Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH CỔ TỨC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.25 KB, 34 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH SÁCH CỔ TỨC
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1 Khái niệm và đặc điểm của Công ty cổ phần:
Nền kinh tế thị trường trên thế giới từ khi thai nghén đến lúc phát triển
trong mấy trăm năm đã từng bước hình thành ba loại hình doanh nghiệp cơ
bản: Doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp theo chế độ hùn vốn và doanh
nghiệp theo chế độ Công ty.
Sự diễn biến của các loại doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cận
đại và hiện đại đã thể hiện sự hoàn thiện từng bước và sự chín muồi của loại
hình Công ty. Sự phôi thai của Công ty bắt đầu từ thế kỷ 15. Thời đó, thương
mại, buôn bán ở vùng ven biển Địa Trung Hải tương đối phát triển, chiếm địa
vị chi phối trên thị trường.
Tới thế kỷ thứ 16, do ảnh hưởng của thương mại quốc tế phát triển và
chính sách của chủ nghĩa trọng thương đã xuất hiện ở Anh một loạt Công ty
thương mại góp cổ phần nhằm phát triển buôn bán hải ngoại và cướp đoạt các
nước thuộc địa. Cùng với nước Anh, ở Hà Lan và Pháp cũng lần lượt xuất hiện
những công ty như vậy là pháp nhân độc lập, có năng lực pháp lý, một loại
hình tổ chức công ty góp cổ phần ổn định, vốn cổ phần trở thành đầu tư dài
hạn, cổ phiếu chỉ có thể chuyển nhượng mà không được rút vốn, lợi tức cổ
phiếu được trả theo định kỳ, thị trường buôn bán chuyển nhượng cổ phiếu
cũng bắt đầu xuất hiện- tiền thân của thị trường chứng khoán.
Từ thế kỷ thứ 18 đến nửa cuối thế kỷ 19 loại hình công ty cổ phần đã
được phát triển nhanh chóng ở Pháp, Đức, Mỹ không những chỉ kinh doanh
thương mại mà còn ở các ngành ngân hàng, giao thông vận tải , xây dựng
đường sắt, các ngành chế tạo cơ khí, khai thác mỏ, sự nghiệp công cộng và bảo
hiểm ở các nước tư bản phát triển, về sau xuất hiện ở các nơi trên thế giới.
Gần 400 năm đã trôi qua kể từ ngày công ty cổ phần đầu tiên trên thế giới
ra đời năm 1600 ở nước Anh. Do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công
nghệ sản xuất lúc bấy giờ đòi hỏi một số ngành phải thành lập những doanh
nghiệp mà số vốn để hoạt động vượt quá số vốn riêng lẻ của từng doanh
nghiệp tư nhân. Ngay cả số vốn mà tư nhân đi vay cũng không thể đáp ứng


được vì những doanh nghiệp này phải sau một thời gian hoạt động sản xuất
kinh doanh dài mới có thể đem lại một lượng lợi nhuận tối đa. Trong khi đó ở
từng cá nhân trong xã hội vẫn luôn có những khoản tiền nhàn rỗi ngắn hạn và
dài hạn. Sự tồn tại khách quan đó đã giúp các nhà doanh nghiệp giải quyết
được mâu thuẫn về tiền vốn bằng một hình thức sáng tạo là thành lập các
công ty cổ phần mà Mác đã chỉ rõ: "...Ngay trong buổi đầu của nền sản xuất đã
đòi hỏi một số tư bản tối thiểu mà lúc bấy giờ từng cá nhân riêng lẻ chưa thể
có được. Tình hình đó một mặt dẫn đến việc Nhà nước phải trợ cấp cho những
tư nhân như ở Pháp dưới thời Côn- Be, như một số công quốc ở Đức cho tới
ngày nay. Mặt khác, nó dẫn đến việc thành lập những hội nắm giữ độc quyền
do pháp luật thừa nhận để kinh doanh trong những ngành công nghiệp
thương nghiệp nhất định. Đó là tiền thân của những công ty cổ phần hiện
đại..."
