tiên cho đến khi sản phẩm được giao, nhận và được sử dụng, nhằm
làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng một cách liên tục.
Nhiều doanh nghiệp không biết cấp độ dịch vụ mình đang cung cấp cho
khách hàng là ở mức nào, hay nói một cách khác là khơng có chích sách dịch vụ
khách hàng cụ thể. Có trường hợp có chính sách dịch vụ khách hàng nhưng
được xây dựng một cách tuỳ tiện chứ không phải là kết quả của việc nghiên cứu
thị trường một cách thấu đáo.
Bằng cách xem xét một cách cẩn thận chính sách dịch vụ khách hàng, có
thể bằng cách giới thiệu một cấp độ dịch vụ có thể tạo nên sự khác biệt cho sản
phẩm khác nhau, đối với từng đối tượng khách hàng khác nhau, marketing có
thể gia tăng sự đóng góp về mặt lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nếu trong một thị trường mà giữa các sản phẩm cạnh tranh khơng có sự
chênh lệch vượt trội về chất lượng, tính năng thì dịch vụ trở thành yếu tố thể
hiện sự vượt trội về lợi thế cạnh tranh.
Đây là 3 chính sách cơ bản về sản phẩm mà đã được rất nhiều công ty sử
dụng làm nền tảng để phát triển chiến lược marketing của mình.



* Áp dụng
Dựa vào nền tảng trên và kết hợp với thực tiễn hoạt động kinh doanh của
công ty TNHH Thiện Mỹ thì chính sách sản phẩm của cơng ty nên tập trung
theo 3 hướng sau đây
Thứ nhất, tiến hành phát triển sản phẩm mà cơng ty có khả năng nhất.
Mặc dù công ty cung cấp cho thị trường với rất nhiều danh mục sản phẩm gồm
có: Thiết kế chương trình quảng cáo; thiết kế, gia cơng biển quảng cáo công
nghiệp; quan hệ cộng đồng, tuy nhiên lĩnh vực hoạt động chính và cơng ty có
khả năng đáp ứng tốt nhất cho thị trường mục tiêu là thiết kế, gia công biển
quảng cáo công nghiệp. trong lĩnh vực này công ty cung cấp những sản phẩm
sau:
Biển quảng cáo ngoài trời

-

- Biển led điện tử
-

Biển quảng cáo dạng cột

-

Băng rôn với số lượng lớn
Trong đó biển quảng cáo ngồi trời chiếm 90% doanh thu 10% doanh thu
còn lại tập trung ở nhóm sản phẩm cịn lại.
Như vậy, có thể thấy rằng biển quảng cáo ngoài trời là một thế mạnh rất
lớn của cơng ty, trong những năm sắp tới chính sách sản phẩm vẫn tập trung
phần lớn vào sản phẩm này, ngoài ra cần nghiên cứu triển khai đưa ra những

thiết kế mới về chất liệu cũng như kiẻu dáng để đảm bảo tốt hơn việc đáp ứng
nhu cầu của khách hàng và đạt được mục tiêu marketing của công ty đã để ra từ
trước.
Thứ hai, Nghiên cứu phát triển sản phẩm mới. Trong dài hạn khi thị
trường đã quá nhiều đối thủ cạnh tranh thì nhất thiết địi hỏi các công ty phải
tiến hàng cung ứng sản phẩm mới để phù hợp với nhu cầu đã thay đổi của khách
hàng. Ở đây phụ thuộc rất nhiều vào mục tiêu kinh doanh cũng như ý trí của ban
quản trị cơng ty Thiện Mỹ . Tuy nhiên theo góc độ khách quan và dựa theo khả


năng về nguồn lực tài chính và con người hiện tại của cơng ty thì trong khoảng
thời gian la 5năm tới công ty chỉ nên phát triển sản phẩm cốt lõi của mình,hồn
thiện sản phẩm về chất lượng, kiểu dáng, cũng như đặc tính kỹ thuật. Cơng ty
khơng nên phát triển sản phẩm theo chiều rộng như xâm nhập vào thị trường
quảng cáo thương mại hay PR với nguồn lực tài chính cịn khiêm tốn như hiện
nay, việc làm này chỉ khiến công ty đi từng bước đến “ngã ba đường”.
Thứ ba, Tập trung phát triển dịch vụ khách hàng. Đây là vấn đề rất quan
trọng, nhưng hiện tại ở cơng ty Thiện Mỹ vai trị của nó chưa được coi trọng.
Chính vì vậy trong thời gian tới cơng ty nên tổ chức bồi dưỡng kiến thức về
dịch vụ khách hàng cho tồn bộ nhân viên trong cơng ty, có thể bằng nhiều cách
như: Mời chuyên gia tư vấn; phát động phong trào thi đua…..Nhưng chủ yếu
nó tập trung vào phong cách cũng như triết lý kinh doanh của người quản trị hay
nói cách khác là văn hóa kinh doanh của cơng ty.
4.2 Chính sách giá
* Lý luận chung
Giá là một thành phần quan trọng trong giải pháp marketing mix và cần
phải được quản trị một cách thông minh như là cách mà ta quản trị những thành
phần khác. Nhìn chung giá là một phần đi kèm với kế hoạch sản phẩm/thị
trường và không phải là một thực thể riêng lẽ.
Yếu tố giá quan trọng như thế nào trong công việc marketing? Có lẽ điều

