Tải bản đầy đủ (.pdf) (53 trang)

Luận văn tốt nghiệp “Những bất cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt nam trong điều kiện hiện nay”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (698.33 KB, 53 trang )

“Những bất cập và giải pháp
hoàn thiện chế độ phân cấp quản
lý NSNN ở Việt nam trong điều
kiện hiện nay”

3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
4
CHƯƠNG 1.

HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
I. Bản chất và vai trò của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường

5

1.Bản chất của ngân sách nhà nước trong nền kinh tế thị trường 5
2. Vai trò của ngân sách nhà nước trong nề kinh tế thị trường 6
2.1 Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường 6
2.2 Vai trò của ngân sách nhà nước trong cơ chế thị trường 8
II. hệ thống ngân sách nhà nước 10
CHƯƠNG

2
.
PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ
NƯỚC Ở VIỆT NAM
I.Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13
1. Sự cần thiết và tác dụng của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 13


2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 14
3 .Nội dung phân cấp quản lý ngân sách nhà nước 16
II. Thực trạng phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Việt nam 29
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ PHÂN CẤP
QUẢN
43
LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KẾT LUẬN 55


4
MỞ ĐẦU
Với mục tiêu “quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, xây dựng
Ngân sách Nhà nước (NSNN) lành mạnh, củng cố kỷ luật tài chính, sử
dụng tiết kiệm, có hiệu quả tiền của của Nhà nước; tăng tích luỹ để thực
hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN, đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân;
đảm bảo quốc phòng, an ninh, đối ngoại”, luật NSNN-một đạo luật quan
trọng trong hệ thống tài chính- đã được Quốc hội khoá IX, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 20-3-1996; sau đó được sửa đổi, bổ sung bởi luật số
06/1998/QH 10 ngày 20-5-1998, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng trong
công tác quản lý, điều hành NSNN ở nước ta, tạo cơ sở pháp lý cao nhất
cho hoạt động của NSNN.
Sau bốn năm thự
c hiện luật NSNN, thực tiễn đã khẳng định vai trò của
luật trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội. Hoạt động NSNN dần
được quan tâm không chỉ từ phía các cơ quan quản lý Nhà nước mà còn từ
phía người dân và các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cũng dựa trên cơ sở
phản hồi từ phía người dân và doanh nghiệp, luật đã bộc lộ nhiều bất cập
không chỉ gi

ữa văn bản và thực tế áp dụng mà cả những bất cập trong công
tác chỉ đạo điều hành. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những bất
cập trên là việc quyết định phân chia nguồn thu, nhiệm vụ chi tiêu cho các
cấp ngân sách và phân giao nhiệm vụ, quyền hạn giữa các cơ quan trong bộ
máy quản lý Nhà nước vẫn còn tồn tại nhiều nhược điểm cần xem xét lại.
Để góp phần ti
ếp tục hoàn chỉnh hơn nữa luật NSNN nói chung và chế
độ phân cấp quản lý nhân sách nói riêng, tác giả chọn đề tài: “Những bất
cập và giải pháp hoàn thiện chế độ phân cấp quản lý NSNN ở Việt nam
trong điều kiện hiện nay”. Từ đó muốn thông qua thực tiễn để làm sáng tỏ
những cái được và chưa được của chế độ phân cấp quản lý cả về phương
diệ
n pháp lý (các văn bản liên quan đến NSNN) và công tác chỉ đạo điều
hành, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện luật, đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế, xã hội trong thời kỳ đổi mới, phát huy tối đa hiệu

5
quả của NSNN trong việc điều chỉnh nền kinh tế theo những mục tiêu đã
đặt ra.
CHƯƠNG I: HỆ THỐNG NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ PHÂN CẤP
QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC.
I. Bản chất và vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường.
1. Bản chất của NSNN.
Trong tiến trình lịch sử, NSNN với tư cách là một phạm trù kinh tế đã
ra đời và tồn tại từ lâu. Là một công cụ Tài chính quan trọ
ng của Nhà
nước, NSNN xuất hiện dựa trên cơ sở hai tiền đề khách quan là tiền đề Nhà
nước và tiền đề kinh tế hàng hoá- tiền tệ.
Trong lịch sử loài người, Nhà nước xuất hiện là kết quả của cuộc đấu
tranh giai cấp trong xã hội. Nhà nước ra đời tất yếu kéo theo nhu cầu tập

trung nguồn lực tài chính vào trong tay Nhà nước để làm phương tiện vật
chất trang trải cho các chi phí nuôi sống bộ máy Nhà n
ước và thực hiện các
chức năng kinh tế, xã hội của Nhà nước. Bằng quyền lực của mình, Nhà
nước tham gia vào quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội. Trong điều
kiện kinh tế hàng hoá- tiền tệ, các hình thức tiền tệ trong phân phối như:
thuế bằng tiền, vay nợ…được Nhà nước sử dụng để tạo lập quỹ tền tệ riêng
có: NSNN. Như vậy, NSNN là ngân sách của Nhà nước, hay Nhà n
ước là
chủ thể của ngân sách đó.
NSNN là khái niệm quen thuộc theo nghĩa rộng mà bất kỳ người dân
nào cũng biết được, song lại có rất nhiều định nghĩa khác nhau về NSNN:
Theo quan điểm của Nga: NSNN là bảng thống kê các khoản thu và
chi bằng tiền của Nhà nước trong một giai đoạn nhất định.
Một cách hiểu tương tự, người Pháp cho rằng: NSNN là toàn bộ tài
liệu kế toán mô tả và trình bày các khoản thu và kinh phí c
ủa Nhà nước
trong một năm.
Có thể thấy rằng các quan điểm trên đều cho thấy biểu hiện bên ngoài
của NSNN và mối quan hệ mật thiết giữa Nhà nước và NSNN.

6
Trong hệ thống tài chính, NSNN là khâu chủ đạo, đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc duy trì sự tồn tại của bộ máy quyền lực Nhà nước.
Tại Việt nam, định nghĩa về NSNN được nêu rõ trong luật NSNN
(20/3/1996): NSNN là toàn bộ các khoản thu và chi của Nhà nước trong
dự toán đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được
thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hi
ện các chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước.(Điều1- luật NSNN).