1.1.1 Khái niệm công ty cổ phần:
Công ty cổ phần hay còn gọi là công ty hữu hạn cổ phần, ở Anh và Mỹ gọi
là Công ty công khai hay Công ty công chúng. Vốn đăng ký của công ty trên cơ
sở các loại cổ phần khác nhau góp vốn và thông qua phát hành cổ phiếu để thu
góp vốn. Công ty dùng toàn bộ tài sản của mình để bảo đảm tính pháp nhân đối
với tài sản nợ của công ty. So sánh với các loại hình công ty khác thì công ty cổ
phần là công ty góp vốn điển hình, pháp luật các nước xem nó là pháp nhân
độc lập. Nói một cách khác, công ty cổ phần là công ty được hình thành trên cơ
sở huy động vốn cá nhân bằng cách phát hành và bán cổ phiếu, trái phiếu, mỗi
chủ sở hữu chỉ hưởng quyền lợi và trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp
của mình. Lợi nhuận của công ty cổ phần được phân phối cho các cổ đông theo
số lượng cổ phiếu.
Vai trò, địa vị và tín nhiệm của cổ đông không có ý nghĩa khi gia nhập
công ty, vì bất kỳ người nào muốn bỏ vốn vào đều có thể trở thành cổ đông,
không hạn chế tư cách, cổ đông trở thành người chủ sở hữu cổ phiếu đơn
thuần, quyền lợi của họ chủ yếu thể hiện trên cổ phiếu, nó thay đổi tuỳ theo sự
thay đổi của cổ phiếu.

Vậy công ty cổ phần là một công ty có số vốn được chia làm nhiều phần
bằng nhau gọi là cổ phần và được thành lập gồm nhiều thành viên là cổ đông,
chỉ chịu lỗ lãi trong số vốn mà họ đã góp. Giấy chứng nhận cổ phần gọi là cổ
phiếu.
Công ty cổ phần là tế bào của nền kinh tế thị trường, là tổ chức rất phát
triển ở các nước tư bản chủ nghĩa như Mác đã đánh giá vai trò của công ty cổ
phần: ".. Nếu phải chờ đợi tư bản tư nhân tích tụ cho đến lúc nó đủ sức làm các
con đường sắt thì có lẽ cho đến ngày nay châu Âu vẫn chưa có đường sắt,
nhưng nhờ việc thành lập các công ty cổ phần cho nên việc ấy đã làm được dễ
dàng như trở bàn tay vậy..".
Công ty cổ phần với tư cách là công ty hợp vốn hay còn gọi là công ty đối
vốn, chứ không phải là công ty hợp doanh (công ty đối nhân) và yếu tố chủ yếu
là cần có tiền để mua cổ phiếu và trở thành cổ đông của công ty, là một tổ chức
kinh doanh do nhiều người cùng góp vốn lập ra để cùng hoạt động sản xuất
kinh doanh. Từ khái niệm trên, ta thấy có 3 nội dung pháp lý cần đặc biệt chú ý:
1. Công ty cổ phần phải do nhiều người thành lập (tối thiểu là 3)
2. Các hội viên đưa vốn của mình ra và góp vốn chung lại để kinh doanh.
Đó là vốn của các thành viên góp, không thể chuyển thành tài sản sở hữu
chung của các thành viên, song quyền sở hữu cá nhân của vốn góp không thay
đổi. Có nghĩa là công ty cổ phần trở thành người đi vay đặc biệt của các thành
viên, còn các thành viên lại trở thành người cho vay đối với công ty cổ phần.
Như vậy quyền sử dụng vốn của các thành viên cũng không còn nữa. Vậy ai là
người được sử dụng vốn chung đó? Người này là một chủ thể được lập ra theo
khế ước thành lập công ty cổ phần, đó là pháp nhân công ty, cho nên công ty cổ
phần phải được pháp luật thừa nhận thì mới có tư cách là một pháp nhân.
