Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.93 KB, 23 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DNNQD
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái quát về doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
1.1.1 Khái niệm về DNNQD:
Đối với bất kì một quốc gia nào, nền kinh tế cũng không thể thiếu các doanh
nghiệp. Đây là lực lượng tạo ra khối lượng sản phẩm và của cải lớn cho xã hội.
Vậy thế nào là một Doanh nghiệp?
Có thể hiểu Doanh nghiệp là thuật ngữ chỉ các tổ chức kinh tế, được thừa nhận
về mặt pháp lí trên một số tiêu chuẩn nào đó. mỗi doanh nghiệp hoạt động ở
một nghành nghề nhất định nhằm mục đích thu lợi nhuận (gọi là các doanh
nghiệp vị lợi nhuận) hoặc để thu được lợi ích xã hội nào đó (gọi là các Doanh
nghiệp phi lợi nhuận).
Hiện nay, có nhiều loại Doanh nghiệp cùng tồn tại trong một nền kinh tế.
Theo cách phân loại dựa vào hình thức sở hữu của luật Doanh nghiệp số
13/1999/QH10 vào ngày 12-6-1999, các doanh nghiệp gồm có: Doanh nghiệp
Quốc Doanh và Doanh nghiệp ngoài Quốc Doanh.
Trong đó DNNQD là những cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập đã được
đăng kí kinh doanh theo pháp luật hiện hành trong đó vốn góp của nhà nước
không được vượt quá 49% tổng số vốn góp của doanh nghiệp. Tức DNNQD là
những doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu của một cá nhân hoặc của một nhóm
người có vốn và tài sản đầu tư vào doanh nghiệp, tự tổ chức hoạt động, tự chịu
trách nhiệm kết quả kinh doanh và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Theo quy định trên, nền kinh tế nước ta gồm các loại hình DNNQD như
sau:
1.1.1.1 Công ty trách nhiệm hữu hạn: Gồm có hai loại công ty trách nhiệm hữu
hạn như sau:
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên: Là doanh nghiệp mà chủ sở
hữu là một tổ chức có tư cách pháp nhân. Tổ chức này phải tự chịu trách nhiệm
về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi
số vốn điều lệ đã được quy định. Các công ty này không được phép phát hành
cổ phiếu để huy động vốn


+ Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên: Là các doanh nghiệp có ít nhất
2 thành viên, nhiều nhất là 50 thành viên tham gia góp vốn. Các thành viên phải
chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp
trong phạm vi vốn góp của mình. Các thành viên khi được chia lợi nhuận cũng
dựa vào tỉ lê vốn góp. Cũng giống công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,
các công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên không được phép phát hành cổ
phiếu để huy động vốn.
1.1.1.2. Doanh nghiệp tư nhân:
Là Doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm bằng toàn bộ
tài sản của mình về hoạt động của DN cũng như chịu trách nhiệm trước pháp
luật.
1.1.1.3. Công ty hợp danh:
Là những doanh nghiệp được thành lập dựa trên vốn góp của ít nhất hai
thành viên có trình độ chuyên môn và uy tín. Các thành viên hợp danh này phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với mọi hoạt động của công
ty.
1.1.1.4. Hợp tác xã:
Là tổ chức kinh tế tập thể do các cá nhân, hộ gia đình pháp nhân có nhu
cầu, lợi ích chung tự nguyện góp vốn, góp sức lập ra để phát huy sức mạnh tập
thể của từng xã viên tham gia hợp tác xã.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh:
Nền kinh tế nước ta trải qua thời kì bao cấp kéo dài, các doanh nghiệp
quốc doanh chỉ mới được ra đời và phát triển hơn 20 năm nay nhưng với sự
đa dạng, linh hoạt trong kinh doanh, tham gia vào nhiều ngành nghề kinh tế
đã khẳng định vai trò của DNNQD đối với sự phát triển của nền kinh tế:
- DNNQD với việc mở rộng, đa dạng ngành nghề kinh doanh đã tạo ra lượng
công ăn việc làm lớn trong xã hội, khai thác mọi nguồn lực của đất nước nhất
là nguồn lực con người để cùng nhà nước giảm gánh nặng thất nghiệp cũng
như để phân bố lại lực lượng lao động ngày càng hợp lí hơn.
- Trước đây, với sự độc chiếm của DNQD thuộc sở hữu nhà nước đã gây ra

