Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.85 KB, 25 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH
NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Khái niệm ,đặc điểm,vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1 Khái niệm các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Doanh nghiệp vừa và nhỏ là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh
tế ,có mối quan hệ tương hỗ không thể tách rời với các chủ thể khác.Việc phân
chia doanh nghiệp dựa vào tiêu thức quy mô doanh nghiệp .theo tiêu thức này
doanh nghiệp bao gồm: Doanh nghiệp lớn doanh nghiệp vừa và nhỏ. Có nhiều
quan điểm về DNV&N nhưng khái niệm chung nhất về DNV&N có nội dung
như sau.
Doanh ngiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân kinh doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong
những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn lao động doanh thu, giá trị
gia tăng thu được trong từng thời kỳ, theo quy định của từng quốc gia.
DNV&N là những doanh nghiêp có quy mô nhỏ bế về vốn, lao động,
doanh thu. DNV&N có thể chia làm 3 loại cũng căn cứ vào quy mô đó là doanh
nghệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa.
Theo luật doanh nghiệp Việt Nam 2005, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh
nghiệp có số lao động nhỏ hơn 10,doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có số lao
động từ 10 đến 50, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có số lao động từ 50 đến
300 ngưới.
Mỗi nước đều có tiêu chí để xác định DNV&N ở nước mình. Ở Việt Nam
khái niệm DNV&N được đưa ra điều 3 ,nghị định 90/2001/ NĐ/CP-12/03/2001
của chính phủ về trợ giúp phát triển DNV&N. “DNV&N là cơ sở sản xuất kinh
doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký
không quá 10 tỷ đồng, hoặc có số lao động hàng năm không quá 300 người”.
1.1.2 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với nền kinh tế quốc dân
1.1.2.1 Vai trò của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Trong nền kinh tế, chúng ta thường gặp khái niệm "doanh nghiệp" và được
hiểu một cách thông thường là những đơn vị kinh tế được thành lập bởi một cá
nhân hay bởi các tổ chức, được nhà nước cho hoạt động nhằm thực hiện hoạt


động kinh doanh trong những lĩnh vực nhất định vì mục đích công ích hay lợi
nhuận. