Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận tâm lý tuyên truyền , những biến đổi tâm lý cơ bản của giai cấp nông dân việt nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.28 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Có thể nói rằng, nền kinh tế tiểu nông đã tồn tại hàng ngàn năm ở Việt Nam
cùng với chế độ phong kiến, chế độ thuộc địa nửa phong kiến và văn hóa làng xã đã
góp phần tạo nên đặc điểm tâm lý đa dạng, phong phú và phức tạp của người nông
dân. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là cuộc cải biến cách
mạng sâu sắc, triệt để về mọi mặt, nhất là trong đời sống tâm lý của người nông dân
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp
lên nền kinh tế công nghiệp. Dưới góc độ tâm lý, đó cũng là quá trình chuyển từ “tâm
lý tiểu nông" lên "tâm lý công nghiệp". Đó là cuộc cải biến mang tính khoa học và
cách mạng trong đời sống tâm lý của người nông dân. Nhằm đánh giá đúng đắn thực
trạng ảnh hưởng của tâm lý nông dân trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước góp phần làm tư liệu phục vụ công tác tư tưởng của Đảng, tôi chọn đề tài:
“Những biến đổi tâm lý cơ bản của giai cấp nông dân Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay” làm tiểu luận kết thúc môn học của mình.

1


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM
1.1. Khái niệm giai cấp nông dân
Nông dân là những người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông
nghiệp. Nông dân sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư
liệu sản xuất chính là đất đai.
Tùy từng quốc gia, từng thời kì lịch sử, người nông dân có quyền sở hữu khác
nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông dân, có vị trí, vai trò nhất định
trong xã hội.
Theo Hội Nông dân Việt Nam, nông dâ nước ta hiện nay chiếm 73% dân số
tương đương với khoảng 62.626.388 người, số lao động nông nghiệp chiếm 55,7% lao
động xã hội. Nông thôn hiện có gần 14 triệu hộ.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt


động sản xuất - kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế- xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghiệp và
tiến bộ khoa học - công nghệ nhằm tạo năng suất lao động - xã hội cao.
1.2. Đặc điểm tâm lý người nông dân
1.2.1. Mặt tích cực
Yêu quê hương đất nước, gắn bó với quê cha đất tổ là một trong những đặc
điểm nổi bật của người nông dân Việt Nam. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước, người nông dân vừa phải cày cấy, vừa phải chống chọi với thiên nhiên và
chống giặc ngoại xuân dù hoàn cảnh nào họ vẫn bám trụ quê cha đất tổ với tinh thần
“Một tấc không đi, một ly không rời". Đối với nông dân, quê cha đất tổ là "thánh địa
linh thiêng"
Đoàn kết gắn bó cộng đồng, yêu thương đùm bọc lẫn nhau, tình nghĩa thủy
chung đã trở thành lẽ sống của người nông dân. Chính công việc cày cấy hàng ngày và
sinh hoạt trong họ hàng, làng xã đã làm cho cuộc sống của người nông dân. "Tối lửa
tất đèn có nhau", cùng nhau chia sẻ ngọt bùi đắng cay... Điều đó, được thể hiện không
chỉ trong hoạt động hàng ngày, mà còn được khái quát trong ca dao tục ngữ: "Nhiễu
điều phủ lấy giá gương, người trong một nước thì thương nhau cùng", "Một cây làm
chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Lá lành đùm lá rách”…
2


Sự tự tin vào mình, vào dân tộc và đất nước được nâng lên. Người nông dân
Việt Nam hiện nay về cơ bản đã thoát khỏi sự tự ti đối với người thành thị, với người
nước ngoài… trong lối sống, trong lao động và giao tiếp xã hội
Ý thức lao động sáng tạo, tìm cách làm ăn có hiệu quả, khám phá những tri thức
mới được nâng cao, nhất là trong lớp trẻ.
Tác phong, lối sống công nghiệp, hiện đại đang trở thành lối sống phổ biến trong
lớp thanh niên nông dân được tiếp xúc với xã hội bên ngoài, được học tập có hệ thống
Niềm tin vào lý tưởng, vào hệ thống chính trị tuy có suy giảm nhưng về cơ bản,

vẫn chưa có một hệ tư tưởng nào có thể thay thế được lý tưởng của Đảng và nhà nước
do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập
Việt Nam nằm ở giữa đầu mối giao lưu văn hóa "Bắc - Nam" và "Đông - Tây",
nên người Việt Nam xưa nay có điều kiện giao lưu học hỏi, tiếp thu và cải biến cái hay
cái đẹp của người để biến chúng thành cái của riêng mình. Chính điều đó góp phần
làm nên cái thông minh, sáng tạo và lạc quan yêu đời. Chính những câu chuyện về
những ông Trạng Việt Nam (Trạng Quỳnh, Trạng Lợn...) và những câu tục ngữ ca dao
như: "Chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo"... đã là những minh chứng sinh động cho
điều đó.
1.2.2. Mặt tiêu cực
Tư duy manh mún, tản mạn là một biểu hiện tâm lý nổi bật của nông dân sống
khép kín sau lũy tre làng, canh tác trên mảnh đất bạc màu, những thửa ruộng nhỏ, lẻ
với công cụ thô sơ "Con trâu đi trước cái cày theo sau" dựa trên những thói quen, tập
quán nhiều đời... Chính hoàn cảnh đó đã làm nảy sinh và nuôi dưỡng tư duy manh
mún, tản mạn (thiếu khả năng khái quát tổng hợp) của người nông dân. Chính vì vậy
mà họ chỉ thấy lợi trước mắt, không thấy lợi lâu dài, chỉ thấy lợi ích cá nhân, không
thấy lợi ích tập thể...".
Thói "lười biếng" suy nghĩ và tính toán, tính ỷ lại và bảo thủ, sự sùng bái kinh
nghiệm và "coi thường" lớp trẻ là sản phẩm lâu dài của nền kinh tế tiểu nông mà dù
muốn hay không người nông dân vẫn tiêm nhiễm. Trong nền kinh tế tiểu nông, "Lão
nông tri điền", “sống lâu lên lão làng", “đất lề quê thói", “phép vua thua lệ làng" đã trở
thành thói quen ứng xử phổ biến. Hơn nữa, sống trong chế độ phong kiến dưới sự
thống trị của chế độ đẳng cấp, tôn ti, trật tự Nho giáo, người nông dân coi lớp trẻ như
là loại "trứng khôn hơn vịt", “khôn ba năm dại một giờ"... Trong khi nói về những
điều cần khắc phục trong tâm lý nông dân, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "... nông dân
thường có tính thủ cựu, rời rạc, tư hữu..."
3