sự trì trệ, kém phát triển của nền kinh tế nước ta. Sự ra đời của các doanh
nghiệp ngoài quốc là giải pháp để bù đắp những thiếu hụt, hạn chế của các
DNNN để lại. DNNQD ra đời sẽ tạo ra lượng hàng hoá, dịch vụ dồi dào cho
xã hội, cung sẽ vượt cầu từ đó người tiêu dùng sẽ lựa chọn sản phẩm theo
nhu cầu của mình, tạo ra sự cạnh tranh lớn giữa DNNQD với DNNN, cũng
như trong nội bộ các DNNQD từ đó chất lượng sản phẩm sẽ tăng lên,sức
cạnh tranh với hàng hoá nước ngoài cũng tăng lên, thúc đẩy sự phát triển
kinh tế. Mặt khác, các DN sẽ cố gắng huy động hết mọi nguồn lực của đất
nước để tạo nên lợi thế của riêng mình, tăng sức cạnh tranh để thúc đẩy nền
kinh tế phát triển.
- Thuế TNDN chính là một nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước và các
DNNQD hàng năm tạo ra lợi nhuận rất lớn là đối tượng đánh thuế TNDN
quan trọng của nhà nước. Mỗi năm DNNQD đóng khoảng 45% NSNN, nhà
nước sử dụng nguồn thu này để phục vụ cho hoạt động của các DNNQD nói
riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung: Thông qua việc nâng cao cơ sở hạ
tầng, xây dựng các công trình công cộng, các công trình trọng điểm. Từ đó
tạo điều kiện cho mọi ngành, mọi thành phần kinh tế cùng phát triển.
- Với sự ra đời của các DNNQD thì sự canh tranh giữa các DN ngày càng
lớn bắt buộc các DN phải không ngừng đổi mới công nghệ, ứng dụng nhanh
các thành tựu khoa học kĩ thuật vào sản xuất. Do vậy các DNNQD là lực
lượng đi đầu trong công cuộc dịch chuyển nền kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
1.1.3. Đặc điểm của DNNQD:
- Tốc độ gia tăng của DNNQD ngày càng nhanh: kể từ sau hội nghị TW
Đảng khoá VI (1986), đất nước ta chuyển từ mô hình kinh tế nhà nước tập
trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì các DNNQD cũng phát triển
ngày càng rầm rộ. Điều này được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Số lượng các DNNQD ở một số năm.:
n
ăm

199
1
1999 2000 2002 2004 2006
Số
lượng
414
30.50
0
44.94
3
54.64
2
82.00
0
105.00
0
Tốc độ
tăng
trưởng
(%/năm
)
21 30 21.8 22 25.5
25.5
( Nguồn: Niên giám thống kê năm 2006)
Rõ ràng các DNNQD ngày càng được tăng lên về số lượng đặc biệt là giai
đoạn sau năm 2000, khi nhà nước đã ban hành luật DN để thay thế cho luật
công ty đã bị lỗi thời. Không chỉ tăng về số lượng mà chất lượng các
DNNQD cũng ngày càng được nâng cao lên. Ban đầu DNNQD chỉ được
thành lập một cách tự phát, chủ yếu là các DN nhỏ lẻ, ít lao động, máy móc
thiết bị hết sức thô sơ nhưng hiện nay trước yêu cầu phát triển mới của đất

nước thì chất lượng của DN cũng không ngừng được cải thiện. Các DN có
quy mô ngày càng lớn, làm ăn có chiều sâu, tạo ra nhiều công ăn việc làm
hơn. Chính sự làm ăn có hiệu quả của các DNNQD đã làm thay đổi tư duy
của những con người chèo lái con thuyền kinh tế nước ta, giúp họ nhận thức
nhiệm vụ cấp bách để phát triển nền kinh tế nói riêng và toàn bộ đất nước nói
chung là phải tiến hành cổ phần hoá (CPH) các DNNN, trở thành các DN,
các công ty cổ phần làm ăn có hiệu quả hơn. Hiện nay, chúng ta đã CPH
được 4000 DNNN. Số lượng DNNN được CPH chưa nhiều song là tiền đề
để chúng ta hoàn thành tốt công cuộc CPH.
- Các DNNQD tuy đã được nhà nước khuyến khích thành lập và phát triển
nhưng trong quá trình phát triển của mình vẫn chịu nhiều khó khăn, thiệt
thòi. Nhà nước đặc bịêt ưu ái đối với các DNNN, các ngành nghề kinh tế
quan trọng đều bị các DNNN độc quyền, các DNNQD không thể chen chân
với những ngành nghề nhiều lợi nhuận như ngành điện, ngành dầu khí,
ngành viễn thông... Mặt khác, các chính sách của nhà nước cũng thiếu đồng
bộ, chưa đầy đủ để các DNNQD yên tâm đầu tư phát triển, giảm thiểu rủi ro.
Đặc biệt tệ quan liêu, hạch sách của các cơ quan quản lí kinh tế đã gây ra
nhiều khó khăn trong việc đăng kí thành lập, trong hoạt động kinh tế làm cho
các DNNQD bỏ lỡ rất nhiều cơ hội đầu tư.Chính những điều đó đã làm tăng
chi phí sản xuất dẫn đến tăng giá bán sản phẩm, khả năng cạnh tranh của các
DNNQD giảm xuống. Thực tế đã có nhiều DNNQD chỉ vì những văn bản
pháp lí rắc rối, thiếu hợp lí làm quá trình kinh doanh trì trệ, làm ăn kém hiệu
quả và dẫn đến phá sản.
- Các DNNQD có điểm khác biệt đối với các DNNN đó là có số lượng lao
động ít hơn nhiều. Do các DNNQD chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực thương
mại và dịch vụ. Nên các DNNQD có số lượng lao động là không nhiều. Theo
thống kê chỉ có khoảng 1020 DN có số lượng lao động trên 100 người, số lao
động bình quân của DNNQD năm 2005 chỉ là 28 lao động. Đây là vấn đề mà
nhà nước cần quan tâm vì các DNNQD là bộ phận quan trọng để giảm bớt
gánh nặng về thất nghiệp cho nhà nước. Do đó cần thiết phải mở rộng quy

mô cho các DNNQD để thu hút được nhiều lao động hơn nữa. Một điểm cần
chú ý nữa là chất lượng lao động của các DNNQD. Thực tế cho thấy đa số
sinh viên có trình độ ra trường muốn vào các DNNN để có một việc làm ổn
định, được hưởng các chế độ bảo hiểm... Do vậy chất lượng lao động tại các
DNNQD vẫn còn thấp, đòi hỏi phải có các giải pháp cho vấn đề thu hút
nguồn nhân lực có chất lượng vào các DN này.
- Các DNNQD ngày càng tăng lên cả về số lượng và chất lượng, nhưng quy
mô tài chính của các DN còn rất nhỏ. Cụ thể chỉ có khoảng 30% DN có số
vốn trên 10 tỷ đồng, còn lại là DN có số vốn dưới 10 tỷ đồng, bình quân một
DNNQD có số vốn 7 tỷ/ DN, chiếm 26% về vốn và hơn 20% TSCĐ trong
các DN. Điều này cho thấy DNNQD ở nước ta chủ yếu là các DN vừa và
nhỏ, lượng vốn tự có của các DN chỉ đáp ứng được khoảng 35% yêu cầu đặt
ra. Với quy mô tài chính nhỏ bé sẽ giúp các DNNQD dễ dàng thích nghi với
sự biến động của thị trường, giúp dễ dàng thay đổi ngành nghề kinh doanh để
đáp ứng thị hiếu, nhu cầu của người tiêu dùng, tăng được khả năng cạnh
tranh trong mọi diễn biến của nền kinh tế trong nước và trên thế giới. Song
quy mô nhỏ đã làm cho DNNQD gặp rất nhiều khó khăn. Thứ nhất là, khả
năng đổi mới công nghệ, đào tạo nhân công, mở rộng sản xuất là rất khó do
công nghệ chủ yếu là công nghệ cũ, lạc hậu, máy sử dụng có tuổi đời cao
(trên 20 năm). Theo thống kê của viện quản lí kinh doanh trung ương năm
2003 chỉ có 25% DN sử dụng công nghệ tương đối hiện đại, 36.5% DN sử
dụng kết hợp công nghệ cổ truyền và hiện đại, còn lại sử dụng công nghệ cổ
truyền. Qua đây cho thấy năng suất lao động và chất lượng sản phẩm của các
DNNQD là chưa cao, đòi hỏi trong tương lai gần phải cải tổ lại một cách
toàn diện, sâu sắc. Thứ hai là, khả năng huy động được nguồn vốn tín dụng
từ các NHTM là rất nhỏ, chỉ nhận được khoảng 32% tổng mức tín dụng của
các NHTM. Từ đó sẽ khó cạnh tranh được với DNNN có quy mô tài chính
lớn hơn nhiều.
- Một khó khăn của DNNQD đó là thị trường tiêu thụ còn hết sức nhỏ bé,
một mặt là do chất lượng sản phẩm sản xuất ra còn thấp trong khi giá bán lại