Tổng số vốn của công ty chia đều cho từng cổ phần có mức tiền bằng nhau, cổ
đông bỏ nhiều vốn sẽ chiếm nhiều cổ phiếu nhưng không thể tăng riêng lẻ mức
tiền vốn của từng cổ phiếu.
4. Mục đích của việc thành lập công ty cổ phần là để thu lợi nhuận và chia
cho các cổ đông. Cổ đông của công ty bất kể họ là ai đều phải có trách nhiệm

đối với công ty, không thể trả cổ phiếu nhằm bảo đảm ổn định vốn của công ty.
Đây là những nội dung cơ bản gắn liền với công ty cổ phần, từ lúc hình
thành, phát triển cho đến khi giải thể. Ngoài ra, cũng như các thành phần kinh
tế khác, công ty cổ phần cũng có những đặc điểm chung tương tự như các công
ty trách nhiệm hữu hạn và những đặc trưng riêng của loại hình công ty cổ
phần.
1.1.2 Đặc điểm của Công ty cổ phần
Mô hình tổ chức các doanh nghiệp dưới dạng công ty có một lịch sử phát
triển lâu dài đi từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến
quy mô lớn, từ giản đơn đến phức tạp, từ một người sở hữu đến nhiều người
sở hữu, từ công ty hợp doanh đến Công ty hợp vốn, từ Công ty trách nhiệm vô
hạn đến công ty trách nhiệm hữu hạn, từ công ty quốc gia đến công ty đa quốc
gia. Công ty cổ phần là một doanh nghiệp được thành lập theo đúng pháp luật
của nhà nước, nhà nước phê duyệt điều lệ hoạt động của công ty, đó là tài liệu
pháp lý mà nhà nước cho phép thành lập công ty cổ phần.
Công ty cổ phần có 4 đặc trưng cơ bản sau:
1. Trách nhiệm pháp lý hữu hạn: Nghĩa là những cổ đông chỉ trịu trách nhiệm về
những công nợ của công ty trong phần vốn đóng góp của mình. Nếu công ty bị
phá sản hoặc giải thể, chủ nợ của công ty chỉ có thể đòi nợ trên cơ sở số tài sản
của công ty chứ không có quyền đòi nợ trực tiếp cổ đông.
2. Tính có thể chuyển nhượng của cổ phiếu: Nói chung các cổ phiếu có thể tự do
mua bán, khi người ta có tiền nhàn rỗi họ có thể mua cổ phiếu để hi vọng kiếm
được cổ tức. Song khi họ cần tiền, họ không thể bắt công ty hoàn lại vốn đã
mua cổ phiếu, nhưng họ có thể bán cổ phiếu ấy cho một người khác trên thị
trường chứng khoán.
3. Tư cách pháp nhân: Mọi công ty cổ phần đều có tư cách pháp nhân, có đăng ký
hoạt động, có con dấu riêng, có quyền ký kết các hợp đồng sản xuất kinh doanh
với các đơn vị khác. Công ty có quyền đi kiện và bị kiện (nếu vi phạm pháp
luật). Công ty được trao đổi ở Sở giao dịch chứng khoán trên thị trường, công
ty có thể công khai phát hành cổ phiếu và có thể chuyển nhượng tự do trên thị

trường chứng khoán.
4. Thời gian không hạn định: Nói chung thời gian tồn tại của một công ty cổ phần
dài hơn khả năng đóng góp của từng cổ đông. Đó chính là ưu thế quan trọng
của công ty cổ phần. Nhờ ưu thế này mà các công ty mới có khả năng tập trung
sức lực vào việc đẩy mạnh hiệu quả sản xuất - kinh doanh.