Thiếu ý thức kỷ luật lao động và "thừa " tính đố kỵ, ganh ghét, cục bộ, bản vị

địa phương cũng là một đặc điểm tâm lý nổi bật của nông dân. Người nông dân (tư
hữu nhỏ) sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên "nắng mưa bất thường" và "tùy hứng" cá
nhân đã trở thành thói quen phổ biến ở làng xã Việt Nam. Bị quy định bởi tư hữu nhỏ,
bởi trình độ nhận thức và điều kiện kinh tế - xã hội, người nông dân tuy cần cù, thông
minh nhưng thiếu tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, bộc lộ tính đố kỵ, ganh ghét, cục bộ
"Đèn nhà ai nấy rạng", “ta về ta tắm ao ta", “trâu buộc ghét trâu ăn"...
Sống dựa trên nền kinh tế tiểu nông nghèo nàn lạc hậu, dưới chế độ phong kiến
và thuộc địa nửa phong kiến hà khắc, người nông dân còn phải hứng chịu những tệ nạn
xã hội: mê tính dị đoan, cờ bạc, rượu chè, lãng phí... Nhận rõ những thói hư, tật xấu đó,
Hồ Chí Minh đã yêu cầu: “... Đồng bào và cán bộ phải đánh lui tư tưởng bảo thủ".
1.3. Nhưng yếu tố tác đông đến tâm lý nông dân
Chịu ảnh hưởng của chế độ phong kiến đặc biệt là tư tưởng nho giáo. Trải qua
1000 năm chịu ách thống trị của Trung Quốc, 100 năm bị áp bức bóc lột chế độ thực dân.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với cơ chế hành chính bao cấp, dựa trên hai
hình thức sở hữu toàn dân và tập thể đã làm nảy sinh và phát triển tinh thần tập thể, ý
thức trách nhiệm, tính tổ chức kỷ luật của người nông dân, nhưng cũng chính nó đã
tạo điều kiện phát triển tâm lý: "bình quân", “cá mè một lứa ", thụ động, dựa dẫm, ỷ
lại vào cấp trên... Trong điều kiện hợp tác xã nông nghiệp làm ăn kém hiệu quả, đời
sống thấp thì ở người nông dân nảy sinh tâm lý chán chường và "thờ ơ" với công việc
Hiện nay, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn được thực
hiện trong điều kiện kinh tế thị trường và với "áp lực”, ngày càng gia tăng của toàn
cầu hóa. Hơn nữa, có một thực tế là hiện nay nước ta vẫn còn là nước nông nghiệp
nghèo (dưới 30% dân số nghèo, trong đó đa số là nông dân, 26% trẻ em suy dinh
dưỡng mới có 16% dân số được bảo hiểm y tế 53% dân số được dùng nước sạch và
hơn 15% lao động được đào tạo lành nghề. Ở nông thôn thì ruộng đất manh mún, mô
trường sinh thái ngày càng suy giảm, giá nông sản không ổn định, thu nhập và đời
sống nông dân thấp và tăng rất chậm so với thành thị, tình trạng thiếu đất, thiếu việc
làm ngày càng nhiều... Chính hiện tượng này đã và đang là "áp lực", thách thức lớn
"đè nặng" lên tâm lý người nông dân.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ

cấu lao động theo hướng thu hẹp tỷ trọng sản xuất nông nghiệp và nâng cao tỷ trọng
sản xuất công nghiệp và dịch vụ. Trong khi đó, người nông dân lại thiếu đất, thiếu
vốn, trình độ học van thấp, không có ngành nghề... Vì vậy, nhiều nơi người nông dân
4


phải rời bỏ quê hương đi kiếm sống, hiện tượng di dân tự do từ nông thôn "ồ ạt" ra
thành phố trong những năm qua chứng minh cho điều đó (Hiện nay, Hà Nội có khoảng
500 ngàn và thành phố Hồ Chí Minh có khoảng 1,5 triệu dân tự do, không có hộ
khẩu). Ra thành phố, nhiều người không kiếm được việc làm, một số phải đi làm thuê
bằng đủ các nghề, thậm chí có số trở thành tội phạm và sa vào tệ nạn xã hội. Chính
trong bối cảnh này ở người nông dân dễ nảy sinh tâm lý làm thuê, tâm lý chán
chường, bất mãn...
Đa số sinh viên xuất thân từ nông dân, tốt nghiệp các trường đại học, cao đẳng
không muốn về quê công tác. Họ "bám trụ" ở thành phố để kiếm tiền với bất cứ nghề
gì (dọn phòng, bưng bê ở nhà hàng, bốc vác ở kho bãi...). Ở đây, tâm lý "kiếm tiền",
đua đòi, thích cuộc sống xa hoa đã lộ ra khá rõ.
Do "áp lực" lớn của công nghiệp hóa và đô thị hóa. Ở vùng ven đô (điển hình là
thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Năng, Cần Thơ...), trong một thời gian rất ngắn
một bộ phận lớn nông dân "nghiễm nhiên" trở thành thị dân, mặc dù họ không được
chuẩn bị về mặt tâm lý, học vấn, văn hóa. Họ có một số tiền lớn (do được đền bù giải
tỏa, do bán đất...) nhưng không biết làm gì. Một số sử dụng tiền và kinh doanh, một số
dùng tiền mua sắm xe cộ, ăn chơi (cờ bạc, đánh đề, cá cược...). Ở đây, đã hình thành
lối sống "xài sang' "hợm hĩnh" và cuối cùng lại “trắng tay" rơi vào thất nghiệp.
Nông dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng rừng núi do hoàn cảnh sống khó khăn, ít
được hưởng phúc lợi xã hội, làm ăn thua lỗ, chán chường với cuộc sống và tìm đến
với các "trò" mê tín dị đoan, tín ngưỡng tôn giáo mới (trường hợp ở Tây Nguyên,
nhiều người bỏ tín ngưỡng, tôn giáo cũ gia nhập vào đạo Tin Lành là ví dụ điển hình,
đĩ nhiên là ở đây có sự xúi giục của một số kẻ xấu).
Trong điều kiện tác động mạnh của các quy luật kinh tế thị trường (cạnh tranh,

cung cầu, lợi nhuận, lợi nhuận tối đa), trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và giao
lưu văn hóa (nhiều hàng hóa chất lượng tết, giá rẻ, nhiều văn hóa phẩm phương Tây
tràn vào) thì một bộ phận dân cư trong đó có nông dân có tâm lý "sùng ngoại", có lối
sống thực dụng, sùng bái đồng tiền, coi nhẹ các giá trị văn hóa truyền thống cũng là
điều dễ hiểu.
Chương II
NHỮNG BIẾN ĐỔI TÂM LÝ CƠ BẢN
CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