này đã quá rõ trong khi người ta định nghĩa marketing “marketing là khai thác
mọi nguồn tài nguyên vật lực và năng lực của một doanh nghiệp để đưa ra giải
pháp ưu việt nhằm làm thỏa mãn nhu cầu của khách hàng mục tiêu và qua đó thu
lợi nhuận.”
Giá là yếu tố “P” duy nhất trong chiến lược hỗn hợp mà ta có thể thu lại
giá trị cho mình từ những giá trị đã tạo ra cho khách hàng.
Là giá trị (thường dưới hình thức tiền bạc) mà khách hàng sẵn sàng trả để
được thoả mãn nhu cầu (thường là một sản phẩm hoặc dịch vụ).


Có người nói xây dựng chính sách giá là cả một nghệ thuật. Nhiều khách
sạn chào bảng giá phịng trơng có vẻ là rất "phải chăng" và hấp dẫn, nhưng thực
ra doanh thu bình quân của họ trên đầu khách cao hơn nhiều so với một khách
sạn khác có biểu giá phòng cao hơn. Mitsubishi đặt giá bán xe thấp hơn xe
Toyota cùng chủng loại, nhưng khách hàng Mitsubishi có thể chi tiêu nhiều tiền
hơn trong suốt thời gian sử dụng chiếc xe vì giá phụ tùng và chi phí sửa chửa xe
Mitsubishi cao hơn nhiều so với Toyota.
Thông thường, giá cao tạo ra cảm giác về sản phẩm cao cấp của khách
hàng. Do đó, nên cân nhắc liệu giá có thể giúp xây dựng hình hành phù hợp với
các khách hàng mục tiêu và làm cho họ mua hàng của công ty không. Một câu
hỏi khác là khách hàng có nhạy cảm với giá khơng? Do đó, cần phải quan tâm
tới tất cả các yếu tố đó khi quyết định chiến lược giá.
Nếu không phải là nhà cung cấp duy nhất trên thị trường. công ty cần phải
biết các mức giá mà đối thủ cạnh tranh áp dụng cho các khách hàng của họ. Có
thể yêu cầu nhân viên hoặc nhờ bạn bè gọi cho các đối thủ và hỏi họ để lấy bảng
giá. Thơng tin này có thể làm cơ sở cho quyết định định giá của công ty.
Nhìn chung, khơng nên đặt giá q cao hoặc q thấp so với đối thủ cạnh
tranh mà khơng có lý do chính đáng. Một mức giá q thấp có thể làm cho cơng
ty bị lỗ cịn giá q cao có thể làm cho khách hàng rời bỏ công ty, trừ khi sản
phẩm hoặc dịch vụ của cơng ty có thể mang lại cho họ lợi ích đặc biệt mà họ

khơng thể có được từ các sản phẩm hoặc dịch vụ của nhà cung cấp khác.
Có thể áp giá khác nhau đối với các khách hàng khác nhau, ví dụ như giá
thấp hơn cho những người mua thường xuyên, hoặc mua các sản phẩm bổ sung
hay liên quan tới sản phẩm họ đã mua của bạn như một hình thức cảm ơn sự
trung thành của họ.
Ngoài ra cần cân nhắc chi phí để làm hài lịng khách hàng. Nếu chi phí cao
hơn thì có lãi thấp hơn trừ khi bán chúng với giá cao hơn. Ví dụ, bán hàng cho


