Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

GIẢI PHÁP CHO NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.8 KB, 3 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
GIẢI PHÁP CHO NGHIỆP VỤ TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1. THỰC TRẠNG CƠ CHẾ TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
Để có được những đánh giá chính xác và tổng quát về cơ chế tín dụng ở Việt Nam, trước
hết chúng ta phải nhìn nhận một cách khách quan về vấn đề này qua một số ví dụ cụ thể sau:
• Thực hiện cơ chế tín dụng ở các khu công nghiệp Đồng Nai
(Trích dẫn từ bài: Giải pháp hoàn thiện cơ chế tín dụng phục vụ phát triển kinh tế các
khu công nghiệp Đồng Nai_ThS. Trần Quốc Tuấn )
Thực tế hiện nay, ngân hàng chưa có cơ chế tín dụng riêng phục vụ phát triển các khu
công nghiệp (KCN). Việc cho vay vẫn thực hiện theo Quy chế cho vay của Ngân hàng nhà
nước (NHNN) và các quy định hướng dẫn các ngân hàng thương mại (NHTM).
Thực tiễn hoạt động tín dụng ngân hàng cho thấy, cơ chế cho vay vừa thông thoáng,
vừa chặt chẽ, phù hợp với pháp luật kinh tế, dân sự có liên quan, góp phần làm tăng trưởng
tín dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng phù hợp với thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu đầu tư. Vốn
tín dụng đã tập trung cho nhiều chương trình kinh tế trọng điểm, có tác dụng thúc đẩy phát
triển sản xuất.
NHNN đã thay đổi, bổ sung Quy chế cho vay tạo hành lang pháp lý cơ bản, tạo nhiều
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho TCTD, nhưng vẫn đảm bảo an toàn về vốn và đã tiếp
cận những thông lệ quốc tế, đơn giản thủ tục cho vay phù hợp với hoạt động thực tế vầ các
quy định của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, NHNN chưa có Quy chế cho vay riêng đối với các doanh nghiệp trong KCN,
mặc dù đây là một thị trường rất lớn, điều này làm nảy sinh những tồn tại, vướng mắc trong
quá trình cho vay:
-. Ngân hàng chưa có quy định nhận bảo lãnh của các tổ chức, cá nhân nước ngoài để
cho vay vốn đối với các doanh nghiệp là công ty “con”, chi nhánh của công ty “mẹ” ở nước
ngoài.
-. NHNN cũng chưa có hướng dẫn cho vay góp vốn liên doanh.
- Vì máy móc thiết bị gắn liền với nhà xưởng, đất đai, chưa có cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm và việc định giá, đánh giá tài sản khó khăn nên việc cho vay bảo đảm bằng tài sản


hình thành từ vốn vay cũng rất khó vì một số máy móc đã lạc hậu ở nước ngoài nhưng so với
thị trường trong nước vẫn còn giá trị, cán bộ ngân hàng chưa đủ trình độ để đánh giá.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Công ty xây dựng và kinh doanh hạ tầng KCN bảo lãnh bằng nguồn thu từ các hợp
đồng cho thuê đất, cung ứng dịch vụ cho doanh nghiệp. Đây là quyền tài sản phát sinh từ các
hợp đồng kinh tế, nhưng các TCTD chọn bảo lãnh cầm cố các quyền từ tài sản của công ty
xây dựng hạ tầng thì cũng vướng vì tài sản của cng ty chủ yếu là đất đai được Nhà nước
giao để hoạt động và có thu tiền xử dụng đất. Vì thế, không thể thực hiện nghĩa vụ cho ngân
hàng được.
- Việc bảo đảm tiền vay bằng vốn vay chỉ mới áp dụng trong trường hợp cho vay trung,
dài hạn và mức vốn tự có hoặc vốn tự có và tài sản cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản
của bên thứ ba tối thiểu bằng 15% tổng mức vốn đầu tư dự án. Trong khi các doanh nghiệp
trong KCN có khối lượng sản xuất rất lớn, nhu cầu vốn ngắn hạn rất cao thì cơ chế cho vay
chưa quy định, và hướng dẫn.
- Trong chỉ thị số 07/CT-NHNN ngày 30/10/2001 của Thống đốc NHNN về mở rộng tín
dụng có hiệu quả đối với doanh nghiệp trong KCX, KCN có nêu các doanh nghiệp nước ngoài
bị lỗ theo kế hoạch do mới hoạt động tại Việt Nam chưa qua ba năm được các TCTD xem xét
cho vay không có đảm bảo bằng tài sản, nhưng cũng không hướng dẫn rõ cụ thể làm cơ sở
cho vay hay không, với điều kiện, tiêu chuẩn thế nào, nên trong thực tế các TCTD cũng chưa
dám cho vay.
- Thống đốc NHNN đã ban hành Quy chế đồng tài trợ của các TCTD số 154/1998/QĐ
ngày 29/4/1998 nhưng trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, cũng chưa thể áp dụng bởi khó thống
nhất phương thức thẩm định dự án, phức tạp trong thành lập hội đồng thẩm định, quản lý
dự án. Mặc dù trong thực tế nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp vay rất lớn, thường vượt
quá tỷ lệ 15% vốn tự có của MHTM Nhà nước. Các chi nhánh chỉ được cho nay 1 khách hàng
từ 50- 100 tỷ đồng, do đó, tính tự chủ của NHTM và chi nhánh bị hanh chế.
- Các doanh nghiệp nước ngoài trong KCN thường có thói quen tiếp cận cới các dịch vụ
hiện đại, phong phú, tiện ích, thủ tục đơn giản, tác phong làm việc dứt khoát và có nhiều đòi
hỏi trong cách vay, hồ sơ cho vay mà cơ chế quy định của ta quá cẩn thận và chặt chẽ cho
nên khó tiếp cận.