Trong thực tiễn, hoạt động NSNN là hoạt động thu (tạo lập) và chi tiêu
(sử dụng) quỹ tiền tệ của Nhà nước, làm cho nguồn tài chính vận động giữa
một bên là các chủ thể kinh tế, xã hội trong quá trình phân phối tổng sản
phẩm quốc dân dưới hình thức giá trị và một bên là Nhà nước. Đó chính là
bản chất kinh t
ế của NSNN. Đứng sau các hoạt động thu, chi là mối quan
hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể kinh tế, xã hội. Nói cách khác,
NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước với các chủ thể trong
phân phối tổng sản phẩm xã hội, thông qua việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước, chuyển dịch một bộ phận thu nhập bằng tiền của
các ch
ủ thể đó thành thu nhập của Nhà nước và Nhà nước chuyển dịch thu
nhập đó đến các chủ thể được thực hiện để thực hiện các chức năng, nhiệm
vụ của Nhà nước.
2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong nền kinh tế thị trường.
2.1. Đặc điểm của cơ chế kinh tế thị trường.
Mọi hệ thống kinh tế đều được tổ ch
ức theo cách này hay cách khác để
huy động tối đa các nguồn lực của xã hội và sử dụng có hiệu quả nguồn lực
đó nhằm sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ thoả mãn nhu cầu của xã hiội.
Việc sản xuất ra những loại hàng hoá gì, được tiến hành theo phương pháp
nào là tốt nhất, việc phân phối hàng hoá được sản xuất ra đáp ứng tốt cho
nhu cầu của xã hội, đó là vấn đề
cơ bản của tổ chức kinh tế, xã hội. Lực
lượng nào quyết định những vấn đề cơ bản đó? Trong nền kinh tế mà
người ta gọi là Kinh tế chỉ huy, các vấn đề cơ bản đó được cơ quan của

7
Nhà nước quyết định. Còn trong nền kinh tế mà vấn đề cơ bản của nó do
thị trường quyết định được gọi là Kinh tế thị trường.

Trong nền kinh tế hàng hoá có một loạt những quy luật kinh tế vốn có
của nó hoạt động như: quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh
tranh, quy luật lưu thông tiền tệ…và lợi nhuận là động lực cơ bản c
ủa sự
vân động đó. Các quy luật biểu hiện sự tác động của mình thông qua thị
trường. Nhờ sự vân động của hệ thống giá cả thị trường mà diễn ra sự thích
ứng tự phát giữa khối lượng và cơ cấu của sản xuất với khối lượng và cơ
cấu nhu cầu của xã hội.
Có thể hiểu cơ chế thị trường là cơ chế
tự điều tiết kinh tế hàng hoá do
sự tác động của các quy luật kinh tế, cơ chế đó giải quyết ba vấn đề cơ bản
của tổ chức kinh tế là sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ chế thi
trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung cầu và giả cả thị trường. Thực
tế khó đánh giá đầy đủ ưu điểm và khuyết t
ật của cơ chế thị trường. Nhìn
chung nó có các ưu điểm cơ bản sau:
* Cơ chế thị trường kích thích hoạt động của các chủ thể kinh tế và
tạo đIều kiện thuận lợi cho sự hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền
kinh tế phát triển năng động, phát huy được các nguồn lực của xã hội vào
phát triển kinh tế.
* Cạnh tranh buộ
c nhà sản xuất phải hao phí lao động cá biệt đến
mức thấp nhất có thể được bằng cách áp dụng kỹ thuật và công nghệ mới
vào sản xuất, nhờ đó mà thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao
năng suất lao động, nâng cao chất lượng và số lượng hàng hoá.
* Sự tác động của cơ chế thị trường đưa đến sự thích ứng tự phát
giữa khố
i lượng và cơ câú sản xuất với khối lượng và cơ cấu nhu cầu xã
hội, nhờ đó có thể thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và sản xuất về
hàng ngàn, hàng vạn loại sản phẩm khác nhau.

* Trong cơ chế thị trường tồn tại sự đa dạng của các thị trường. Bên
cạnh thị trường hàng hoá đã xuất hiện từ lâu là các thị trường về vốn, lao

8
động… phục vụ cho sản xuất kết hợp với hệ thống giá cả linh hoạt vận
động theo quan hệ cung cầu của hàng hoá, dịch vụ.
Lịch sử phát triển của sản xuất xã hội dã chứng minh rằng cơ chế thị
trường là cơ chế điều tiết nền kinh tế hàng hoá đạt hiệu quả kinh tế cao.
Song, cơ chế thị trường không phải là hi
ện thân của sự hoàn hảo mà chứa
đựng trong nó nhều trục trặc.
Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp lá tối đa hoá lợi nhuận.
Ngành nào, lĩnh vực nào có khả năng đem lại lợi nhuận cao thì các doanh
nghiệp sẽ đổ xô vào sản xuất mặt hàng, lĩnh vực đó. Từ đó dẫn đến sự phát
triển mất cân đối giữa các khu vực,các ngành nghề trong nề
n kinh tế quốc
dân.
Hơn nữa, vì lợi nhuận, các doanh nghiệp sẵn sàng lạm dụng tài
nguyên, gây ô nhiễm môi trường sống của con người mà xã hội phải gánh
chịu, do đó, hiệu quả kinh tế, xã hội không được đảm bảo.
Có những mục tiêu xã hội mà dù cơ chế thị trường hoạt động tốt
cũng không thể đạt được. Sự tác động của cơ chế thị trường d
ẫn đến sự
phân hoá giàu, nghèo, tác động xấu đến đạo đức và tình người.
Với một loạt các khuyết tật trên, ngày nay, trên thực tế không tồn tại cơ
chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của Nhà nước, khi đó
nền kinh tế gọi là Nền kinh tế hỗn hợp.
2.2. Vai trò của Ngân sách Nhà nước trong cơ chế thị trường.
Tất cả những khiếm khuyết củ
a cơ chế thị trường đòi hỏi có sự can

thiệp của Nhà nước là tất yếu, là một nhu cầu khách quan nhằm khôi phục
lai những cân đối và mở đường cho sức sản xuất phát triển.
Trong cơ chế điều chỉnh của Nhà nước, bên trong kết cấu của nó, ngoài
việc tổ chức một cách khoa học, thì những công cụ tài chính, tiền tệ, kế
hoạch, luật pháp được coi là nhữ
ng công cụ điều chỉnh cơ bản và quan
trọng.