5


Nền nông nghiệp với những điều kiện kinh tế - xã hội lạc hậu tồn tại quá lâu ở
nước ta đã hình thành trong tâm lý người nông dân những đặc điểm ổn định, bền vững
mang tính chất truyền thống, chứa đựng cả yếu tố tích cực lẫn tiêu cực. Từ sau Cách
mạng Tháng Tám thành công, tâm lý người nông dân đã có nhiều biến đổi. Tuy nhiên,
tâm lý xã hội, ý thức xã hội bao giờ cũng biến đổi chậm hơn so với sự tồn tại xã hội.
Để nhận thức đúng được tâm lý nông dân hôm nay, cần phải xem xét nó trong sự biến
đối ấy. Dưới đây là một số biến đổi tâm lý cơ bản của giai cấp nông dân Việt Nam
2.1. Những biến đổi về nhận thức
2.1.1. Bước đầu hình thành tư duy “sản xuât hàng hoá”
Trong điều kiện của một nền nông nghiệp lạc hậu và một xã hội khép kín những
người nông dân xưa chỉ chuyên tâm sản xuất ra những gì thoả mãn được những nhu
cầu thiết yếu cho cuộc sông của chính mình. Gia đình họ cũng thấy phải có một mảnh
ruộng trồng lúa, một mảnh vườn trồng rau để đảm bảo cái ăn hàng ngày; phải có một
bụi tre, vài cây lấy gỗ để cung cấp vật liệu tạo nên những đồ gia dụng; phải nuôi lấy
vài con gà, con vịt hoặc cao hơn là con lợn... dành cho khi giỗ, ngày tết. Nói chung
người ta thấy cần cái gì thì có gắng tạo nên cái nây. Nêp suy nghĩ về sản xuất chỉ quẩn
quanh trong vòng tự cung, tự cấp hoàn toàn dựa vào điều kiện tự nhiên và sức lực của
con người. Người nông dân chưa có thói quen suy nghĩ, tính toán để lao động đem lại

hiệu quả cao nhất.
Từ khi có chính sách khoán, người nông dân như được cởi trói, sức lao động
được giải phóng đã nâng cao được năng suất lúa. Đặc biệt, hàng loạt chú trương,
chính sách đối với nông thôn, nông nghiệp như chuyến dịch cơ cấu kinh tế, phát triển
ngành nghề, hỗ trợ về vốn, vật tư kỹ thuật, cải tiến cơ cờ hạ tầng, đầy mạnh việc áp
dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp đã làm cho nếp
suy nghĩ cũ dần thay đối. Người nông dân không chỉ chuyên canh lúa mà tuỳ theo
những đặc điếm riêng của từng địa phương đưa chăn nuôi gia súc, gia cẩm, nuôi trồng
thuỷ sản, trồng cây ăn quả... thành những nghề chính. Những nghề truyền thống bắt
đầu được phát triển ở nông thôn. Người nông dân đã có thu nhập do hàng hoá họ bán
được. Họ đã bắt đầu tham gia vào nền kinh tế hàng hoá, vào hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh phải tính tới vốn, tới lãi, tới giá cả, tới chất lượng sản phẩm, tới cạnh
tranh... và biết bao vấn để phức tạp nữa để duy trì và phát triển sản xuất. Như vậy,
trong hoạt động sản xuất, với những điều kiện khác nhau, tư duy của người nông dân
đang chuyển dần từ tư duy “tự cung, tự cấp” sang tư duy “sản xuất hàng hoá”, dù hàng
hoá đó là sản phẩm tiểu thủ công hay sản phấm nông nghiệp. Tư duy ấy được nảy sinh
6


trong điều kiện nhu cầu đã phát triển và tăng trưởng sản xuất. Đó là một biến đổi lớn
trong tâm lý, có ý nghĩa lớn đối với sự phát triển của nông thôn ta vốn bao năm trì trệ.
Mức độ biến đổi này tuỳ thuộc vào những điều kiện hiện hữu của từng vùng,
từng địa phương, tình hình ấy đã tạo nên sự khác biệt trong quá trinh phát triển của
các vùng, các địa phương về mọi mặt. Bởi vậy, tạo nên những điều kiện khách quan
cần thiết để thúc đẩy sự biến đối mạnh mẽ trong tâm lý, ý thức con người để từ đó có
tác động lại đối với hiện thực là nhiệm vụ quan trọng trong công cuộc đồi mới nông
thôn ngày nay. Đó chính là quan hệ biêu hiện giữa tâm lý, ý thức con người và tồn tại
khách quan.
2.1.2. Bước đâu phát tríên tư duy lý tính, khoa học
Trong điều kiện của nên kinh tế tiêu nông, tự cung tự cấp tồn tại lâu dài, lao