Ngoài 4 đặc trưng cơ bản trên, người ta còn có thể nhận thấy điểm khác
biệt rõ ràng giữa công ty cổ phần với các loại hình công ty khác, đặc biệt là khi
so sánh với công ty trách nhiệm hữu hạn, là ở tính "mở" của nó. Nếu như các
công ty trách nhiệm hữu hạn thường là một pháp nhân mang tính "đóng"-
nghĩa là các thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn thường là thành viên
trong một gia đình hoặc một nhóm người có sự quen biết, tin cậy lẫn nhau thì
công ty cổ phần lại được coi là có tính "mở"- thể hiện ở việc nó có thể bán cổ
phần của mình cho cả nhà đầu tư mà thậm chí không mấy quan tâm đến công
ty. Qua nghiên cứu, một số người cho rằng lý do khiến các nhà đầu tư lựa chọn
loại hình công ty cổ phần là: thứ nhất, các nhà đầu tư không phải chịu trách
nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty, do đó, công ty có thể đầu tư
vào ngành nghề kinh doanh mang tính rủi ro cao như ngành sản xuất, chế
biến; thứ hai, nhà đầu tư có thể chỉ đơn thuần là người góp vốn, không phải
chịu trách nhiệm vô hạn, không cần phải tham gia quản lý, điều hành công ty,
đồng thời dễ dàng rút lui khỏi hoạt động kinh doanh bằng việc chuyển nhượng
phần vốn góp của mình một cách tự do.
Mặc dù những đặc trưng của công ty cổ phần đã thể hiện những lợi thế,
song bên cạnh đó, công ty cổ phần cũng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho những
người tham gia góp vốn và người quản lý công ty hay mua bán cổ phiếu, thậm
chí có thể gây ra những rủi ro cho nền kinh tế nếu như việc sử dụng các
phương tiện tài chính mạnh mẽ này không nhằm vào mục đích chung.
* Các công ty cổ phần ở Việt Nam:
Nước ta do ảnh hưởng của nền kinh tế Liên Xô và Đông Âu xây dựng theo
một mô hình tổ chức quản lý thống nhất từ Trung ương tới cơ sở doanh
nghiệp với cơ chế gắn chặt bộ máy của Đảng, đoàn thể quần chúng và Nhà

nước (người ta thường gọi là "bộ tứ"), lấy tinh thần làm chủ tập thể trên cơ sở
động viên chính trị làm chính. Do vậy bộ máy điều hành từ Trung ương đến các
doanh nghiệp trên cơ sở kế hoạch hoá tập trung bao cấp, lao động được coi là
có tính chất xã hội trực tiếp, Nhà nước thu tất cả và chi tất cả. Với các tiền đề
trên, mỗi doanh nghiệp quốc doanh có nhiệm vụ sản xuất được chuyên môn
hoá theo ngành kinh tế - kỹ thuật; Giám đốc chỉ biết điều hành sản xuất và lo
giao nộp sản phẩm đúng số lượng và thời gian quy định, không cần biết các
sản phẩm đó được tiêu thụ ra sao (việc tiêu thụ hàng hoá trong nước là do các
công ty thương nghiệp, hoặc công ty vật tư... đảm nhiệm; còn hàng hoá xuất
nhập khẩu thì do cơ quan xuất nhập khẩu thuộc Bộ Ngoại thương cũ phụ
trách), hoàn toàn tách biệt sản xuất với tiêu thụ ngược hẳn với cơ chế thị
trường.
Ngày 21/12/1990 Quốc Hội ta đã thông qua Luật Công ty. Đây là một mốc
quan trọng trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN.
Ngày 02/01/1991 Hội đồng Nhà nước đã công bố Luật công ty của Việt
Nam quy định hai hình thức tổ chức công ty ở Việt Nam: công ty trách nhiệm
hữu hạn và Công ty cổ phần. Cả hai loại công ty này đều được định nghĩa theo
Luật là " doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau
lợi nhuận, cùng chia lỗ tương ứng với phần góp vốn và chỉ chịu các khoản nợ
của công ty trong phần vốn của mình góp vào công ty"
Để phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá mà
các kỳ họp Đại hội Đảng toàn quốc đề ra, đẩy mạnh quyền tự do bình đẳng
trứoc pháp luật trong kinh doanh của các doanh nghiệp, tăng cường hiệu lực
quản lý Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh, Quốc hội đã thông qua
Luật doanh nghiệp ngày 12/6/1999 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2000.