một khách hàng vãng lai sẽ tốn chi phí hơn bán sản phẩm đó cho khách hàng
thường xuyên.
Bạn cũng phải quyết định phương pháp định giá nào – đinh giá theo chi phí
hay định giá theo giá trị phù hợp hơn với doanh nghiệp. Ngồi ra giá mà cơng ty
đưa ra phải bù đắp được chi phí và mang lại một khoản lợi nhuận. Hơn nữa,
cũng nên thay đổi giá nếu thực sự cần thiết. Tuy nhiên, cần suy nghĩ kỹ lưỡng
trước khi thay đổi giá mặc dù nó phụ thuộc vào ý chí chủ quan của ban quản trị,
nhưng cần nhớ rằng khi giảm giá thì dễ cịn tăng giá trở lại thì rất khó.
* Áp dụng
Cơng ty TNHH Thiện Mỹ hiện tại sử dụng chính sách giá với sự kết hợp
giũa giá thành và giá của đối thủ cạnh tranh. Và chính sách giá mà cơng ty đang
áp dụng đó là chíến lược giá thấp nhằm thu hút khách hàng đến với công ty,
tuy nhiên chất lượng sản phẩm của cơng ty cung ứng có chất lượng rất cao và
khơng thua kém đói thủ cạnh tranh của mình. Trong những năm sắp tới cơng ty
tiếp tục duy trì chích sách giá này nhằm bám chắc thị trường của mình.
4.3 Chính sách phân phối.
* Lý luận chung
Kênh phân phối là một phần rất quan trọng trong những nỗ lưc tiếp cận thị
trường của doanh nghiệp.
Loại kênh phân phối mà cơng ty chọn có thể là trực tiếp (bán thẳng đến
người sử dụng sau cùng) hoặc gián tiếp (bán thông qua người trung gian, nhà

phân phối, nhà buôn sĩ đến người bán lẻ) hoặc chuyên nghành (bán thông qua
kênh riêng biệt chuyên nghành cùng các sản phẩm dịch vụ khác). Doanh nghiệp
của ta cần bao nhiêu kênh phân phối? Loại kênh nào có thể giúp đưa sản phẩm,
dịch vụ của doanh nghiệp đến người tiêu dùng một cách hiệu quả và kinh tế
nhất? Đây rõ ràng là một quyết định không thể xem nhẹ.


Kênh phân phối được hiểu là phương tiện mà thông qua đó khách hàng
nhận và trả tiền cho hàng hố, dịch vụ mà họ tìm kiếm và cũng là phương tiện
mà thơng qua đó nhà cung cấp cung cấp dịch vụ cho khách hàng .
Kênh phân phối tồn tại hỗ trợ việc cung cấp sản phẩm từ nhà sản xuất đến
người tiêu dùng, để làm tăng hiệu quả của quá trình cung cấp sản phẩm và
làm tăng sự phong phú của sản phẩm, dịch vụ đến với khách hàng.ngoài ra nó
cịn làm cân đối nhu cầu giữa sản xuất lớn với tiêu dung nhỏ, làm thoã mãn
những nhu cầu khác nhau của các nhóm khách hàng khác nhau và cung cấp cho
khách hàng những giải pháp mới, tốt hơn.
Các loại kênh phân phối chủ yếu


Kênh trực tiếp



Kênh mạng lưới phân phối



Kênh bán sĩ




Kênh chuyên nghành



Kênh thương mại điện tử
Một doanh nghiệp nhỏ mới ra thị trường thường hoạt động khởi điểm với
một thị trường giới hạn nhất định. Bởi vì doanh nghiệp nhỏ thường bị hạn chế
về khả năng và vốn liếng, nên họ thường phải lựa chọn từ những kênh phân
phối đang có sẵn. Kênh phân phối mà họ chọn có thể chỉ bao gồm vài người
nhân viên của nhà cung cấp, một hoặc hai nhà phân phối (nhà bán sỉ), vài cửa
hàng bán lẻ và kết hợp với một hoặc hai doanh nghiệp vận chuyển. Trong
trường hợp nầy, việc chọn kênh phân phối tốt nhất cho doanh nghiệp dường như
đơn giản hơn, và chính họ có thể sẽ phải thực hiện một vài chức năng của kênh
phân phối.
Mặt khác, các doanh nghiệp lớn có xu hướng sử dụng nhiều loại hình phân
phối khác nhau cho từng thị trường khác nhau. Nhà sản xuất có thể đưa sản
phẩm mình ra thị trường thông qua nhà phân phối bán sỉ đối với những thị


trường lớn. Trong khi đối với những thị trường nhỏ họ có thể trực tiếp cung cấp
đến các điểm bán lẻ.
Đối với một thị trường nào đó, doanh nghiệp có thể phân phối rộng rãi sản
phẩm mình tới tất cả các điểm bán lẻ nào mong muốn bán hàng của doanh
nghiệp. Nhưng trên một thị trường khác, doanh nghiệp lại chỉ có thể cấp quyền
độc quyền cho một vài cửa hàng bán lẻ.
Đối với thị trường vùng ngoại ô, doanh nghiệp có thể phân phối sản phẩm
của mình qua hệ thống các cửa hàng bán đầy đủ dải sản phẩm cùng chủng loại.
Nhưng đối với thị trường có mật độ dân cư dày đặc, doanh nghiệp lại có thể
phân phối sản phẩm của mình qua các cửa hàng chỉ bán các sản phẩm chọn lọc,