động sản xuất chú yếu dựa vào sức lực cùa con người, công cự thô sơ và những kinh
nghiệm cảm tính được tích luỹ và truyền thụ từ thế hệ này qua thế hệ khác một cách
trực tiếp thông qua hành động thực tiễn thì sự hoạt động của tư duy thiên về cảm tính,
cụ thê. Tình trạng thấp kém của nền dân trí mà chế độ cũ cố tình duy trì ờ các làng xã
đã kìm hãm sự phát triển trí tuệ của nông dân. Bởi thế, trong sản xuất cũng như trong
đời sông, người ta khen ngợi tính cần cù, tần tảo của người phụ nữ, coi trọng sức khoẻ
của những lực điền và đề cao kinh nghiệm của các bậc lão nông. Mọi công việc cứ
diễn ra theo những tập quán cố hữu khó thay đổi. Đã có một thời gian dài, mọi cố
gắng ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuât nông nghiệp gặp rất nhiều khó khăn,
không vượt qua nối sức cản của hàng rào tâm lý cũ, dù chỉ là những cải tiến nhỏ trong
thao tác.
Sản xuất hàng hoá luôn luôn đòi hỏi sự suy nghĩ, tính toán, giải đáp khúc triết
hàng loạt vấn đề như một luận chứng kinh tế: sản xuất ra sản phâm gì, khả năng tiêu
thụ, nguồn nguyên vật liệu, nguồn vốn đầu tư, quy trình công nghệ, kỹ thuật sản xuất,
tiếp thị, lợi nhuận thu được... Tất cả hợp thành một chuôi những khâu liên hoàn mà
bất cứ một khâu nào không được giải quyết, sản xuất sẽ ngưng trệ dẫn đến thất bại.
Đối với một bộ phận lớn nông dân sự tham gia tích cực của trí tuệ, của quá trình tư
duy đã trở thành một yêu cầu cùa sản xuất hiện nay. Sức khoẻ, tính cần cù, thói quan
lao động chân tay và kinh nghiệm xưa kia thường được coi là những phẩm chất hàng
đầu của người nông dân, nay không còn được xếp ở thứ bậc cao. Theo dõi trên những
phương tiện thông tin đại chúng những tin tức về tình hình sản xuất ở khu vực nông
thôn, các báo cáo về tình hĩnh kinh tế của các địa phương và qua quan sát có thể thấy:
7


- Dựa trên sự tính toán cặn kẽ, đa số nông dân đã biết căn cứ vào sự phân tích
tính chất đất để trồng trọt những loại cây thích họp, thay vào truyền thống độc canh
cây lúa. Nhiều người biết khai thác những điều kiện địa lý của địa phương mình, của
vùng mình như rừng, núi, sông, hồ để phát triển các loại cây trồng, vật nuôi, hình
thành ngành nghề. Trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ

sản, chăn nuôi gia cầm, gia súc đã dần dẩn trở thành nghề chính của nhiều gia đình,
nhiều làng.
- Trong sản xuất, ngay cả trong nông nghiệp, khoa học - kỹ thuật ngày càng
được coi trọng và vận dụng sâu rộng. Mọi người đều đã nói đên độ P.H của đất, biết
sử dụng một cách thích hợp phân lân, phân đạm, am hiếu quá trình sinh trưởng của
các loại sâu bệnh và diệt trừ bằng phương pháp khoa học theo sự hướng dẫn của các
cơ quan bảo vệ thực vật, nắm vững đặc điếm của các loại gia súc, gia cầm và những
phương pháp chăn nuôi thích hợp.
- Trong các gia đình đã có những công cụ cải tiến, các loại máy móc nhỏ. Người
sản xuất đã đọc các loại sách khoa học - kỹ thuật, luôn luôn theo dõi các chương trình
nông nghiệp của đài phát thanh, chương trình khuyến nông của đài truyền hình và các
chương trình phổ biến khoa học kỹ thuật có Bên quan đến sản xuất.
Coi trọng và bước đầu biết tính toán trong làm ăn, coi trọng khoa học - kỹ thuật,
biết áp dụng những tri thức khoa học - kỹ thuật trong sản xuất là biểu hiện của sự biến
đổi trong nếp tư duy: tư duy lý tinh - khoa học bước đầu có sự phát triển.
Chính vì thế mà nhiều nông phẩm hiện nay đã trở thành hàng hoá cung cấp cho
thị trường. Chỉ riêng vê sản xuất lúa gạo, dù diện trồng lúa có phần thu hẹp, nhân lực
bị chia sử nhưng năng suất vẫn tăng nhờ áp dụng những biện pháp kỹ thuật mới. Đât
nước từ chỗ phải nhập khẩu gạo đã trở thành một nước xuât khẩu gạo đứng thứ nhì,
thứ ba thế giới, bước tiến đó cũng có phần của sự đối mới tư duy ở người nông dân.
2.1.3. Sự thay đối định kiến giàu nghèo
Cùng với tính “an phận thủ thường”, tư tưởng “bình quân chủ nghĩa”, định kiến
sai lầm về giàu - nghèo là hiện tượng tâm lý xã hội đã tồn tại trên cơ sở nền kinh tế
nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự cấp của làng xã xưa.
Công cuộc đổi mới với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” đã khơi dậy ở nông dân ước vọng làm giàu sâu kín mà bấy nay bị
những định kiến xã hội cổ hủ và cơ chế quản lý cũ kiềm chế không cho bộc lộ và thực
hiện. Hoạt động lao động sản xuất của nông dân đã bắt đầu xuất phát từ động cơ làm
giàu vì họ đã nhận thây khả năng làm giàu.
8



Đường lối phát triển kinh tể hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết của nhà
nước chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đã kích thích được sự phát
triển của động cơ ấy.
Định kiến về giàu nghèo cũng đã thay đổi dần với quá trình nâng cao dân trí.
Khi người ta nhận thức rõ được vai trò quan trọng của trí tuệ, của khoa học - kỹ thuật
đối với sản xuất, người ta cũng thừa nhận, ngợi khen và khuyến khích những ai giàu
lên do biết suy nghĩ, tính toán làm ăn, biết ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất.
Vì thế, học tập kinh nghiệm làm giàu để vươn lên giàu đang trở thành phong trào ở
các địa phương cũng là một biểu hiện cụ thể của sự thay đổi định kiến này.
Trên thực tê, ở nông thôn ngày nay đã xuất hiện những người giàu, những làng
giàu do làm nông nghiệp và thủ công nhgiệp. Cùng với sự tăng trưởng kinh tế nói
chung, sự phân hoá giàu nghèo cũng đang diễn ra ở nông thôn.
Sự tăng trưởng kinh tế của người này, người khác, gia đình này, gia đình khác
tuy không đều nhưng trong nhận thức của người nông dân nói chung đã có sự biến đổi
cơ bản về quan niệm dối với hiện tương giàu nghèo. Từ đó, thay cho tư tưởng “bình
quân chủ nghĩa” trước đây, người ta coi hiện tượng giàu nghèo là do năng lực làmkinh
lé tạo ra là một lất yếu trong xã hội. Cũng từ đó thay vào thái độ đổ ky người giàu
trước kia, người ta bắt dầu khâm phục và học tập những người biết làm giàu, khuyến
khích nhau làm giàu, quyết chí làm giàu; Thậm chi có những người còn quan niệm
răng phải là người biết làm giàu mới là người tiên tiến cùa thời dại, người tiêu biểu
trong xã hội mới. Không khí thi dua làm giàu, học tập nhau cách làm giàu đã kích
thích tính năng động của mọi người trong sán xuất tạo ncn sự tăng trưởng kinh tế của
gia đình, của xã hội cùng như đà nêu ớ trên.
Nói tóm lại, tư duy kinh tế sản xuất hàng hoá xuất hiện thay cho “tư duy tự
cung tự cấp”; tư duy lý tính, khoa học bắt đầu nảy nở, thay cho tư duy “kinh nghiệm
chủ nghĩa” biếu hiện trong lao dộng sản xuất - hoạt động chủ yếu cùa nông dân - cùng
với quan niệm mới về giàu nghèo là những đặc điếm mới, nổi bật trong nhận thức của
người nông dân hiện nay.