Kể từ đó, Luật doanh nghiệp được coi là văn bản pháp quy có giá trị lớn nhất
quy định trách nhiệm và quyền lợi của các loại hình doanh nghiệp, trong đó
bao gồm cả công ty cổ phần.

1.2 Chính sách cổ tức của công ty cổ phần
1.2.1 Khái niệm cổ tức và chính sách cổ tức:
Trước khi nghiên cứu những vấn đề về cổ tức, ta hãy xem cổ phần, cổ
phiếu trong công ty cổ phần được định nghĩa như thế nào.
* Cổ phần:
Vốn điều lệ của Công ty cổ phần được chia thành nhiều phần bằng nhau
và mỗi phần này được gọi là cổ phần. Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ
thông; người sở hữu cổ phần phổ thông gọi là cổ đông phổ thông.
Công ty cổ phần cũng có thể có cổ phần ưu đãi; người sở hữu cổ phần ưu
đãi gọi là cổ đông ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm có:
 Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biểu quyết nhiều
hơn so với cổ phần phổ thông, do điều lệ công ty quy định.
 Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức với mức cao hơn
so với mức cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm.
 Cổ phần ưu đãi hoàn lại là cổ phần sẽ được công ty hoàn lại vốn
góp bất kỳ khi nào theo yêu cầu của người sở hữu hoặc theo các điều kiện
được ghi lại tại cổ phiếu của cổ phần ưu đãi hoàn lại.
 Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định.
Sở dĩ phải nghiên cứu các loại cổ phần bởi vì khi phân chia cổ tức, hội
đồng quản trị của công ty cổ phần luôn luôn phải đảm bảo lợi ích của các cổ
đông đặc biệt, tức là những cổ đông đang nắm giữ những cổ phần ưu đãi. Họ
có thể là cổ đông sáng lập, hoặc là những cổ đông có vai trò đặc biệt quan
trọng mà công ty cần phải giữ mối quan hệ, do đó, mặc dù số lượng cổ đông
này không nhiều, song họ cũng là những thành phần không thể thiếu khi nói
đến công ty cổ phần.
* Cổ phiếu:
Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp
đối với thu nhập và tài sản của một công ty cổ phần.
Cổ phiếu được chia thành 2 loại cơ bản là cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu

đãi, tương ứng với cổ phần phổ thông và cổ phần ưu đãi.
Cổ phiếu thường là cổ phiếu mà người sở hữu có thể tham gia Đại hội cổ
đông của Công ty cổ phần và được hưởng lợi tức cổ phần theo nguyên tắc " Lời
ăn lỗ chịu" vì lợi tức cổ phần này phụ thuộc rất nhiều vào lợi nhuận của Công
ty cổ phần trong năm đó. Người mua cổ phiếu thường phải chấp nhận tính
mạo hiểm rủi ro, cho nên cần suy tính kỹ, xem xét thực trạng hoạt động sản
xuất kinh doanh và phát triển của Công ty cổ phần mà mình có ý định mua cổ
phiếu (đối với các công ty cổ phần đã tham gia niêm yết trên thị trường chứng
khoán). Cổ phiếu thường gồm có:
 Cổ phiếu tiền: Cổ đông góp bằng tiền mặt, góp tối thiểu là một nửa
mệnh giá cổ phiếu khi thành lập công ty, phần còn lại góp theo sự góp vốn công
ty. Theo luật của một số nước như Pháp thì thời hạn tối đa để gọi hết vốn công
ty cổ phần là 5 năm. Còn trong luật công ty cổ phần Việt Nam chưa thấy đề cập
đến giới hạn tối đa này.
