Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.48 KB, 21 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TÍN DỤNG CỦA NGÂN
HÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO
I/. ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO TRONG THỜI
GIAN TỚI.
Ngân hàng phục vụ người nghèo ra đời đã tạo lập một kênh tín
dụng cho vay hộ nghèo, là một trong nhiều giải pháp của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thực hiện mục tiêu xoá đói giảm nghèo. Tôn chỉ hoạt động
của Ngân hàng phục vụ người nghèo vì mục tiêu xoá đói giảm nghèo
không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo tồn vốn ban đầu và phát triển vốn trên
cơ sở khai thác các nguồn của các tổ chức và cá nhân trong và ngoài
nước, tiếp nhận các nguồn vốn tín dụng của Nhà nước đối với người
nghèo và các nguồn vốn khác được Nhà nước cho phép để lập quỹ cho vay
ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh.
Từ khi ra đời cho tới nay hoạt động của Ngân hàng phục vụ người
nghèo gặp rất nhiều khó khăn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài
chính tiền tệ trong khu vực, diễn biến thời tiết khắc nghiệt thiên tai bão
lụt, hạn hán kéo dài ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước. Đặc biệt
là các trận lũ xảy ra hồi cuối năm 1999 tại các tỉnh Miền Trung, lut xảy ra
cuối năm 2000 ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu long đã gây thiệt hại nặng
nề về người và tài sản của nhân dân, trong đó có vốn vay NHNg. Vì vậy,
ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn và cho vay hộ nghèo. Tuy
nhiên, trong hoàn cảnh đó bằng sự lỗ lực của Ngân hàng phục vụ người
nghèo cùng với sự quan tâm giúp đỡ đặc biệt của các ban, ngành liên
quan hoạt động tín dụng của Ngân hàng phục vụ người nghèo đã đạt
được những thành tựu đáng khích lệ. Nhưng dù sao đi nữa thì trong hoạt
động tín dụng của Ngân hàng phục vụ người nghèo cũng đã nảy sinh
11
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhiều vấn đề cần phải khắc phục và chỉ có như thế mới hoàn thành được
kế hoạch đề ra.


Theo kế hoạch của Ngân hàng phục vụ người nghèo đến năm 2002
là tăng mức dư nợ bình quân gần 2,5 triệu đồng/hộ với số hộ được vay
còn dư nợ Ngân hàng phục vụ người nghèo khoảng 3 triệu hộ. Như vậy,
theo ước tính phải có nguồn vốn trên 7.300 tỷ đồng; dư nợ đạt 6.950 tỷ
đồng.
Vậy trong thời gian tới cần có những giải pháp gì để đạt được mục
tiêu trên? Sau đây là một số giải pháp chính:
II/. NHỮNG GIẢI PHÁP GIÚP HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG HỘ NGHÈO CỦA NHNG ĐẠT HIỆU QUẢ CAO.
1. Giải pháp tạo lập nguồn vốn.
a. Sự giúp đỡ nguồn vốn từ phía Nhà nước.
Theo điều lệ của Ngân hàng phục vụ người nghèo thì Ngân hàng
phục vụ người nghèo hoạt động không phải mục tiêu lợi nhuận như các
ngân hàng thương mại khác mà mục đích chính là xoá đói giảm nghèo
(XĐGN) theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế mà đối
tượng cho vay của Ngân hàng phục vụ người nghèo là hộ nghèo, có khả
năng lao động nhưng thiếu vốn sản xuất kinh doanh. Cho vay những hộ
này rủi ro thì cao nhưng lợi nhuận mang lại không đáng kể, cho nên để
đảm bảo kết cấu nguồn vốn bền vững (nghĩa là thu hoạt động nghiệp vụ
đủ bù chi hoạt động nghiệp vụ) thì Ngân hàng phục vụ người nghèo cần
phải có sự giúp đỡ đặc biệt từ phía Nhà nước. Đó là sự giúp đỡ về nguồn
vốn cho hoạt động của Ngân hàng phục vụ người nghèo. Cụ thể như sau:
- Ngoài số vốn điều lệ theo quy chế thành lập của Ngân hàng phục
vụ người nghèo, Nhà nước phải đảm bảo đầy đủ. Nhà nước cần phải có
chính sách thực hiện cấp bù lãi suất thích hợp. Việc cấp vốn và cấp bù lãi
22
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
suất phải thực hiện kịp thời, nhanh chóng, có như thế Ngân hàng phục vụ
người nghèo mới hoạt động tốt được.
- Nhà nước phải có quy định mang tính bắt buộc mỗi ngân hàng
thương mại (NHTM) phải dành một tỷ lệ vốn huy động được để làm vốn