Sự đổi mới tư duy ấy có tác động tích cực đối với quá trình phát triển của mồi
cá nhân người nông dân cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội ờ nông thôn và là
những điều kiện cần thiết để bước vào thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp hiện nay.
2.2. Những biến đổi trong tình cảm của người nông dân
2.2.1. Tình cảm của người nông dân trong quan hệ dòng họ
9


Mối quan hệ dòng họ được xác lập giữa những người cùng huyết thống, cùng tổ
tiên là mối quan hệ tự nhiên, tất nhiên của loài người. “Chim có tổ, người có tông”,
người Việt Nam trong tiềm thức của mình, luôn luôn coi trọng mối quan hệ này. Với
nông dân, họ hàng thường quần tụ với nhau từ đời nọ sang đời kia trong cùng một
làng. Do nhu cầu phải liên kết lại trong cuộc đấu tranh sinh tồn mỗi dòng họ tồn tại
trên thực tế như một nhóm chính thức, một cộng đồng chặt chẽ, có hoạt động chung,
có giao tiếp trực tiếp. Từ đó, tình cảm ở họ mang sắc thái riêng.
Sự phân biệt dòng họ ăn sâu trong tiềm thức của những người nông dân, chi
phôi cả quá trình tri giác xã hội, tình cảm và hành vi ứng xử trong những mối quan hệ
làng xã.
Nhìn nhận về một người nào đó trong làng, người ta thường nghĩ ngay đến
dòng họ. Mỗi con người không chỉ tự nhận mình và được nhìn nhận như một cá nhân
mà còn như đại diện cho cả dòng họ. Ngay và việc hôn nhân cũng không phải là việc
riêng của đôi trai gái mà là sự kết thân giữa hai dòng họ, là người của dòng họ này gia
nhập vào dòng họ kia. Trước khi kết hôn, người ta tìm hiểu, xét nét cặn kẽ không chỉ
về bản thân đôi trai gái mà cả đến cội nguồn, dòng giống theo quan niệm “lấy vợ xem
tông, lấy chồng kén giống”; hai họ phải “môn đăng hậu đối”.
Coi trọng dòng họ là một yếu tố tích cực trong truyền thống Việt Nam. Nhưng,
sự phân biệt dòng họ một cách cực đoan như thường thấy ở các làng xã lại là một hiện
tượng tâm lý dễ dẫn đến những hiện tượng xấu như đố kỵ, hiềm khích, bè phái... giữa
các dòng họ trong làng.

Tình cảm dòng họ nảy nở một cách tự nhiên giữa những người cùng huyết
thống, ở làng xã, tình cảm này rất sâu sắc. Nó là chỗ dựa về vật chất và tinh thần của
mỗi cá nhân. Tình cảm ấy có ý nghĩa tích cực trong quá trình hình thành nhân cách,
trở thành động cơ điều chỉnh hành vi của cá nhân, thôi thúc phấn đấu đạt tới những
điều tốt đẹp mang lại vinh dự, tự hào chung và ngăn cản những việc làm xấu, gây tai
tiếng cho dòng họ. Tình cảm dòng họ biều hiện cụ thể ở mối quan tâm tới nhau, tương
trợ nhau khi gặp khó khăn họan nạn. Giúp đỡ họ hàng như một điều tất yếu, thậm chí
“một người làm quan, cả họ được nhờ” cũng là lẽ thường tình.
Tình cảm dòng họ cũng làm nảy sinh sự ứng xử thiên lệch giữa những người
trong họ với “người ngoài”, “người dưng”. Bênh vực nhau, liên kêt với nhau dồ dồi
dáp với người ngoài chi xuất phát lừ tinh cảm huyết thống thuần tuý mà không dựa
tròn cư sứ lý trí tinh táo. Hiện tượng họ lớn lấn át họ bé trong những sinh hoạt cùa
cộng dồng cũng phố hiến trong các làng. Tinh cảm dòng họ có nghĩa tích cực đốii với
10


đời sống của mỗi người trong họ; nhưng khi trở thành cực đoan, nó lại có tác động
xấu tới bầu không khí bình lặng, thuận hoà trong cái cộng đồng làng bé nhỏ.
Sống, hoạt động và giao tiếp trong một phạm vi hẹp, khép kín trong luỹ tre
làng, trai gái đến tuổi trường thành có điều kiện gần nhau, hiểu nhau và kết hôn với
nhau. Trai gái cùng làng kết hôn với nhau là sự liên kết hai dòng họ. Mối quan hệ ấy
càng được mở rộng đời nọ qua đời kia đê rồi các họ đều có “dây mơ rễ má” liên quan
với nhau tạo nên tình giao hảo giữa các dòng họ trong làng, điều chinh hành vi trong
mối quan hệ “trong họ, ngoài làng”, đóng góp không nhỏ vào “tinh làng nghĩa xóm”.
Nền kinh tế nông nghiệp đã gắn chặt con người với ruộng đồng, với làng. Làng
là nơi người ta sinh ra, lớn lên sông quây quẩn cùng ông bà, cha mẹ, anh chị em, họ
hàng ruột thịt... Làng còn là mảnh đẩt thiêng liêng, nơi quê cha đất tổ, nơi có mồ mả tố
tiên, nơi cả dòng họ đời này qua đời khác sinh sống và góp phần xây dựng nên. Lòng
gắn bó với quê hương trước hết là ở mối quan hệ máu thịt ấy. Không có họ hàng ỡ quê
hương hoặc đã cắt đứt quan hệ với họ hàng nơi chôn rau cắt rốn thì tình cảm đối với