9
NSNN là một trong những công cụ hữu hiệu để Nhà nước đIều chỉnh vĩ
mô nền kinh tế, xã hội. Mục tiêu của NSNN không phải để Nhà nước đạt
được lợi nhuận như các doanh nghiệp và cũng không phải để bảo vệ vị trí
của mình trước các đối thủ cạnh tranh trên thị trường. NSNN ngoài việc
duy trì sự tồn tại của bộ máy Nhà nước còn phải xây dựng cơ
sở hạ tầng
kinh tế, xã hội để tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt
động.
NSNN được sử dụng như là công cụ tác động vào cơ cấu kinh tế nhằm
đảm bảo cân đối hợp lý của cơ cấu kinh tế và sự ổn định của chu kỳ kinh
doanh. Trước xu thế phát triển mất cân đối của các ngành, lĩnh vực trong
nền kinh tế, thông qua quỹ ngân sách, Chính phủ có th
ể áp dụng các chính
sách ưu đãi, đầu tư vào các lĩnh vực mà tư nhân không muốn đầu tư vì hiệu
quả đầu tư thấp; hoặc qua các chính sách thuế bằng việc đánh thuế vào
những hàng hoá, dịch vụ của tư nhân có khả năng thao túng trên thị trường;
đồng thời, áp dụng mức thuế suất ưu đãi đối với những hàng hoá mà Chính
phủ khuyến dụng. Nhờ đó mà có thể
đảm bảo sự cân đối, công bằng trong
nền kinh tế.
Giá cả trên thị trường biến động dựa vào quy luật cung cầu của hàng

hoá, dịch vụ. NSNN cũng được sử dụng như là công cụ đảm bảo sự ổn
định giá cả của thị trường. Chẳng hạn, khi Chính phủ muốn bảo hộ cho
những người có thu nhập thấp, Chính phủ sẽ đặt giá trần là mức giá cao
nhất mà người bán được phép đưa ra và mức này thường là thấp hơn mức
giá cân bằng trên thị trường, khi đó tất yếu sẽ dẫn đến sự thiếu hụt trên thị
trường. để duy trì hiệu lực của giá trần thì Chính phủ lại tiếp tục can thiệp
bằng cách cung phần thiếu của hàng hoá, lượng hàng hoá này được lấy từ
quỹ dự trữ của Nhà nước thuộc NSNN, tức là trong kho
ản chi ngân sách
phải có khoản dự phòng này. Trái lại khi Chính phủ muốn bảo hộ cho
người sản xuất, muốn hàng hoà của một ngành nào đó được khuyến khích
thì sẽ đặt giá sàn là mức giá thầp nhất mà người bán được phép đưa ra và
mức này thường lớn hơn giá cân bằng trên thị trường. Điều này sẽ dẫn đến

10
sự dư thừa hàng hoá trên thị trường và khi đó là sự can thiệp của Chính phủ
bằng cách mua hết lượng hàng thừa. Khoản tiền sử dụng để thanh toán cho
người bán cũng là từ NSNN.
Một vai trò được coi là không kém phần quan trọng của NSNN là giải
quyết các vấn đề xã hội: bất công, ô nhiễm môi trường…Chẳng hạn trước
vấn đề công bằng xã hội. Chống lại sự bất công là cầ
n thiết cho một xã hội
văn minh và ổn định, Chính phủ thường sử dụng các biện pháp tác động tới
thu nhập để thiết lập lai sự công bằng xã hội. Điều chỉnh thu nhập của các
nhóm dân cư khác nhau bằng cách trợ cấp thu nhập cho những người có
thu nhập thấp hoặc hoàn toàn không có thu nhập. Một cách khác, Chính
phủ có thể sử dụng biện pháp tác động gián tiếp đến thu nhập bằng cách
t
ạo khả năng tạo thu nhập cao hơn dựa vào năng lực của bản thân. theo
đánh giá thì đây là biện pháp tích cực nhất, đồng thời làm tăng thu nhập

quốc dân; nói cách khác, nó làm cho một số người dân giàu lên mà không
ai nghèo đi; hoặc qua chính sách thuế thu nhập, sử dụng mức thuế suất cao
đối với người có thu nhập cao và ngược lại.
Như vậy, vai trò của NSNN là rất lớn. Vấn đề đặt ra là việc tổ ch
ức quy
mô, cơ cấu và quản lý NSNN như thế nào để phát huy được vai trò của nó.
II. Hệ thống ngân sách nhà nước
Luật NSNN ra đời là sự phản ánh pháp lý cơ chế quản lý NSNN ở
nước ta, thể chế hoá những chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng từ Đại
hội VI, VII, VIII, là công cụ pháp lý để quản lý NSNN có hiệu lực và hiệu
quả, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật tài chính. H
ệ thống NSNN và
phân cấp quản lý NSNN là nội dung cốt lõi trong mối quan hệ giữa ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương đã được phản ánh rõ ràng trong
luật dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước ta: tăng cường tính tập
trung, thống nhất, tính liên tục của điều hành vĩ mô, lãnh đạo tập trung đi
đôi với việc mở rộng trách nhiệm và quyền hạn, phát huy tính chủ động,
sáng tạo của địa ph
ương đối với những vấn đề mà các địa phương có khả
năng xử lý có hiệu quả.

11
Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan
hệ hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp
ngân sách.
Tại nước ta, tổ chức hệ thống NSNN gắn bó chặt chẽ với việc tổ chức
bộ máy Nhà nước và vai trò, vị trí của bộ máy đó trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội của đất nước theo Hiến pháp. Mỗi cấ
p chính quyền có một
cấp ngân sách riêng cung cấp phương tiện vật chất cho cấp chính quyền đó

thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình trên vùng lãnh thổ. Việc hình
thành hệ thống chính quyền Nhà nước các cấp là một tất yếu khách quan
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trên mọi vùng lãnh thổ
của đất nước. Chính sự ra đời của hệ thống chính quyề
n Nhà nước nhiều
cấp đó là tiền đề cần thiết để tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước nhiều
cấp.
Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nước,
phù hợp với mô hình tổ chức hệ thống chính quyền Nhà nước ta hiện nay,
hệ thống ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách
địa phương:
* Ngân sách trung ương phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo ngành và giữ vai
trò chủ đạo trong hệ
thống ngân sách nhà nước. Nó bắt nguồn từ vị trí, vai
trò của chính quyền trung ương được Hiến pháp quy định đối với việc thực
hiện các nhiệm vụ kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Ngân sách trung
ương cấp phát kinh phí cho yêu cầu thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
Nhà nước trung ương (sự nghiệp văn hoá, sự nghiệp an ninh quốc phòng,
trật tự an toàn xã hội, đầu tư phát tri
ển…). Nó còn là trung tâm điều hoà
hoạt động ngân sách của địa phương. Trên thực tế, ngân sách trung ương là
ngân sách của cả nước, tập trung đại bộ phận nguồn tài chính quốc gia và
đảm bảo các nhiệm vụ chi tiêu có tính chất huyết mạch của cả nước. ngân
sách trung ương bao gồm các đơn vị dự toán của cấp này, mỗi bộ, mỗi cơ
quan trung ương là một đơn vị dự toán của ngân sách trung ương.Ngân
sách trung
ương bao gồm:

12
- Ngân sách cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương (gọi

chung là ngân sách cấp tỉnh).
- Ngân sách cấp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi
chung là ngân sách cấp huyện).
- Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp
xã).
* Ngân sách địa phương là tên chung để chỉ các cấp ngân sách của các cấp
chính quyền bên dưới phù hợp với địa giới hành chính các cấp. Ngoài ngân
sách xã chưa có đơn vị dự toán, các c
ấp ngân sách khác đều bao gồm một
số đơn vị dự toán của cấp ấy hợp thành.
+ Ngân sách cấp tỉnh phản ánh nhiệm vụ thu, chi theo lãnh thổ, đảm
bảo thực hiện các nhiệm vụ tổ chức quản lý toàn diện kinh tế, xã hội của
chính quyền cấp tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương. Chính quyền cấp
tỉnh cần chủ động, sáng tạo trong việc động viên khai thác các thế m
ạnh
trên địa bàn tỉnh để tăng nguồn thu, đảm bảo chi và thực hiện cân đối ngân
sách cấp mình.
+ Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn là đơn vị hành chính cơ sở có
tầm quan trọng đặc biệt và cũng có đặc thù riêng: nguồn thu được khai thác
trực tiếp trên địa bàn và nhiệm vụ chi cũng được bố tríđể phục vụ cho mục
đích trực tiếp của cộng đồng dân cư trong xã mà không thông qua một
khâu trung gian nào. Ngân sách xã là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống
NSNN, đảm bảo điều kiện tài chính để chính quyền xã chủ động khai thác
các thế mạnh về đất đai, phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn
mới, thực hiện các chính sách xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự trên địa bàn.
Trong hệ thống ngân sách Nhà nước ta, ngân sách trung ương chi phối
phần lớn các khoản thu và chi quan trọng, còn ngân sách địa phương chỉ
được giao nhiệm vụ đảm nhậ
n các khoản thu và chi có tính chất địa
phương. Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc

sau:

13
Ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương
được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể.Thực hiện việc bổ sung
từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới để đảm bảo công bằng, phát
triển cân đối giữa các vùng, các địa phương. Số bổ sung này là khoản thu
của ngân sách cấp dưới.Trường hợp cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên uỷ
quyền cho cơ quan quản lý Nhà nước cấp d
ưới thực hiện nhiệm vị chi
thuộc chức năng của mình, thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên
cho ngân sách cấp dưới để thực hiện nhiệm vụ đó.Ngoài việc bổ sung
nguồn thu và uỷ quyền thực hiện nhiệm vụ chi, không được dùng ngân
sách cấp này để chi cho nhiệm vụ của ngân sách cấp khác trừ trường hợp
đặc biệt theo quy định của Chính phủ.

14
CHƯƠNG II: PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở VIỆT
NAM
I. Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
1. Sự cần thiết và tác dụng:
Chế độ phân cấp và quản lý ngân sách ở nước ta ra đời từ năm 1967, tới
nay đã qua nhiều lần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với từng giai đoạn lịch
sử nhất định nhằm giải quyết nhiều vấn đề phát sinh trong quan hệ giữa
ngân sách trung ương và chính quyền các cấp trong quản lý NSNN.
NSNN được phân cấp quản lý gi
ữa Chính phủ và các cấp chính quyền
địa phương là tất yếu khách quan khi tổ chức hệ thống NSNN gồm nhiều
cấp. Điều đó không chỉ bắt nguồn từ cơ chế kinh tế mà còn từ cơ chế phân

cấp quản lý về hành chính. Mỗi cấp chính quyền đều có nhiệm vụ cần đảm
bảo bằng những nguồn tài chính nhất định mà các nhiệm vụ đó mỗi c
ấp đề
xuất và bố chí chi tiêu sẽ hiệu quả hơn là có sự áp đặt từ trên xuống. Mặt
khác, xét về yếu tố lịch sử và thực tế hiện nay, trong khi Đảng và Nhà nước
ta đang chống tư tưởng địa phương, cục bộ … vẫn cần có chính sách và
biện pháp nhằm khuyến khích chính quyền địa phương phát huy tính độc
lập, tự chủ, tính chủ động, sáng tạo của địa ph
ương mình trong quá trình
phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Có một số khoản thu như: tiền cho
thuê mặt đất, mặt nước đối với doanh nghiệp, tiền cho thuê và tiền bán nhà
thuộc sở hữu Nhà nước, lệ phí trước bạ, thuế môn bài,…giao cho địa
phương quản lý sẽ hiệu quả hơn.
Phân cấp quản lý NSNN là cách tốt nhất để gắn các hoạt động của
NSNN với cac hoạt động kinh tế, xã hộ
i một cách cụ thể và thực sự nhằm
tập trung đấy đủ và kịp thời, đúng chính sách, chế độ các nguồn tài chính
quốc gia và phân phối sử dụng chúng công bằng, hợp lý, tiết kiệm và có
hiệu quả cao, phục vụ các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước. Phân cấp quản lý NSNN đúng đắn và hợp lý không chỉ đảm bảo
phương tiện tài chính cho việc duy trì và phát triển ho
ạt động của các cấp

15
chính quyền ngân sách từ trung ương đến điah phương mà còn tạo điều
kiện phát huy được các lợi thế nhiều mặt của từng vùng, từng địa phương
trong cả nước. Nó cho phép quản lý và kế hoạch hoá NSNN được tốt hơn,
điều chỉnh mối quan hệ giữa các cấp chính quyền cũng như quan hệ giữa
các cấp ngân sách được tốt hơn để phát huy vai trò là công cụ điề
u chỉnh

vĩ mô của NSNN. Đồng thời, phân cấp quản lý NSNN còn có tác động
thúc đẩy phân cấp quản lý kinh tế, xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
Tóm lại phân cấp ngân sách đúng đắn và hợp lý, tức là việc giải quyết
mối quan hệ giữa chính quyền Nhà nước trung ương và các cấp chính
quyền địa phương trong việc xử lý các vấn đề hoạt động và điều hành
NSNN đúng đắn và hợp lý sẽ là một gi
ải pháp quan trọng trong quản lý
NSNN.
2. Khái niệm và các nguyên tắc phân cấp quản lý NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN là việc giải quyết mối quan hệ giữa các cấp
chính quyền Nhà nước về vấn đề liên quan đến việc quản lý và điều hành
NSNN.
Để chế độ phân cấp quản lý mang lại kết quả tốt cần phải tuân thủ các
nguyên tắc sau đây:
Một là: phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế
, xã hội của đất nước. Phân
cấp quản lý kinh tế, xã hội là tiền đề, là điều kiện để thực hiện phân cấp
quản lý NSNN. Quán triệt nguyên tắc này tạo cơ sở cho việc giải quyết
mối quan hệ vật chất giữa các cấp chính quyền qua việc xác định rõ nguồn
thu, nhiệm vụ chi của các cấp. Thực chất của nguyên tắc này là giải quyết
mối quan hệ
giữa nhiệm vụ và quyền lợi, quyền lợi phải tương xứng với
nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nguyên tắc này còn đảm bảo tính độc lập
tương đối trong phân cấp quản lý NSNN ở nước ta.
Hai là: ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, tập trung các nguồn
lực cơ bản để đảm bảo thực hiện các mục tiêu trọng yếu trên phạm vi cả
nước. Cơ s
ở của nguyên tắc này xuất phát từ vị trí quan trọng của Nhà

16

nước trung ương trong quản lý kinh tế, xã hội của cả nước mà Hiến pháp
đã quy định và từ tính chất xã hội hoá của nguồn tài chính quốc gia.
Nguyên tắc này được thể hiện:
- Mọi chính sách, chế độ quản lý NSNN được ban hành thống nhất và
dựa chủ yếu trên cơ sở quản lý ngân sách trung ương.
- Ngân sách trung ương chi phối và quản lý các khoản thu, chi lớn
trong nền kinh tế và trong xã hội. Điều đó có nghĩ
a là: các khoản thu chủ
yếu có tỷ trọng lớn phải được tập trung vào ngân sách trung ương, các
khoản chi có tác động đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của cả nước
phải do ngân sách trung ương đảm nhiệm. Ngân sách trung ương chi phối
hoạt động của ngân sách địa phương, đảm bảo tính công bằng giữa các địa
phương.
Ba là: phân định rõ nhiệm vụ thu, chi giữa các cấp và ổn định tỷ lệ phần
tr
ăm (%) phân chia các khoản thu, số bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới được cố định từ 3 đến 5 năm. Hàng năm, chỉ xem xét
điều chỉnh số bổ sung một phần khi có trượt giá và một phần theo tốc độ
tăng trưởng kinh tế. Chế độ phân cấp xác định rõ khoản nào ngân sách địa
phương được thu do ngân sách địa phương thu, khoản nào ngân sách địa
phương phải chi do ngân sách địa phương chi. Không để tồ
n tại tình trạng
nhập nhằng dẫn đến tư tưởng trông chờ, ỷ lai hoặc lạm thu giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương. Có như vậy mới tạo điều kiện nâng
cao tính chủ động cho các địa phương trong bố trí kế hoạch phát triển kinh
tế, xã hội. Đồng thời là điều kiện để xác định rõ trách nhiệm của địa
phương và trung ương trong quản lý NSNN, tránh co kéo trong xây dựng
k
ế hoạch như trước đây.
Bốn là: đảm bảo công bằng trong phân cấp ngân sách. Phân cấp ngân

sách phải căn cứ vào yêu cầu cân đối chung của cả nước, cố gắng hạn chế
thấp nhất sự chênh lệch về văn hoá, kinh tế, xã hội giữa các vùng lãnh thổ.

17
3. Nội dung của phân cấp quản lý NSNN.
Dựa trên cở quán triệt những nguyên tắc trên, nội dung của phân cấp
quản lý NSNN được quy định rõ trong chương II và III của luật NSNN bao
gồm:
Nội dung thứ nhất là phân cấp các vấn đề liên quan đế quản lý, điều
hành NSNN từ trung ương đến địa phương trong việc ban hành, tổ chức
thực hiện và kiểm tra, giám sát về chế độ, chính sách.
Tiếp theo là phân cấp về
các vấn đề liên quan đế nhiệm vụ quản lý và
điều hành NSNN trong việc ban hành hệ thống biểu mẫu, chứng từ về trình
tự và trách nhiệm của các cấp chính quyền trong xây dựng dự toán ngân
sách, quyết toán ngân sách và tổ chức thực hiện kế hoạch NSNN.
Cụ thể:
Quốc hội quyết định tổng số thu, tổng số chi, mức bội chi và các nguồn
bù đắp bội chi; phân tổ NSNN theo từng lo
ại thu, từng lĩnh vực chi và theo
cơ cấu giữa chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển, chi trả nợ. Quốc hội
giao cho Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định phương án phân bổ ngân
sách trung ương cho từng bộ, ngành và mức bổ sung từ ngân sách trung
ương cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Như vậy, Quốc hội
quyết định những vấn đề then chốt nhất về
NSNN, đảm bảo cơ cấu thu, chi
NSNN hợp lý và cân đối NSNN tích cực, đồng thời giám sát việc phân bổ
ngân sách trung ương và ngân sách của các địa phương.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của
Quốc hội giao về quyết định phương án phân bổ ngân sách trung ương,

giám sát việc thi hành pháp luật về NSNN.
Chính phủ trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội các dự
án luật,
pháp lệnh và các dự án khác về NSNN; ban hành các văn bản pháp quy về
NSNN; lập và trình Quốc hội dự toán và phân bổ NSNN, dự toán điều
chỉnh NSNN trong trường hợp cần thiết; giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách
cho từng bộ, ngành; thống nhất quản lý NSNN đảm bảo sự phối hợp chăth

18
chẽ giữa các cơ quan quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện
NSNN; tổ chức kiểm tra việc thực hiện NSNN; quy định nguyên tắc,
phương pháp tính toán số bổ sung nguồn thu từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới; quy định chế độ quản lý quỹ dự phòng NSNN và quỹ
dự trữ tài chính; kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân về dự toán và
quyết toán NSNN; lập và trình Quốc hội quyế
t toán NSNN và quyết toán
các công trình cơ bản của Nhà nước.
Bộ tài chính chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh và các dự án khác về
NSNN trình chính phủ; ban hành các văn bản pháp quy về NSNN theo
thẩm quyền; chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng thống
nhất quản lý NSNN; hướng dẫn kiểm tra các bộ, cơ quan khác ở trung
ương và địa phương xây dựng dự toán NSNN hàng năm; đề xuất các biện
pháp nhằm thự
c hiện chính sách tăng thu, tiết kiệm chi NSNN; chủ trì phối
hợp với các bộ, ngành trong việc xây dựng các chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi NSNN; thanh tra, kiểm tra tài chính với tất cả các tổ chức, các đơn
vị hành chính, sự nghiệp và các đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách
và xử dụng ngân sách; quản lý quỹ NSNN và các quỹ khác của Nhà nước;
lập quyết toán NSNN trình Chính phủ.
Bộ kế hoạch và đầu tư có nhiệ

m vụ trình Chính phủ dự án kế hoạch
phát triển kinh tế, xã hội của cả nước và cân đối chủ yếu của nền kinh tế
quốc dân, trong đó có cân đối tài chính tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản
làm cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch tài chính, ngân sách; phối hợp với
bộ tài chính lập dự toán và phương án phân bổ NSNN trong lĩnh vực phụ
trách; phối hợp vớ
i bộ tài chính và các bộ ngành hữu quan kiểm tra đánh
giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chímh trong
việc lập dự toán NSNN đối với kế hoạch và phương án vay để bù đắp bội
chi NSNN; tạm ứng cho NSNN để xử lý thiếu hụt tạm thời quỹ NSNN
theo quyết định của thủ tướng Chính phủ.

19
Các bộ, ngành khác có nhiệm vụ phối hợp với bộ tài chính, UBND cấp
tỉnh để lập, phân bổ, quyết toán NSNN theo ngành, lĩnh vực phụ trách ;
kiểm tra theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ
trách; báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc
ngành, lĩnh vực phụ trách; phối hợp với bộ tài chính xây dung định mức
tiêu chuẩn chi NSNN thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách.
Hội
đồng nhân dân có quyền quyết định dự toán và phân bổ ngân sách
địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương; quyết định các
chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân sách địa phương; quyết
định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong thời gian cần thiết;
giám sát việc thực hiện ngân sách đã quyết định. Riêng đối với HĐND cấp
tỉnh, ngoài những nhiệm vụ, quyề
n hạn nêu trên còn được quyền quyết
định thu, chi lệ phí, phụ thu và các khoản đóng góp của nhân dân theo quy
định của pháp luật.

Uỷ ban nhân dân lập dự toán và phương án phân bổ ngân sách địa
phương, dự toán điều chỉnh NSĐP trong trường hợp cần thiết trình HĐND
cùng cấp quyết định và báo cáo cơ quan tài chính cấp trên trực tiếp. Kiểm
tra nghị quyết của HĐND cấp dưới về dự toán ngân sách và quyết toán
ngân sách. Tổ chức thực hiện NSĐP và báo cáo về NSNN theo quy định.
Riêng đối với cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, UBND còn có
nhiệm vụ lập và trình HĐND quyết định việc thu phí, lệ phí, phụ thu, huy
động vốn trong nước cho đầu tư xây dựng cơ bản thuộc địa phương quản
lý.
Như vậy, luật đã quy định tương đối rõ ràng về nhiệm vụ, quyền hạn
của các cơ quan, chính quyền Nhà nước trong lĩnh vực NSNN. đặc biệt đối
với HĐND và UBND các cấp đã có sự đổi mới theo hướng tăng tính tự
chủ, sáng tạo của địa phương trong việc phát huy tiềm năng hiện có, bồi
dưỡng và tăng thu cho ngân sách cấp mình, từ đó chủ động bố trí chi tiêu
hợp lý, có hiệu quả theo kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của địa phương,
phù hợp với quy hoạch tổng thể và chế độ thu, chi thống nhất của Nhà

20
nước. Điều này cơ bản cũng phù hợp với phương hướng đổi mới chức
năng, nhiệm vụ của HĐND và UBND được Quốc hội và Chính phủ đề ra
trong kỳ hội nghị HĐND và UBND toàn quốc.
Về các khoản thu NSNN:

Thu NSNN là số tiền mà nhà nước huy động vào NSNN và không bị
ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp. Phần lớn các khoản thu này
đều mang tính chất cưỡng bức. Với đặc điểm đó, thu NSNN khác với các
nguồn thu của các chủ thể khác (doanh nghiệp, tư nhân…) vì nó gắn với
quyền lực của nhà nước.
Theo phân loại thống kê của liên hiệp quốc, thu NSNN gồm hai loại:
- Các khoản thu từ thuế, trong đó chia ra thu

ế trực thu và thuế gián thu.
- Các khoản thu ngoài thuế như phí, lệ phí và các khoản thu từ hoạt
động kinh tế của Nhà nước và các khoản chuyển giao vào NSNN khác.
Tại Việt nam, trước đây, việc phân chia nội dung thu của các cấp ngân
sách dựa vào cơ sở kinh tế của chính quyền tức là những tổ chức kinh tế
do trung ương quản lý thì nguồn thu của các tổ chức này tập trung vào
ngân sách trung ương, các tỏ chức kinh tế do địa phương qu
ản lý thì sẽ ghi
thu vào ngân sách địa phương. Điều này đã dẫn đến tình trạng xây dựng
chồng chéo các cơ sở kinh tế của trung ương và địa phương, tranh giành
nguồn nguyên vật liệu, thị trường tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, nó không
gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương trong việc quan tâm
tới những tổ chức kinh tế do trung ương quản lý ở địa phương. Do vậy, để
khắc phục những nhược điểm trên, chế độ phân cấp được điều chỉnh theo
hướng thay đổi tỷ lệ ghi thu vào ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương nhưng do vẫn dựa trên cơ sở cũ nên nguồn thu vẫn không được
đảm bảo.
Hiện nay, theo luật NSNN sửa đổi, việc phân chia nội dung thu NSNN
không dựa vào tính chất sở hữu, tổ chức của cơ sở kinh tế mà theo cơ ch
ế:

21
* Mỗi cấp ngân sách đều có các khoản thu được hưởng 100%. Như vậy,
có thể giúp chính quyền địa phương chủ động bố trí cân đối ngân sách cấp
mình
* Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ điều tiết giữa các cấp ngân
sách.
Trước đây, tỷ lệ điều tiết này được xác định bởi công thức:
X= [(Q- T): K]*100
Trong đó: X :là tỷ lệ điều tiết các khoản thu.