hạn chế.
Dù lớn hay nhỏ, khi chọn kênh phân phối doanh nghiệp phải tiến hành
phân tích SWOT để hiểu thế mạnh và điểm yếu của mình cùng với những cơ
hội và những mối đe doạ trên thị trường. Doanh nghiệp cũng nên phân tích
SWOT đối với các thành phần tham gia trong kênh phân để hiểu và chọn đối tác
cho phù hợp với chiến lược marketing của mình.
* Áp dụng
Do hoạt động trên lĩnh vực sản xuất các sản phẩm công nghiệp và cụ thể là
nghanh quảng cáo, cơng ty THHH Thiện Mỹ cần phải có một kênh phân phối
đặc thù phù hợp với tính chất nghành nghề cũng như nguồn lực tài chính của
mình. Cơng ty có thể sử dụng kênh marketing trực tiếp, sử dụng nhân viên bán
hàng của mình để tiếp thị trực tiếp với khách hàng cơng nghiệp của mình. Tuy
nhiên cơng ty cung nên sử dụng một chung gian công nghiệp ở đây vì họ có sức
mạnh thị trường hơn, bằng cách sử dụng những nhân viên bán hàng iếp thị trực
tiếp sản phẩm đến nhà trung gian conga nghiệp, những doanh nghiệp này có thể
sẽ nhận hợp đồng cho cơng ty mà cơng ty khơng cần hao phí marketing đến
khách hàng, tuy nhiên phải có tỷ lệ chiết khấu hấp dẫn đối với các nhà trung
gian này. Đó có thể xem là một số giả pháp trong kênh phân phối của công ty


nhằm thoát khỏi thực trạng bị động va từng bước mở rộng phạm vi thị trường
của mình.
4.4 Chính sách truyền thơng
* Lý luận chung
Nhằm có thể đạt được mục tiêu kinh doanh trên thị trường, có một sản
phẩm tốt với 1 giá tốt và cách thức phân phối chuyên nghiệp không thôi chưa
đủ, doanh nghiệp cần phải xây dựng thương hiệu của minh thành một thương
hiệu được khách hàng ưa chuộng.
Để đạt được điều này, doanh nghiệp cần phải truyền thơng với thị trường
để khách hàng biết những tính năng ứng dụng, tính ưu việt và lợi ích của sản

phẩm mình. Ngồi ra, doanh nghiệp cịn cần phải xây dựng mối quan hệ với
khách hàng và duy trì cũng cố mối quan hệ nầy. Vì những yêu cầu trên, doanh
nghiệp cần có một chiến lược truyền thơng marketing.
Có nhiều hình thức truyền thơng marketing khác nhau. Doanh nghiệp có
thể truyền thông một cách trực tiếp, mặt đối mặt, sử dụng đội ngũ bán hàng,
hoặc thông qua trung tâm dịch vụ điện thoại, hoặc một cách gián tiếp, sử dụng
quảng cáo, hoạt động thúc đẩy thương mại, truyền thông điện tử, hoặc là các vật
dụng trưng bày tại điểm bán hàng.
Yếu tố chọn công cụ truyền thông marketing nên dựa trên nguyên tắc
phương tiện nào giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu một cách có hiệu quả
kinh tế nhất, cụ thể là phương tiện nào mang lại hiệu quả cao nhất trên cùng một
khoảng chi phí bỏ ra.
Trên thực tế doanh nghiệp có nhiều phương thức đa dạng trong việc truyền
thơng với khách hàng, nhưng vẫn có thể phân biệt được thành hai loại chính:
1.

Truyền thơng phi cá thể, chẳng hạn quảng cáo, vật dụng trưng bày tại
điểm bán hàng, thúc đẩy bán hàng, truyền thông điện tử và quan hệ công đồng.


2.