quê hương cũng sẽ phai nhạt.
2.2.2. Tình cảm người nông dân trong quan hệ làng xóm
Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và môi trường xã hội khép kín đã buộc mọi
người phải liên kết với nhau để cùng tôn tại. Họ hợp sức với nhau để khai phá ruộng
đồng, để chống thiên tai; cùng nhau xây dựng nên những công trình công cộng, tạo
nên những tài sản chung. Trong đời sống tinh thần, làng thờ chung một vị “Thành
hoàng”, cùng tuân theo những “lệ làng”, sống theo những phong tục tập quán chung,
cùng vui chung những ngày hội hè, đình đám. Tất cả tạo nên trong tâm lý tính cộng
đồng bền chặt, đảm bảo sự tồn tại của làng xã trong hoàn cảnh của nó. Tính cộng đồng
là một biểu hiện nổi bật trong tình cảm cùa người nông dân trong mối quan hệ với mọi
người trong làng. Nó mang nhiều yếu tố tích cực, nhưng đồng thời nó cũng khuôn mỗi
cá nhân vào cái “ta” làng cứng nhắc, tạo nên những bộ mặt tâm lý rập khuôn, xoá
nhoà cái “tôi” riêng biệt của mỗi người, hạn chế sự phát triển của cá nhân, ảnh hường
đến sự phát triển chung.
Trong môi trường khép kín và biệt lập, người làng xã hầu như chỉ xem mối
quan hệ trong làng là chính. Mối quan hệ “người làng” đã có cả một chiều sâu lịch sử
và còn tiếp nối lâu dài trong tương lai, đời đời con cháu. Mối quan hệ họ hàng cùng
những “dây mơ, dễ má” của nó trong làng càng thắt chặt quan hệ này, biến nó thành
những mối quan hệ tinh cảm. Người làng cư xử với nhau trên tỉnh trên nghĩa, không
dựa trên lý lẽ. Người cao tuổi bao giờ cũng được tôn kính. Cô nhi, qủa phụ, những
11


người gặp hoạn nạn được làng giúp đỡ. Nhà nào có việc hiếu, việc hỷ cả làng đến
thăm hỏi, giúp dập từ nhân lực đến vật chất. Khi gặp những chuyện bất trắc xảy ra,
người ta có thể trông cậy vào sự giúp đỡ đầu tiên cùa xóm giềng. Những “quỹ xã
thương”, “quỹ nghĩa thương”, các hội hiếu” “hội hỷ” có tác dụng thiết thực đối với
đời sống của dân làng. Vào các cuộc họp mặt hoặc gặp nhau trên đường làng, ngố
xóm cất cao lời chảo niềm nở là quy tắc ứng xử đầu tiên trong giao tiếp ở làng vi “lời
chào cao hom mâm cỗ”. Trọng tình làng nghĩa xóm là một nct đẹp trong tâm lý làng

xã cản giữ gin vả phát huy trong cuộc sống hiện nay.
2.2.3. Tình cảm của người nông dân trong mối quan hệ ngoài làng
Hoạt động của cộng đồng làng đã tạo nên mọi của cải vật chất và tinh thần riêng
của từng làng. Người nông dân thường phần biệt rõ rệt cái gì thuộc về cái “ta” làng, cái
gì thuộc về “nó” ngoài thiên hạ và có thái độ ứng xử khác biệt. Cái gì thuộc về “làng ta”
thường được đề cao và bảo vệ một cách thiên vị. Người làng dù thế nào cũng phải được
đối xử tốt hom người ngoài, lợi ích của làng phải được đặt lên trên lợi ích của bên
ngoài, danh dự của làng phải được xem trọng hom tất cả. Phường hội không mở rộng
ngoài phạm vi làng. Nghề nghiệp không được truyền cho người làng khác. Giữa các
làng thường có sự ganh đua về các mặt, làng nọ muốn hom làng kia, sinh ra đố kỵ, ghen
ghét lẫn nhau. Tính cục bộ trong tâm lý nông dân hạn chế tầm nhìn xa, thấy rộng, củng
cố thêm tính bảo thủ, hạn chế sự liên kết hoạt động với bên ngoài, hạn chế cả sự hoà
nhập cuộc sống của cộng động rộng lớn vào sự phát triển chung của xã hội.
Trong ý thức sâu xa của người nông dân, họ hàng - làng - nước là ba nhóm xã
hội chủ yếu mà ở đó mỗi con người có mối quan hệ ràng buộc. Họ hàng, làng xã đều
là những nhóm nhỏ nằm trong một nhóm lớn là nước. Trong ngôn ngữ đời thường,
người ta ghép làng với nước như “sống vì làng, sang vì nước”, “họ hàng khinh trước,
làng nước khinh sau”, “kêu vỡ làng nước”... không ai ghép làng với các cấp trung
gian. Mối quan hệ giữa những người trong nước cũng được thăng hoa thành mối quan
hệ huyết thống trong truyền thuyết “Âu Cơ đẻ một bọc trăm trứng” và người trong
nước gọi nhau là “đồng bào”, được sinh ra từ một nguồn, một gổc, một giống, một
nòi, cùng là “con Lạc, cháu Hồng”, cùng một ông tổ Hùng Vương.
Ý thức về đất nước, về giống nòi ẩn sâu trong tầm hồn mỗi con người trong đời
thường nhưng lại bừng sáng mỗi khi đất nước đứng trước những khó lchăn thử thách,
cần sự đồng tâm nhất trí. Khi ấy tính cộng đồng làng hạn hẹp lại được phát triển thành
tính cộng đồng dân tộc rộng lớn; tinh cảm huyết thống, tỉnh nghĩa xóm làng trở thành
tình yêu nước thương nòi sâu đậm.
12