- Chúng ta chưa có chính sách chi hoa hồng, chi thưởng... để cạnh tranh thu hút các
doanh nghiệp trong dịch vụ mới như sử dụng công nghệ thẻ, máy rút tiền tự động....
-Quy định của NHTM khi cho vay yêu cầu kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay
nhưng trình độ cán bộ ngân hàng còn nhiều hạn chế như ngoại ngữ, chuyên môn khi tiếp cận
cách quản lý, hạch toán của các doanh nghiệp. Để thu hút mạnh đầu tư vào các KCN, tỉnh
Đồng Nai đã có quy chế về thanh,kiểm tra. Mỗi năm chỉ kiểm tra một lần và phải được Chủ
tịch tỉnh quyết định.
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
• Tín dụng trong lĩnh vực nuôi trồng thuỷ sản ở Quảng Ngãi
(Trích dẫn từ bài:Thực trạng và giải pháp mở rộng tín dụng nuôi trồng thuỷ sản_Võ
Mười )
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế nông nghiệp nông
thôn nói chung, nuôi trồng thuỷ sản (NTTS) nói riêng đang ngày càng được phát huy mạnh
mẽ, thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn tạo điều kiện
khai thác tốt các tiềm năng, nhân lực tài nguyên.
Nhưng triển khai tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn:
- Mức vay theo tỷ lệ không đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho các hộ vay vốn, các tổ
chức kinh tế nông thôn vì: thứ nhất, họ chưa có đủ giấy tờ hợp pháp để làm thủ tục thế chấp
vay vốn ngân hàng; thứ hai, khung giá đất theo quy định của UBND tỉnh thấp hơn nhiều so
với giá thị trường.
- Phần lớn các chủ dự án đều không đủ điều kiện vay vốn, mặc dù các dự án nuôi hay
bán thâm canh tôm, cá lồng bè mang lại hiệu quả kinh tế cao vì: theo điểm d, Điều 15 Nghị
định 178/1999/NĐ_CP quy định “có mức vốn tự có tham gia vào dự án giá trị tài sản bảo
đảm tiền vay bằng các biện pháp cầm cố thế chấp tối thiểu bằng 50% vốn đầu tư của dự án”
là quá cao.
- Nghị định 178/CĐ-CP quy định “Tài sản hình thành vốn vay dùng bảo đảm tiền vay
phải xác định được quyền sở hữu”, nhưng trong tài sản như máy móc, thiết bị gắn liền với
nhà xưởng được hình thành từ vốn vay không phải đăng ký quyền sở hữu theo quy định của
pháp luật. Do vậy, các TCTD không thể mạnh dạn cho vay đối với các chủ dự án cầm cố, thế
chấp máy móc, thiết bị hình thành từ vốn vay.

.-Trong cho vay NTTS, phần lớn tài sản thế chấp tại các TCTD là quyền sử dụng đất và
tài sản gắn liền với đất, nhưng các thủ tục thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và bất động
sản theo quy định hiện hành còn phức tạp, thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành chức
năng, và việc bán tài sản trên phải được sự chấp thuận của UBND tỉnh, thành phố nên hạn
chế quá trình đầu tư tín dụng.
- Trình độ khoa học kỹ thuật, năng lực quản lý kinh tế của các hộ NTTS còn hạn chế dẫn
đến sản xuất kém hiệu quả, rủi ro trong vay cao nên các TCTD chưa mạnh dạn đầu tư.

×