T :là tổ
ng số chi theo nhiệm vụ được giao.
Q :là tổng số thu cố định.
K :là thuế doanh thu và thuế nông nghiệp.
Công thức trên bị đánh giá là thiếu cơ sở khoa học, không chính xác về mặt
toán học và kinh tế dẫn đến bất công bằng giữa nhiều địa phương, số tỉnh
có tỷ lệ điều tiết tính ra vượt quá 100% là quá lớn nên ngân sách nhiều địa
phương bội thu, trong khi đó ngân sách TƯ bội chi.
Hiệ
n nay, luật quy đinh:
* Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách trung ương
và ngân sách từng tỉnh do Chính phủ quyết định và nó được áp dụng chung
đối với tất cả các khoản thu được phân chia và được xác định riêng cho
từng tỉnh.
Các khoản thu được phân chia gồm:
Thuế giá trị gia tăng không kể thuế giá trị gia tăng thu từ hàng hoá
nhập khẩu và thu từ hoạt động xổ số kiến thiết.
Thuế
thu nhập doanh nghiệp không kể thuế thu nhập doanh nghiệp
của các đơn vị hạch toán toàn ngành và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ
hoạt động xổ số kiến thiết.
Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao.

22
Thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài của các tổ chức, cá nhân nước
ngoài có vốn đầu tư tại Việt nam
Thu sử dụng vốn ngân sách của các doanh nghiệp nhà nước không
kể thu sử dụng vốn ngân sách từ hoạt động xổ số kiến thiết.
Việc xác định tỷ lệ phần trăm phân chia được thực hiện như sau:
Gọi:

- Tổng số chi ngân sách các cấp chính quyền địa ph
ương(không bao bồm
số bổ sung) là A.
- Tổng số các khoản thu ngân sách các cấp chính quyền địa phương hưởng
100% (không bao gồm số bổ sung) là B.
- Tổng số các khoản thu phân chia theo tỷ lệ phần trăm giữa các cấp chính
quyền địa phương được hưởng là C.
- Tổng số các khoản thu được phân chia giữa NSTƯ và ngân sách tỉnh là
D.
Nếu A-(B+C)< D thì tỷ lệ phần trăm phân chia được tính theo công thức:
Tỷ lệ phần tr
ăm = [(A-B)+C]: D * 100%
Nếu A-(B+C) > D thì tỷ lệ phần trăm chỉ được tính bằng 100% và phần
chênh lệch sẽ thực hiện cấp bổ sung.
Nếu A-(B+C) =D thì tỷ lệ phần trăm là 100% và tỉnh tự cân đối.
* Tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản thu giữa ngân sách các cấp chính
quyền địa phương do UBND tỉnh quy định.
Các khoản thu phân chia:
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
- Thuế nhà, đất.
- Tiền s
ử dụng đất.
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp.

23
- Thuế tài nguyên.
- Lệ phí trước bạ.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng sản xuất trong nước thu vào các mặt hàng bài
lá, hành mã, vàng mã và các dịch vụ kinh doanh vũ trường, mát xa, ka ra ô
kê, kinh doanh gôn, bán thẻ hội viên và vé chơi gôn, trò chơi bằng các máy

giắc pót, kinh doanh vé đặt cược đua ngựa, đua xe.

PHÂN ĐỊNH NGUỒN THU GIỮA NSTƯ VÀ NGÂN SÁCH TỈNH.

NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NGÂN SÁCH ĐỊA PHƯƠNG
Các khoản thu
100%

1.thuế GTGT hàng nhập khẩu
2.thuế xuất, nhập khẩu
3.thuế tiêu thụ đặc biệt (trừ
một số mặt hàng, dịch vụ)
4.thuế thu nhập doanh nghiệp
của đơn vị hạch toán toàn
nghành
5.thu từ dầu khí
6.thu nhập từ vốn góp của
nhà nước, tiền thu hồi vốn
của nhà nước từ các cơ sở
kinh tế
7.các khoản do Chính phủ
vay, viện trợ
không hoàn lại
của Chính phủ các nước
8.các khoản phí, lệ phí theo
quy định
9.thu kết dư NSTƯ
10.các khoản thu khác.

1.tiền cho thuê đất

2.tiền cho thuê và bán nhà
thuộc sở hữu Nhà nước
3.lệ phí trước bạ
4.thu từ hoạt động xổ số kiến
thiết
5.viên trợ không hoàn lai của
nước ngoài trực tiếp cho địa
phương
6.các khoản phí, lệ phí theo
quy định
7.các khoản đóng góp tự
nguỵện của cá nhân, tổ chức
trong và ngoài nước
8.thu kết dư NSĐP
9.thu bổ sung từ NSTƯ
10.các khoản thu khác theo
quy định.

24
Các khoản thu
phân chia theo
tỷ lệ phần trăm
giữa NSTƯ và
ngân sách tỉnh.
1.thuế GTGT (trừ thuế GTGT hàng nhập khẩu và hoạt động sổ
xố kiến thiết)
2.thuế thu nhập doanh nghiệp (trừ các đơn vị hạch toán toàn
ngành và hoạt động xổ số kiến thiết)
3.thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
4.thuế chuyển thu nhập ra nước ngoài

5.thu từ sử dụng vốn ngân sách của các DNNN.
Các khoản thu
phân chia giữa
tỉnh, huyện, xã
1.thuế chuyển quyền sử dụng đất
2.thuế nhà đất
3.thuế sử dụng đất nông nghiệp
4.thuế tài nguyên
5.thuế tiêu thụ đặc biệt với hàng sản xuát trng nước thu vào
vàng mã, kinh doanh vũ trường, mát xa,…
tỷ lệ phân chia do UBND tỉnh quy định.