Truyền thông cá thể (trực tiếp đối mặt), cụ thể là gặp mặt trực tiếp giữa
nhân viên bán hàng và khách hàng, chẳng hạn như bán trực tiếp hoặc trung tâm
dịch vụ điện thoại.
Cho nên có thể nói có khá nhiều hình thức truyền thơng để doanh nghiệp
lựa chọn, họ có thể sử dụng đơn độc một loại, hoặc sử dụng một tập hợp nhiều
kỹ thuật cùng một lúc, nếu cần thiết, để đạt được hiệu quả tối đa trong khả năng
ngân sách hạn hẹp.
Quảng cáo là một phương thức phổ biến về truyền thông phi cá thể, sử

dụng những phương tiện truyền thơng như báo chí, truyền hình, truyền thanh,
bảng quảng cáo, tờ poster v.v. Tuy nhiên vẫn có nhiều vấn đề cần phải xem xét
cẩn thận trước khi đưa ra quyết định chi tiêu cho việc quảng cáo. Chẳng hạn
như có nhiều người cho rằng quảng cáo là lãng phí, chi phí tiêu dùng vào
phương tiện truyền thơng có thể mang lại hiệu quả hơn nếu dùng vào việc bán
hàng thông qua tiếp xúc cá nhân.
Do vậy vấn đề là làm thế nào để xác định chiến lược truyền thơng hỗn hợp
thích hợp với từng loại doanh nghiệp khác nhau với mục tiêu kinh doanh riêng
biêt. Thông thường một chiến lược truyền thông gồm :
-Đối tượng mục tiêu nhận tin
-Thông điệp định vị
-Mục tiêu truyên thông
-Phương tiện truyền thơng ,thơng điệp
-Đánh giá hiệu quả
-Duy trì
Tuy nhiên, đối với những loại hình doanh nghiệp đang hoạt động ở những
lĩnh vực khác nhau thì có thể khơng tn thủ một số bước trong chiến lược
truyền thông marketing cho công ty.
* Áp dụng


Do không hoạt động trong thị trường sản xuất hàng tiêu dùng sinh hoạt,
nên vấn đề về chính sách truyền thơng đối với cơng ty TNHH Thiện Mỹ cần có
những điều chỉnh phù hợp trong kế hoặch truyền thông marketing của mình.
Với cơng ty khách hàng chủ yếu là những khách hàng công nghiệp nên
công ty nên chon sử dụng kênh quảng cáo trên báo chí và tạp chí chuyên
nghành đây là hình thức phù hợp với cơng ty trong khả năng về nguồn lực.
Ngồi ra cơng ty nên sử dụng hình thức tiếp xúc cá nhân đây là hình thức rất
hữu ích và trực tiếp noi cho khách hàng biết cơng ty có gì để cung cấp cho ho.
Cơng ty có thể chỉ cần 1nhân viên và 1 ngày chỉ cần tiếp xúc thành công với 2

khách hàng công nghiệp trong viêc tiếp thị hình ảnh thương hiệu của cơng ty là
đạt hiệu quả.
Tóm lại, để hoạt động của cơng ty thật sự hiệu quả thì nhất thiết phải thiết
lập hệ thống marketing mix cho công ty,đây là bước khởi đầu cho doanh nghiệp
khi muốn gia nhập sâu hơn vào nghành và chiến thắng trong môi trường cạnh
tranh ngày càng gay gắt như hiện nay.


Kết luận
Qua thực tiễn hoạt động kinh doanh của công ty TNHH Thiện Mỹ ta thấy
rằng đại bộ phận các công ty Quảng cáo trong nước hiện nay đều hoạt động rất
“thơ sơ” và chỉ dừng lại ở quả trình gia cơng một chương trình quảng cáo.
Ngồi lý do về nguồn lực tài chính và con nguời thì lý do cơ bản nhất là các
cơng ty này chưa tự hồn thiện mình, chưa làm cho mình chun nghiệp được.
Chính vì vậy việc thỏa màn nhu cầu cho khách hàng ở mức khơng cao. Ngồi ra
vấn đề thiết lập một hề thống marketing mix ở mức cơ bản cũng chưa được
hoàn thiện cũng góp phần làm cho các doanh nghiệp quảng cáo trong nước yếu
thế hơn các doanh nghiệp nước ngoài. Trong thời gian tới nền kinh tế Việt Nam
sẽ có những bước chuyển mình rất lớn và đấy là cơ hội cũng như thách thức cho
các doanh nghiệp trong nước. Cạnh tranh sẽ được đẩy lên cao hơn và để tồn tại
được thì các cơng ty trong nước phải có những bước đi chuyên nghiệp hơn, phải
đầu tư chhi phí cho hoạt động marketing nhiều hơn. Vì giới hạn về thời gian và
nguồn dữ liệu nên đề tài này vẫn chưa đi sâu hơn để phân tích chiến lược kinh
doanh của công ty và giải pháp, cũng như thiết lập văn hóa kinh doanh mới
nhằm thích nghi với thực tiễn kinh doanh.



×