cho vay hộ nghèo. Điều này không phải dễ dàng gì mà các NHTM chấp
nhận vì họ huy động vốn với mục đích cho vay được với lãi suất cao để tối
đa hoá lợi nhuận. Nhưng khi cho Ngân hàng phục vụ người nghèo vay vốn
thì phải cho vay với mức lãi suất thấp cho nên họ không muốn cho vay. Vì
thế cần phải có sự quy định bắt buộc từ phía Nhà nước. Cụ thể là Nhà
nước có thể quy định mức tối thiểu mà các NHTM dành ra để cho vay hộ
nghèo. Tuy nhiên, tùy theo tình hình hoạt động của từng ngân hàng và
tình hình phát triển kinh tế xã hội mà Nhà nước có những quy định cụ thể
sao cho vẫn đảm bảo được tính thanh khoản và lợi nhuận của các NHTM
mà vừa đảm bảo vốn cho vay hộ nghèo. Ngoài ra Ngân hàng phục vụ
người nghèo cũng nên tự đàm phán, thoả thuận thêm các khoản vay đối
với các NHTM dưới sự bảo trợ từ phía Nhà nước.
- Ngân hàng Nhà nước cần nâng mức cho vay đối với Ngân hàng
phục vụ người nghèo. Vốn vay từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) có ý nghĩa
rất quan trọng trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng phục vụ người
nghèo. Như chúng ta đã biết Ngân hàng phục vụ người nghèo là một ngân
hàng chính sách vì thế mà mức cho vay cũng như lãi suất áp dụng đối với
các khoản vay cũng phải khác các NHTM. Hiện nay NHNg vay của NHNN
là 940 tỷ đồng với lãi suất 0,2%/tháng.
- Tăng cường sự giúp đỡ, hợp tác với các tổ chức quốc tế về công
cuộc xoá đói giảm nghèo như: FAO, UNDP, ADB, WB,... Sự giúp đỡ về kỹ
thuật cũng như nguồn viện trợ của các tổ chức này có một ý nghĩa quan
trọng trong quá trình phát triển nông nghiệp-nông thôn.
33
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
b. Đẩy mạnh việc huy động vốn trong cộng đồng dân cư.
Đa phần dân cư nông thôn có số tiền để dành tương đối nhỏ, hơn
nữa họ lại ở phân tán và thường là khá xa các hội sở ngân hàng. Đó là
nguyên nhân chủ yếu khiến việc huy động vốn của Ngân hàng phục vụ
người nghèo gặp nhiều khó khăn. Chúng ta có thể đưa ra một ví dụ đơn

giản để lý giải điều này như sau: Một người dân có một món tiền để dành
giả sử là 400.000 đồng, nếu số tiền này anh ta đem gửi tiết kiệm với lãi
suất cho loại kỳ hạn mà anh ta muốn gửi giả dụ là 0,6%/ tháng thì hàng
tháng số thu nhập mà anh ta kiếm được từ số tiền gửi là 2.400 đồng. Vậy
thử hỏi số tiền này có thôi thúc anh ta gò lưng đạp xe đến hội sở ngân
hàng cách đó đến 10 km để gửi tiền hay không? Đó còn chưa tính đến
những nguyên nhân khác như: thái độ lạnh nhạt của nhân viên ngân
hàng, những lo tính cho các khoản chi đột xuất trong tương lai, nỗi lo
đồng tiền mất giá... mà anh ta cho rằng những cái anh ta bị thua thiệt khi
gửi tiền vào ngân hàng lớn hơn số thu nhập hàng tháng mà anh ta có
được. Có nghĩa là chi phí cơ hội của việc gửi tiền thường lớn hơnsố tiền lãi
của các món tiền gửi tiết kiệm. Điều này làm cho những người có món tiền
nhỏ để dành thường muốn giữ dưới dạng tiền mặt hơn là đem đi gửi ở
các ngân hàng. Hiện nay có ý kiến cho rằng do bản chất của hoạt động của
Ngân hàng phục vụ người nghèo là cho vay với lãi suất thấp hơn laĩ suất
thị trường cho nên lãi suất huy động không đủ cao để có thể thu hút các
khoản tiền gửi tiết kiệm. Nhưng có lẽ vấn đề ở đây không hẳn là lãi suất
cao hay thấp để có thể thu hút các khoản tiền tiết kiệm. Chẳng hạn, chúng
ta có thể tăng lãi suất huy động lên đến 1%/ tháng thay vì 0,6%/ tháng thì
điều gì sẽ xảy ra. Với mức lãi suất này anh ta có mức thu nhập hàng tháng
từ các khoản tiết kiệm là: 400.000 x 0,01 = 4.000 đồng. Vậy thử hỏi xem
anh ta có mạnh dạn đem 400.000 đồng với những toan tính canh cánh bên
44
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lòng về các khoản chi tiêu đột xuất trong những ngày sắp tới, thậm chí bất
chấp cả thái độ hờ hững của nhân viên ngân hàng để đến ngân hàng gửi
tiền để mong nhận được 4.000 đồng/ tháng hay không? Thậm chí nếu
tăng gấp đôi khoản tiền gửi này thì tôi cũng không tin rằng người dân sẽ
có động cơ thôi thúc đem tiền đến gửi ở các ngân hàng.
Từ sự phân tích trên cho thấy: đã và đang có những khó khăn lớn

trong công tác huy động vốn ở các vùng nông thôn, đặc biệt là huy động
các món tiền để dành nhỏ- vốn tồn tại chủ yếu ở các vùng nông thôn nước
ta. Lý do chủ yếu vẫn là các hộ gia đình nông thôn phân bố rải rác và khá
xa các hội sở ngân hàng. Từ đó cho thấy việc phi tập trung hóa hoạt động
ngân hàng vẫn được xem là biện pháp chủ yếu để huy động vốn trong dân
cư đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Tuy nhiên, để làm được điều này sẽ
làm tăng chi phí hoạt động ngân hàng và sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Vì vậy, để làm tốt công tác huy động vốn trong
dân cư thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn
là một việc làm rất cần thiết. Đồng thời với nó là thực hiện quá trình
chuyển đổi các tổ tín chấp và vay vốn thành các tổ tiết kiệm và vay vốn.
Làm tốt việc này một mặt nó khuyến khích người nghèo tiết kiệm,
ngân hàng có điều kiện huy động nguồn vốn đồng thời nó cũng làm cho quá
trình giám sát, quản lý các khoản cho vay chặt chẽ hơn do nâng cao được
trách nhiệm của tổ đối với quá trình sử dụng vốn vay của từng thành viên.
Theo quy chế thì : “ Đây là một tổ chức được thành lập do các thành
viên là những chủ hộ gia đình có cùng hoàn cảnh, có cùng truyền thống
đoàn kết tương trợ, cùng cư trú trong một phường xã và tự nguyện cùng
nhau tham gia cam kết gửi tiền tiết kiệm và vay vốn”. Như vậy, tổ tiết kiệm
và vay vốn là những thành viên “4 cùng”. Đây cũng là một chủ thể quan hệ
dân sự, do đó để có thể thành lập được phải có những điều kiện tối thiểu
55
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhất định. Trước hết phải có từ 5-50 thành viên tự nguyện tham gia, có
quy ước nêu rõ nội dung phương pháp quản lý, được Uỷ ban nhân dân xã
phường phê duyệt, được Ngân hàng phục vụ người nghèo và các tổ chức
chính trị-xã hội hướng dẫn, giúp đỡ đào tạo và quản lý. Nhiệm vụ của tổ
khá nặng nề, trong đó chủ yếu là huy động và quản lý tiền gửi tiết kiệm,
giúp đỡ các thành viên vay vốn Ngân hàng phục vụ người nghèo. Ngoài ra,
còn có trách nhiệm kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay, đôn đốc hộ

vay trả nợ NH, tổ chức thu lãi và nộp cho ngân hàng. Phối hợp với các
đoàn thể trong xã hôi chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao trình độ sản
xuất kinh doanh cho hộ nghèo.
Với một nhiệm vụ nặng nề như thế thì cần thiết phải có một đội ngũ
quản lý mạnh. Điều này không thể làm ngày một ngày hai được. Vì thế,
không thể một lúc đồng loạt cho ra đời nhiều tổ tiết kiệm và vay vốn ngay
được. Muốn cho hoạt động của tổ tiết kiệm và vay vốn đạt hiệu quả cao
ngoài việc phải có một quy chế tổ chức và hoạt động của tổ tiết kiệm và
vay vốn thì cần thiết phải:
- Cần có sự giúp đỡ của chính quyền địa phương, sự giúp đỡ này có
một ý nghĩa quan trọng vì nó tác động trực tiếp đến quá trình ra đời, hoạt
động của các tổ tiết kiệm và vay vốn. Các đoàn thể chính trị-xã hội ở địa
phương một mặt có nhiệm vụ tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn cho dân
chúng biết được lợi ích của tổ tiết kiệm và vay vốn một mặt phải tham gia
quản lý định hướng hoạt động của Tổ.
- Tổ chức các lớp đào tạo cán bộ cho tổ tiết kiệm và vay vốn. Có thể
mở các lớp ngay tại địa phương hoặc đào tạo tập trung theo vùng. Việc
đào tạo các nghiệp vụ về tín dụng và quản lý tiền tệ cho các cán bộ quản lý
Tổ là rất cần thiết vì chỉ có làm tốt điều này thì hoạt động của Tổ mới đem
66
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
lại hiệu quả. Đây là một việc làm tốn kém ngân hàng cần phối hợp với
chính quyền địa phương để thực hiện.
- Đội ngũ quản lý Tổ phải lựa chọn những người có uy tín, có ảnh
hưởng lớn trong cộng đồng, nhất là người Tổ trưởng.
- Một điều rất quan trọng đó là thực hiện dần dần việc chuyển đổi
từ tổ tín chấp và vay vốn sang tổ tiết kiệm và vay vốn. Làm việc này sẽ ít
tốn kém do đã có sẵn đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm lại tận dụng được cơ
sở vật chất. Tuy nhiên đây là một việc làm không đơn giản cần phải có quy
chế chính sách rõ ràng để thực hiện.