Về các khoản chi NSNN
Chi NSNN là số tiền mà Nhà nước chi từ quỹ ngân sách để thực hiện
chức năng và nhiệm vụ của mình. Có nhiều cách để xác định cơ cấu chi
NSNN. Chẳng hạn, để thấy rõ hơn vai trò của NSNN đối với phát triển các
ngành kinh tế đất nước, đặc biệt là các ngành mũi nhọn thì cơ cấu chi
NSNN được phân theo ngành kinh tế quốc dân (ngành công nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp, giao thông vận tải, thương mại, dịch v
ụ…). Nếu để
đảm bảo cho Quốc hội có thể thấy rõ ngay nhuồn ngân sách phân bổ cho
mỗi cơ quan Nhà nước, chi ngân sách Nhà nước được phân loại theo tổ
chức của cơ quan Nhà nước (theo từng bộ, cơ quan Nhà nước Trung ương,
cơ quan Nhà nước địa phương…). Nếu để đáp ứng yêu cầu kiểm tra, kiểm
soát của Nhà nước đối với việc lập dự toán, quyết định dự toán, thự
c hiện
phân cấp và quản lý, sử dụng kinh phí NSNN cho từng mục đích và từng
đối tượng cụ thể, người ta phân loại theo mục đích sử dụng cuối cùng: chi

25

lương, phụ cấp lương, chi mua sắm hàng hoá, dịch vụ…Nói chung, mỗi
cách phân loại đều có mục đích và ý nghĩa riêng, chúng có nét chung là
cho biết một cách toàn diện ảnh hưởng ngắn hạn hoặc dài hạn của việc chi
tiêu quốc gia vào phát triển kinh tế, thấy rõ mục đích kinh tế, xã hội mà
Chính phủ đang theo đuổi.
Theo luật NSNN, nội dung chi NSNN được phân loại theo tổ chức kinh
tế, từ ngân sách trung ương đến ngân sách các c
ấp địa phương đều có các
khoản chi cơ bản giống nhau:
Chi thường xuyên: là những khoản chi hết sức cần thiết và không thể trì
hoãn, phải thực hiện thường xuyên hàng tháng, hàng năm để duy trì sự tồn
tại của bộ máy Nhà nước.
Chi đầu tư, phát triển: là những khoản chi để hình thành tài sản cố định
như mua sắm tài sản cố định, đầu tư xây dựng các công trình kinh tế mũ
i
nhọn, xây dung cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội, xây dựng nhà cửa, đầu tư vào
các động sản tài chính, sửa chữa lớn tài sản cố định, chi trả nợ gốc tiền
vay… những khoản chi này gắn với việc điều chỉnh vĩ mô của Nhà nước,
tạo môi trường và điều kiện cho các TPKT hoạt động và phát triển.
Sự khác nhau cơ bản giữa hai nhóm chỉ tiêu trên thể
hiện ở chỗ: chi
thường xuyên có tính chất tiêu hao trực tiếp, còn chi đầu tư phát triển có
tính chất thu hồi trong những điều kiện nhất định.
Theo thứ tự ưu tiên thì chi thường xuyên được ưu tiên trước hết, sau đó
mới đến chi đầu tư phát triển. Thứ tự ưu tiên này cũng chỉ có ý nghĩa tương
đối vì nếu cứ ưu tiên chi thường xuyên dễ dẫn đến phá vỡ c
ơ cấu kinh tế,
và nếu cứ ưu tiên chi đầu tư phát triển dễ đẫn đến làm tăng thâm hụt
NSNN.
Cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương đều có hai khoản chi

trên, tuy nhiên, giữa chúng cũng có sự khác nhau về quy mô, phạm vi của
các khoản chi. Chi đầu tư phát triển của ngân sách trung ương là những
khoản chi có quy mô lớn, có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân,

26
các khoản chi này nhìn chung là khó xác định chủ đầu tư và các công trình
phúc lợi công cộng. Còn các khoản chi của ngân sách địa phương chỉ đầu
tư cho những công trình, mục tiêu được thực hiện trong phạm vi địa
phương đó. Ngoài ra, có một số khoản chi thuộc đặc thù chức năng của
ngân sách trung ương thì ngân sách trung ương đảm nhiệm: trả nợ vay, chi
an ninh quốc phòng, chi về ngoại giao…
Về số bổ sung từ nhân sách cấp trên cho ngân sách cấp d
ưới:
Gồm hai loại:
* Số bổ sung để cân đối ngân sách gồm số bổ sung ổn định trong suốt
thời kỳ nhất định và số bổ sung tăng thêm hàng năm một phần theo tỷ lệ
trượt giá và một phần theo tốc độ tăng trưởng kinh tế
* Số bổ sung theo mục tiêu.
Có thể nói, với những nội dung trên, hệ thống NSNN và chế độ phân
cấp và quản lý NSNN đã bướ
c đầu tạo cơ sở, điều kiện, hành lang pháp lý
cho công tác quản lý, điều hành hoạt động NSNN có hiệu lực và có hiệu
quả, theo những chuẩn mực nhất định, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ
của NSNN trong cơ chế kinh tế mới ở nước
PHÂN CẤP NHIỆM VỤ CHI NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG VÀ NGÂN
SÁCH TỈNH.
LĨNH VỰC NGÂN SÁCH TRUNG ƯƠNG NGÂN SÁCH TỈNH
1.Chi xây dựng cơ bản
- Các công trình kinh tế then
chốt quan trọng.

- Các công trình hạ tầng cơ
sở
2.Chi vốn lưu động.


3.Chi trả nợ (trong và ngoài
NSTƯ đảm nhận các công
trình hạ tầng cơ sở không có
khả năng thu hồi vốn do
trung ương quản lý.

Các xí nghiệp trong và ngoài
nước do trung ương quản lý.
Hầu hết NSTƯ đảm nhận chi
trả nợ nước ngaòi.

NSĐP
đảm nhận các công
trình hạ tầng cơ sở do địa
phương quản lý.


Các xí nghiệp do địa phương
quản lý.

Trả nợ trong nước, địa
phương đảm nhận phần huy

×