2.3. Một vài nét tính cách nổi bật ở người nông dân
2.3.1. Những nét tính cách biểu hiện trong lao động sản xuât - tính cần cù
Với công cụ thô sơ, trình độ kỹ thuật thấp kém sản xuất nông nghiệp của nước
ta xưa kia vẫn phải dựa vào sức của con người là chính. Mọi người trong gia đình, từ
cụ già cho đến trẻ con, ai cũng có trách nhiệm đóng góp công sức của mình vào sản
xuất, vào sự ấm no của gia đình. Từ trong nhà ra ngoài đồng, từ tinh mơ cho đến tối
mịt, ngày lại ngày mọi người đều cần mẫn làm việc. Những người khoẻ gánh vác
những công việc nặng nhọc nhất, dầm mưa dãi năng ngoài đông. Các cụ già đảm
nhiệm những công việc trong nhà. Trẻ em cũng phải chăn trâu, cắt cỏ.
Đến ngày mùa, công việc nhà nông càng bộn bề và khẩn trương, đòi hoi phải
tập trung nhiều nỗ lực, mọi người lại phải thức khuya dậy sớm “canh tư chưa nằm,
canh năm đã dậy” để làm việc cho kịp thời vụ. Vào những khi mưa không thuận, gió
không hoà hay thiên tai ập xuống bất ngờ, công sức mọi người lại phải đố ra không
biết đâu mà kê. Cân cù lao động chính là một nét tính cách noi bật đã trở thành truyền
thống tốt đẹp của giai cấp nông dân Việt Nam.
Ngày nay, tính cách ấy cùng với tư duy được đổi mới và trình dộ kỹ thuật ngày
càng được nâng cao, đưa nền kinh tế sản xuất nông nghiệp nước ta bước vào thời kỳ
công nghiệp hoá với nhiều hứa hẹn trong tương lai.
Mặt khác, thời gian làm việc có thể rút ngắn hay kéo dài tuỳ ý. “Quy chế” kỷ
luật lao động không được đặt ra trong đơn vị sản xuất gia đình. Thực tế cho thấy, thói
quen ấy đã cản trở người nông dân hoà nhập vào cuộc sống làm việc và sinh hoạt
trong một tập thể có tổ chức, có kỷ luật nghiêm ngặt. Họ thường đem theo một nếp
sống tuỷ tiện, xuê xoa theo kiểu “gia đình chủ nghĩa”, có những hành vi tự do, thiểu
kỷ luật, gây trở ngại cho quá trình tiến hành những hoạt động chung.
2.3.2. Những nét tính cách biếu hiện trong sinh hoạt - tính đơn giản
Đơn giản cũng là một nét tính cách nổi bật của người nông dân xưa: đơn giản
trong suy nghĩ, đơn giản trong tình cảm và đơn giản trong sinh hoạt.
Sản xuất nông nghiệp trước đây chưa bao giờ thoả mãn được những nhu cầu tối
thiểu của người nông dân, mặc dù họ đã phải dành tất cả thời gian và sức lực cho nó.
Lương thực không đủ ăn. Một năm dù hết sức tiết kiệm cũng thiếu đói vài ba tháng.

Bởi vậy, đủ ăn, đủ mặc, có mái nhà che mưa che nắng là mục tiêu phấn đấu của cả đời
người. Giàu có là ước mơ xa vời của đa số. Tiêu dùng, tiện nghi, hưởng thụ là những
khái niệm xa lạ.
13


Khi đời sống vật chất còn quá thấp kém, cái ăn cái mặc còn đang là nỗi lo
thường trực của mọi người, thì những nhu cầu về tinh thần cũng không có điều kiện
phát triển.
Tất cả những nhu cầu về vật chất và tinh thần vốn hạn hẹp ấy cũng chi được
thoả mãn một cách đơn giản cả về nội dung lẫn hình thức. Đổ ăn là cơm độn ngô.
khoai, kèm với dưa, cà, mắm muối cho qua bữa. Thức đựng là bát đũa, mâm gồ, đũa
tre. Nơi ăn cũng không phải là mối quan tâm: mùa hè ngoài hiên, mùa đông trong bếp,
đang làm đồng thì vào cầu, vào quán hoặc núp dưới bóng cày. Mặc thì quần nâu, áo
vải cho phù hợp với đời sống lao động, kiểu cách không thay đôi. Nhà thì tranh tre
nứa lá, đồ đạc sơ sài...
Nói chung, “ăn lấy no, mặc lấy ấm”, “ăn chắc mặc bền” được coi là tiêu chuân
của sự ăn mặc của người nông dân xưa kia.
Trong hoàn cảnh bận rộn, nghèo nàn, vui chơi giải trí văn nghệ thể thao cũng
chỉ là tự cung tự cấp “cây nhà lá vườn” thường được tổ chức vào những ngày lễ tết.
Tuỳ từng địa phưong mà hát ví, hát đối, hát ghẹo, hát xoan, hát trống quân, hát quan
họ hay tuồng chèo, cải lương được trình diễn. Đấu vật, đánh đu, đánh cờ, chọi gà, chọi
chim là những trò vui chơi của nhiều địa phương. Tất cả mang tính chất dân gian, gần
gũi với cuộc sống nông thôn. Tuy đơn giản về cả nội dung lẫn hình thức nhưng cũng
mang lại niềm vui, mối giao hoà tình cảm trong cộng đồng, cũng giải toả được phần
nào những nỗi vất vả, cực nhọc của những ngày lao động.
Ngày nay, trong điều kiện tinh tế đã tăng trưởng, tính đơn giản trong sinh hoạt
đã bớt đi nhiều. Nhu cầu về cái ăn, cái mặc, cái ở đã phức tạp hơn, đa dạng hơn về cả
nội dung lẫn hình thức. Xe máy, tủ lạnh, máy thu hình thậm chí nhà tầng cũng không
còn là mơ ước quá cao xa. Tuy nhiên, trong sự thay đổi hoàn cảnh ấy, nhiều nhu cầu

phát triển không đúng mức, nhiều thị hiếu cũng phát triển theo hướng không lành
mạnh trở thành đua đòi, lố bịch, không phù hợp với lối sống ở nông thôn, của dân tộc,
cần phải uốn nắn.
2.3.3. Tính an phận
Trong điều kiện của nền sản xuất trước đây, cùng với tính chịu đựng, tính thích
nghi với hoàn cảnh là tính an phận. Người nông dân xưa chấp nhận cuộc sống nghèo
nàn lạc hậu như là số phận, định mệnh khôngthể thay đổi. Họ tự nhủ: “Cây khô thì lá
cũng khô, phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo”. Để đối phó với mất mùa, đói kém,
họ chỉ còn cách dành dụm chắt chiu, “nhịn ăn nhịn mặc” ‘tích cốc phòng cơ, tích y
phòng hàn". Họ bằng lòng với “cơm ba bát, áo ba manh”, “đối không xanh, rét không
14