c. Hoàn thiện chính sách huy động vốn của Ngân hàng phục vụ
người nghèo.
Điều mà ta dễ nhận thấy là Ngân hàng phục vụ người nghèo khác
hẳn các NHTM vì thế vốn hoạt động không phải chủ yếu từ huy động tiền
gửi tiết kiệm mà từ ngân sách Nhà nước và đi vay các tổ chức trong và
ngoài nước. Thực tế đó cho thấy rằng Nhà nước phải có những chính sách
cụ thể để tạo điều kiện cho Ngân hàng phục vụ người nghèo huy động
nguồn vốn một cách dễ dàng hơn. Có thể Nhà nước cần cho phép Ngân
hàng phục vụ người nghèo được thực hiện chính sách huy động vốn theo
cơ chế thị trường trong trường hợp lãi suất cho vay do Chính phủ chỉ định
thì mức chênh lệch được ngân sách Nhà nước cấp bù và được ghi trong
cân đối ngân sách hàng năm trình Quốc hội thông qua. Thực hiện được
điều này còn tạo ra sự tin tưởng đối với các tổ chức tín dụng nước ngoài,
tạo điều kiện cho Ngân hàng phục vụ người nghèo có thể vay được vốn
của các tổ chức này mà trước đây họ cho đây là kênh tín dụng bao cấp nên
họ không cho vay.
d. Cần có một cơ chế điều hòa vốn hợp lý giữa chi nhánh thừa
vốn và chi nhánh thiếu vốn.
77
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Đây là một việc làm quan trọng, rất cần thiết vì nó khuyến khích các
chi nhánh tăng cường công tác huy động vốn. Để có một cơ chế điều
chuyển vốn tốt thì phải có mức phí điều chuyển hợp lý. Mục đích của việc
điều chuyển vốn là khuyến khích các địa phương huy động vốn nhưng nếu
mức phí điều chuyển quá thấp thì các chi nhánh sẽ không tích cực điều
chuyển mà chỉ huy động đủ để cho vay và như vậy ngân hàng sẽ không đạt
được mục tiêu điều hoà vốn giữa những nơi thừa và nơi thiếu. Điều này sẽ
dẫn đến một lượng vốn nhàn rỗi trong dân cư không được huy động.
2. Giải pháp về cho vay.
Như chúng ta đã biết, môi trường hoạt động kinh doanh ngân hàng

ở nước ta hiện nay chưa thực sự lành mạnh, đặc biệt là luật pháp còn
thiếu đồng bộ và công tác thực thi chưa nghiêm. Điều đó làm cho hoạt
động kinh doanh ngân hàng vốn dĩ đã chứa đựng nhiều rủi ro, lại càng rủi
ro hơn. Riêng đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng ở các vùng nông
thôn thì mức độ rủi ro có lẽ còn nghiêm trọng hơn. Điều này do nhiều yếu
tố tác động, trong đó chủ yếu vẫn là do đa phần người dân nông thôn
trình độ dân trí nói chung cũng như hiểu biết về pháp luật, kinh doanh,
tiền tệ... còn rất hạn chế. Đó sẽ là nhân tố tiềm ẩn rất lớn khả năng rủi ro
mất vốn của ngân hàng nếu như nhân viên ngân hàng không đi sâu, đi sát
với các đối tượng vay vốn. Hơn nữa, do hoạt động của Ngân hàng phục vụ
người nghèo chủ yếu trong lĩnh vực nông nghiệp, gắn với chu kỳ sinh
trưởng của cây, con... với mức độ rủi ro do thiên tai lớn cũng làm cho khả
năng rủi ro mất vốn của ngân hàng lớn. Thực tế này cho thấy Ngân hàng
phục vụ người nghèo phải có những biện pháp, cơ chế để thích ứng với
điều kiện hoàn cảnh để làm sao một mặt không ngừng tăng cường tín
dụng cho hộ nghèo thiếu vốn sản xuất kinh doanh trong cả nước, mặt khác
88

×