 Cổ phiếu hiện vật: Cổ đông góp bằng hiện vật hay bản quyền sở
hữu công nghiệp, phải góp đủ 100% ngay khi thành lập công ty. Theo thông lệ
quốc tế các cổ phiếu hiện vật phải là cổ phiếu ký danh và không giao ngay cho
cổ đông mà gửi lại tại gốc trong vòng 2 năm (để đảm bảo tính chân thực và
trách nhiệm trong việc đánh giá giá trị hiện vật dùng để mua cổ phiếu).
Cổphiếu ưu đãi: Là cổ phiếu mà người mua được hưởng một số quyền lợi
đặc biệt nào đó về quyền lực hoặc về kinh tế.
 Cổ phiếu ưu đãi về quyền lực (biểu quyết) thường là của những cổ
đông giữ các cương vị lãnh đạo trong các cơ quan quản lý công ty như Hội
đồng quản trị, Hội đồng kiểm soát, Giám đốc hiện hành... Mức độ ưu đãi, thời
gian có hiệu lực và mọi thể thức thực hiện đều do điều lệ của Công ty quyết
định như được hưởng siêu lợi tức cổ phần hay được chia các khoản dự trữ và
thanh lý lúc giải thể công ty. Cổ phiếu ưu đãi về quyền lực bảo đảm cho cổ đông
có nhiều quyền lực hơn trong việc bàn bạc và quyết định mọi công việc của
công ty.
 Cổ phiếu ưu đãi về kinh tế (cổ tức, hoàn lại) thường dành cho

những cổ đông có nhiều cống hiến và làm việc lâu năm ở công ty, có thể đã
nghỉ hưu, như được ưu tiên hoàn vốn trước cổ đông thường hoặc có thể được
chia lãi theo tỷ lệ cố định theo điều lệ quy định.
Ngoài 2 loại cổ phiếu trên, các công ty cổ phần còn có một loại cổ phiếu
quỹ, đây là loại cổ phiếu của chính công ty đã phát hành và được công ty mua
lại bằng nguồn vốn hợp pháp theo quy định.
* Cổ tức:
Cổ tức là số tiền hàng năm được trích từ lợi nhuận của công ty để trả cho
mỗi cổ phần mà các cổ đông đang nắm giữ, phần lợi nhuận này phải tương
ứng với số lượng cổ phần mà họ đang có.
Theo lý thuyết, cổ tức được coi là khoản lãi chia cho mỗi cổ phần hàng
năm dựa trên kết quả hoạt động kinh doanh của DN. Cổ tức theo đó là tỷ lệ
phần trăm tính trên mệnh giá cổ phiếu. ở đây, cần phân biệt thị giá cổ phiếu là
giá trị thị trường của mỗi cổ phiếu có thể trao đổi trên thị trường chứng khoán
tại thời điểm nhất định. Hay nói cách khác, thị giá cổ phiếu là giá có thể bán
hoặc mua trên thị trường chứng khoán tại một thời điểm nhất định. Thị giá cổ
phiếu không phụ thuộc mệnh giá cổ phiếu mà phụ thuộc:
+ Hoạt động của Công ty
+ Tốc độ tăng trưởng của Công ty
+ Xu hướng phát triển của Công ty
+Các chính sách kinh tế của chính phủ
+ Các nhân tố mang tính chất tự nhiên và xã hội.
+ Cũng như các loại giá cả khác, thị giá cổ phiếu cũng chịu sự điều
tiết của quy luật cung cầu trên thị trường, nạn đầu cơ tích trữ...
Thí dụ, mệnh giá 1 cổ phiếu của tập đoàn MICROSOFT trong thời điểm
bắt đầu phát hành năm 1975 là 10$ nhưng đến năm 1998, thị giá cổ phiếu này
được xác định theo chỉ số DOWNJOHN quy đổi là 189,7$, tức là có thể mua cổ
phiếu đó với giá là 189,7 $.