chết”. Họ ngại thay đổi nếp sống, ngại những toan tính phức tạp theo lổi nghĩ “thà ăn
cơm cáy mà ngáy o o, còn hơn àn cơm thịt bò mà lo ngay ngáy”. Họ cùng sợ phải bôn
tâu phiêu lưu, vỉ “ta về ta tăm ao ta, dù trong đìi đục ao nhà vẫn hơn". Tính an phận đă
triệt tiêu tính tích cực của nông dân xưa trong hoạt dộng để vươn lên cuộc sống ấm no
hơn. Bởi thế, thời gian cứ trôi chảy, thế hệ sau tiếp nối thế hệ trước, đã là nông dân thì
vẫn cứ đói nghèo.
Từ ngày đổi mới cơ chế, nhờ sự quan tâm tới nông nghiệp của Đảng vả Nhà
nước với hàng loạt chính sách đúng đắn ra đời, kinh tế nông nghiệp đã có nhừng birớc
phát triên vược bậc. Người nông dân đã vượt qua đói nghèo và có điêu kiện tiên tới
giàu có. Trên thực tế, nhiều nông dân đã nắm bắt được cơ hội, phát huy những phẩn
chất tốt đẹp đâ cỏ, làm ăn theo phong cách mới và thực sự trờ nên giàu có. Tính an
phận đã nhường bước cho khát vọng làm giàu.

CHƯƠNG III
VẬN DỤNG NHỮNG BIẾN ĐỔI TÂM LÝ CỦA GIAI CẤP NÔNG DÂN VIỆT
NAM TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN
Trong công tác tuyên truyền đối với nông dân, nắm vững những đặc điểm tâm

lý của họ là một điều rất cần thiết. Nó vừa có ý nghĩa như là điều kiện để nâng cao lập
trường tư tưởng của người làm công tác tuyên truyền, vừa có ý nghĩa như một nguyên
tắc thuộc về chuyên môn nghiệp vụ của tuyên truyền, nhằm nâng cao hiệu qủa của
công tác này.
3.1. Về tư tưởng
Nắm vững những đặc điểm tâm lý của giai cấp nông dân, người làm công tác
tuyên truyền càng thêm yêu quý họ vì những đặc điểm tâm lý tích cực, hoan nghênh
họ vì những biển đổi phù hợp với bước phát triển của xã hội, đồng thời cũng thông
cảm với họ về những đặc điểm tâm lý tiêu cực nảy sinh một cách tất yếu từ những
điều kiện kinh tế - xã hội tồn tại quá lâu ở nông thôn nước ta.
15


Cũng từ những nhận thức về cơ sở hình thành của những đặc điểm tâm lý của
nông dân, những người làm công tác tuyên truyền càng thêm tin tưởng vào tính đúng
đắn và bức thiết của công cuộc phát triển nông thôn theo hình - pháp nghiệp hoá, hiện
đại hoá, của các chủ trương chuyển đổi cơ cấu kinh tê K thôn, đẩy mạnh việc áp dụng
khoa học - kỹ thuật vào nông nghiệp... vì tất cả không chỉ làm phát triển kinh tế nông
nghiệp, nâng cao đời sống vật chất của người nông dân, mà còn làm phát triển tâm lý
của họ. Niềm tin ấy nâng cao ý thức phục vụ nông nghiệp, phục vụ giai cấp nông dân
thông qua công tác tuyên truyền của mình.
Nắm vững những đặc điểm tâm lý của nông dân, người làm công tác tuyên
truyền nhìn ra được những ảnh hưởng của chúng đối với mọi con người Việt Nam,
biếu hiện ở cách nghĩ, cách làm trong mọi lĩnh vực hoạt động cũng như cách ứng xử
trong mọi mối quan hệ. Từ đó, vấn đề được đặt ra đối với công tác tuyên truyền là
phải góp phần phát huy những yếu tố tích cực của tâm lý nông dân đồng thời khắc
phục những hạn chế của nó trong đời sống hiện nay.
3.2. Về chuyên môn nghiệp vụ
Nắm vững những đặc điểm tâm lý của nông dân, khi tuyên ừuyền cho nông dân
chính là thực hiện nguyên tắc “phù hợp với đối tượng” - một nguyên tắc cơ bản của

quá trình giáo dục, quá trình dạy học cũng như quá trình tuyên truyền. Một mặt, nó
hướng sự lựa chọn nội dung tuyên truyền vào những vấn đề có liên quan chặt chẽ đến
lợi ích thiết thân của người nông dân, đáp ứng được những nhu cầu bức thiết nhất của
họ về thông tin. Có như vậy mới thu hút được sự quan tâm chú ý của họ trong quá
trình tuyên truyền. Mặt khác, nội dung tuyên truyền cũng được lựa chọn sao cho có
tác dụng cổ vũ, phát huy những đặc điểm tâm lý tích cực phù hợp với sự phát triển của
xã hội và phê phán, hạn chế những đặc điểm tâm lý tiêu cực, lạc hậu còn tồn tại.
Việc nắm vững những đặc điểm tâm lý của nông dân cho phép người làm công
tác tuyên truyên lựa chọn được những phương pháp trình bày, ngôn ngữ diễn đạt phù
hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tư duy và ngôn ngữ của họ, qua đó, nâng cao
được hiệu quả tuyên truyền.
Ngoài ra nắm bắt được sở thích, hứng thú của nông dân, người làm công tác
tuyên truyền cũng sáng tạo được nhiều hình tức tuyên truyền phong phú, sinh động
hấp dẫn, chuyển tải được đầy đủ những thông tin cần thiết một cách nhẹ nhàng nhưng
chắc chắn, đem lại hiệu quả cao trong công tác tuyên truyền.

16


KẾT LUẬN
Tâm lý người dân Việt Nam nói chung, người nông dân Việt Nam nói riêng
mang nhiều nét đẹp, lối sống đó ổn định đại diện cho bản sắc dân tộc trong các thang
giá trị, nhất là các thang giá trị về đạo đức và lối sống Việt Nam qua nhiều thế hệ.
Nhưng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã bộc lộ mặt trái của nó, kìm
hãm sự phát triển, vươn lên của ngành nông nghiệp Việt Nam. Trong xu thế hòa nhập
hiện nay, nông dân Việt Nam cần giữ gìn các bản sắc, nét đẹp truyền thống, “hòa nhập
nhưng không hòa tan”, phát huy các điểm mạnh, hạn chế các điểm yếu trong tâm lý để
hướng đến một nền nông nghiệp hiện đại.

17



18



×