cao để bù đắp chi phí cao, mặt khác là do hàng nhập lậu, hàng ngoại nhập
tràn lan với giá rẻ và DNNQD chưa có điều kiện để mở rộng thị trường trong
nước và quốc tế do vậy khả năng hiểu luật kinh doanh và luật kinh doanh
quốc tế còn nhiều hạn chế, dễ bị nuốt chửng và bị thâu tóm bởi các DN
mạnh, DN nước ngoài. Thực tế cho thấy, các DNNQD khó bán sản phẩm của
mình, hàng tồn kho, hàng ế là rất nhiều làm khả năng quay vòng vốn sản
xuất là rất chậm, thu không đủ bù chi dẫn đến khả năng phá sản là rất lớn đặc
biệt là các DNNQD mới được thành lập, DN kinh doanh trong những lĩnh
vực không được coi là truyền thống.
1.2. Khái quát về hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNNQD:
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm hoạt động cho vay của NHTM:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới nhu cầu về các dịch vụ thanh
toán, nhu cầu về vốn càng lớn cần thiết phải có một trung gian tài chính vừa
làm nhiệm vụ nhận tiền của khách hàng này cho khách hàng khác vay và
cung cấp các dịch vụ tiện ích cho hoạt động thanh toán. Ngân hàng thương
mại đã được ra đời để đáp ững những nhu cầu đó.
Như vậy, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ và hoạt động chủ yếu thường
xuyên là huy động tiền gửi với trách nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi sau đó sử
dụng số tiền huy động được để cho vay, thanh toán ... nhằm mục đích sinh
lời.
Qua đây ta thấy hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu đem lại lợi nhuận
cho các NHTM. Trong đó theo hình thức tín dụng thì tín dụng được chia
thành các loại như: cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính... mà hoạt động cho
vay là chủ yếu.
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM:
Cho vay là giao dịch bằng tiền giữa NHTM với bên đi vay (cá nhân , doanh
nghiệp...) thông qua một bản hợp đồng cho vay. Theo đó, NHTM phải
chuyển số tiền nhất định trong một khoảng thời gian nhất định cho bên đi
vay. Bên đi vay khi đã đến hạn kí kết thì phải trả cả gốc và lãi cho NHTM.
1.2.1.2. Đặc điểm hoạt động cho vay của NHTM:

- Cho vay dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau: Bên đi vay tin tưởng NHTM sẽ cho
vay đúng thời hạn, kịp thời để dễ dàng tìm kiếm cơ hội đầu tư. Bên NH hy
vọng bên đi vay sẽ trả đầy đủ cả gốc và lãi khi đến hạn để dảm bảo việc quay
vòng vốn, trả các nguồn huy động đến hạn.
- Cho vay dựa trên ngyên tắc hoàn trả: NH và khách hàng kí cam kết đến
thời hạn nhất định nào đó sẽ thanh toán đầy đủ cho nhau. Có nguyên tắc này
vì vốn để cho vay của NH chủ yếu là vốn huy động từ các nguồn khác nhau (
tiền gửi của những người thừa vốn, đi vay...) nên trong một thời gian nhất
định NH sẽ phải trả các nguồn huy động này. NH phải xem xét rất kĩ kì hạn
huy động vốn vá kì hạn cho vay thì mới đảm bảo an toàn cho hoạt động cho
vay của mình.
- Hoạt động cho vay tạo ra lợi nhuận lớn nhất cho NH nhưng cũng gặp nhiều
rủi ro nhất. Khi tiến hành cho vay thì bao giờ NH cũng xác định một chế độ
lãi suất cho vay phù hợp, đảm bảo lãi suất cho vay bao giờ cũng phải lớn hơn
lãi suất huy động vốn từ đó mới tạo ra lợi nhuận cho NH. Đây chính là
nguồn thu quan trọng nhất để NH bù đắp chi phí các hoạt động như: khấu
hao TSCĐ, trả lương cho công nhân viên, trả lãi tiền huy động vốn... Mặt
khác do hoạt động cho vay dựa vào cơ sở lòng tin nên gặp nhiều rủi ro khi
khách hàng không có khả năng trả nợ hoặc không muốn trả nợ hoặc rủi ro kì
hạn, rủi ro lãi suất. Khi tổn thất xảy ra thì làm giảm thu nhập dự tính, có thể
gây thua lỗ hoặc dẫn đến phá sản NH. Nên trước khi cho vay, NH luôn tiến
hành thẩm định, đánh giá khách hàng để hạn chế tối đa rủi ro xảy ra. Qua
đây ta thấy, NH phải có sự đánh đổi giữa lợi nhuận và rủi ro: kì hạn ngắn.
món vay nhỏ thì ít rủi ro song lợi nhuận lại không cao và ngược lại.
1.2.2. Các phương thức cho vay của NHTM đối với các DNNQD:
NH dựa vào nhiều tiêu chí để phân loại ra các phương thức cho vay. Cụ thể
có một số cách phân loại sau:
1.2.2.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay:
Có ý nghĩa quan trọng với NH vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an
toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng.

- Cho vay ngắn hạn: Là hoạt động tài trợ có thời hạn dưới 12 tháng nhằm để
tài trợ, bù đắp sự thiếu hụt về vốn lưu động và để đáp ứng nhu cầu sử dụng
vốn ngắn hạn của nhà nước, DN, hộ gia đình... Áp dụng cho vay theo hạn
mức, món hoặc cho vay trực tiếp, gián tiếp...
- Cho vay trung hạn: Là hoạt động cho vay từ trên 1 năm đến 5 năm, tài trợ
cho các TSCĐ như phương tiện vận tải, một số cây trồng vật nuôi, trang thiết
bị nhanh hao mòn.
- Cho vay dài hạn: Là hoạt động cho vay trên 5 năm, dùng để tài trợ cho các
công trình xây dựng lớn như: nhà xưởng, sân bay, cầu đường,máy móc thiét
bị có giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu dài...
1.2.2.2. Theo mức độ tín nhiệm:
Là dựa vào uy tín, năng lực của khách hàng đi vay mà NH chia làm 2
loại :
- Cho vay có TSĐB: Là phương thức cho vay chủ yếu của NH. khi cá nhân
hay DN muốn vay vốn thì phai bảo đảm sẽ có nghĩa vụ trả nợ bằng tài sản,
vật chất. TSBĐ gồm 2 loại:
+ Loại 1 là các TS thuộc sở hữu hoặc sử dụng lâu dài của khách hàng, hoặc
bảo lãnh của bên thứ ba cho khách hàng của NH. Những đảm bảo loại này
không được hình thành từ khoản tín dụng của chính NH. Đảm bảo loại 1 có
thể có giá trị lớn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của khoản tín dụng tuỳ thuộc vào
đánh giá dự đoán của NH về rủi ro. Các khoản tín dụng dựa trên TSĐB loại
1 thường đảm bảo an toàn cho NH, song gây khó khăn cho cả NH lẫn khách
hàng trong việc định giá, bảo quản, làm cho thời gian phân tích tín dụng
thường bị kéo dài.
+ Loại 2 Là những tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của NH. Đây là
biện pháp cuối cùng để NH có thể hạn chế được người vay bán tài sản được
hình thành từ vốn vay. Tuy nhiên khi người vay không có khả năng trả nợ thì
phần lớn các tài sản này cũng đều bị giảm giá, khó bán. Do đó tài sản loại 2
không đảm bảo cho NH thu đủ gốc và lãi. Tài sản loại 2 thường áp dụng cho
khách hàng mà tài sản loại 1 có ít, hoặc không thể trở thành tài sản đảm bảo

cho NH.
- Cho vay không cần TSĐB: áp dụng cho các khách hàng truyền thống, có uy
tín. NH phải phân tích kĩ tình hình làm ăn, khả năng phát triển của người đi

×