Trị giá cổ phiếu được xác định trên cơ sở xác định giá trị của doanh
nghiệp và cũng chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố. Thí dụ, một DN cổ phần ban

đầu phát hành 1.000 cổ phiếu với mệnh giá là 100.000 đồng, giá trị doanh
nghiệp sẽ là 100.000.000 đồng. Sau ba năm hoạt động, giá trị tài sản tích luỹ
được bổ sung hàng năm làm tổng tài sản của doanh nghiệp lên đến
200.000.000 đồng. Với một phép tính thuần tuý, ta có thể thấy giá trị cổ phiếu
lúc này không còn là 100.000 đồng nữa mà là 200.000 đồng. Tuy nhiên, thị giá
của cổ phiếu có thể không phải là con số này. Sau khi xem xét các nhân tố tác
động, thị trường chứng khoán xác định thị giá cổ phiếu này. Chẳng hạn, nếu
Công ty cổ phần đó có tốc độ tăng trưởng hàng năm 10% và xu hướng còn cao
hơn, ngành nghề mà Công ty đang hoạt động có xu hưóng phát triển mạnh, sản
phẩm có vị trí và danh tiếng trên thị trường... thì thị giá xác định có thể là
220.000 đồng.Tuy nhiên, nếu công ty bắt đầu lâm vào tình trạng làm ăn sa sút,
sản phẩm không tiêu thụ được, ngành nghề đang bị Nhà nước thu hẹp, không
có khả năng phát triển thì thị giá có thể xuống tới 150.000 đồng, thậm chí còn
xuống thấp hơn mệnh giá. Hãng sản xuất hàng tiêu dùng nổi tiếng NESTLE
(Thuỵ Sĩ), sau khi thị trường thế giới loan ra một thông tin là sản phẩm bánh
ngọt của hãng này có chứa những vi khuẩn nhiễm độc, lập tức thị giá cổ phiếu
tại thời điểm đóng cửa so với thời điểm mở cửa của Công ty giảm 18,9%.
(Nguồn:Các thông tin thị trường chứng khoán thế giới-www.aol.com)
Cũng theo nguyên tắc trên, thì cổ tức sẽ được thanh toán dựa trên cơ sở
mệnh giá cổ phiếu được thẩm định qua Uỷ ban chứng khoán và được niêm yết
trên thị trường chứng khoán. Hàng năm, trên cơ sở lợi nhuận sau thuế,Hội
đồng quản trị Công ty sẽ quyết định trích một phần lợi nhuận chia đều cho các
cổ đông, phần còn lại được tái đầu tư. Hiện tại, các công ty cổ phần của Việt
Nam cũng đang áp dụng hình thức này. Tuy nhiên, do còn hạn chế trong công
khai tài chính, các cổ đông chỉ biết tỉ lệ cổ tức công bố chứ chưa được biết đầy
đủ về tình hình kinh doanh của Công ty và theo đó không đủ cơ sở để đánh giá
tỷ lệ cổ tức được công bố có hợp lý hay không, xu hướng phát triển của công ty
ra sao?
Việc đánh giá đúng trị giá cổ phiếu, thị giá cổ phiếu, cơ sở tính toán cổ tức
hàng năm đang là vấn đề đặt ra trước Uỷ ban chứng khoán nhà nước và là

vấn đề cơ bản của mỗi công ty cổ phần mặc dù một số công ty đã bắt đầu lựa
chọn một chính sách cổ tức thích hợp song đây là một vấn đề khá mới mẻ đối
với phần lớn các công ty.
Mỗi công ty hoạt động kinh doanh có thể trả cổ tức theo một tỷ lệ nhất
định hoặc giữ lại cổ tức này cho hoạt động đầu tư nếu được cổ đông chấp
thuận thông qua Đại hội cổ đông hàng năm. Thậm chí các công ty cổ phần còn
có quyền trả cổ tức dưới nhiều dạng, nếu được Đại hội cổ đông chấp nhận.
Thông thường, các công ty cổ phần thường lựa chọn trả cổ tức bằng tiền mặt
theo quý, theo tháng hoặc định kỳ. Việc trả cổ tức bằng tiền mặt có nhiều thuận
lợi, nhất là đối với những cổ đông chỉ mong muốn nhận được tiền lãi hàng
năm đối với phần vốn mà mình đóng góp; tuy nhiên, ở một số công ty lớn, đặc
biệt là ở các nước phát triển, trả cổ tức bằng cổ phiếu lại được ưa chuộng
hơn, có lẽ một phần là do thị trường chứng khoán ở các nước này khá phát
triển và hấp dẫn các nhà đầu tư hơn là những khoản tiền mặt nhỏ.
Mọi cổ đông đều có quyền được nhận cổ tức theo quyết định của Đại hội
đồng cổ đông. Tuy nhiên, tuỳ theo tính chất của số cổ phần mà cổ đông nắm
giữ, cổ tức được chi trả dưới các hình thức khác nhau. Cổ đông sở hữu cổ phần
ưu đãi cổ tức được ưu tiên trả cổ tức với mức cao hơn so với mức cổ tức của
cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm và mức cổ tức này bao gồm cổ
tức cố định và cổ tức thưởng, trong đó cổ tức cố định hoàn toàn không phụ
thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty. Tuy nhiên, cổ đông sở hữu cổ phần
ưu đãi biểu quyết lại không được nhận ưu đãi về cổ tức như cổ phần ưu đãi cổ
tức.
* Chính sách cổ tức:
Một doanh nghiệp tồn tại và phát triển vì nhiều mục tiêu khác nhau như:
tối đa hóa lợi nhuận, tối đa hoá doanh thu trong ràng buộc tối đa hoá lợi
nhuận, tối đa hóa hoạt động hữu ích của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp v.v..
song tất cả các mục tiêu cụ thể đó đều nhằm mục tiêm bao trùm nhất là tối đa
hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu. ở các công ty cổ phần, mục tiêu tối đa
hoá giá trị tài sản cho các chủ sở hữu này thể hiện ở giá của cổ phiếu trên thị

trường, do đó, mục tiêu tăng tối đa giá cổ phiếu trên thị trường chính là cái
đích cuối cùng của các công ty cổ phần khi tiến hành hoạt động kinh doanh.
Tuy nhiên trong thực tế, hoạt động kinh doanh không đơn thuần chỉ là việc đặt
ra mục tiêu trước mắt, mà phải kết hợp chặt chẽ các quyết định tài chính, bao
gồm: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn, quyết định về phân phối,
ngân quỹ. Bản thân các quyết định tài chính này cũng có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau và buộc các nhà quản lý phải cân nhắc các yếu tố bên trong và bên
ngoài để đưa ra các quyết định làm tăng giá trị tài sản của chủ sở hữu, hay
tăng giá cổ phiếu của công ty cổ phần trên thị trường.
Muốn thực hiện kế hoạch đầu tư, bên cạnh việc tính toán độ khả thi của
dự án, các công ty luôn phải đứng trước vấn đề nguồn vốn. Doanh nghiệp có
thể có được vốn bằng cách nào để đầu tư dài hạn? Thông thường doanh
nghiệp có thể lựa chọn 3 cách huy động vốn để đầu tư:
o Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia
o Phát hành cổ phiếu - trái phiếu
o Huy động nợ thông qua tín dụng ngân hàng và tín dụng
thương mại.
Trong thực tế, các doanh nghiệp thường sử dụng linh hoạt 3 phương thức
trên sau khi đã cân nhắc lợi - hại của từng phương thức huy động. Chẳng hạn
nếu như huy động nợ để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp sẽ luôn phải chịu một áp lực rất lớn từ phía các chủ nợ, ở đây có thể là

×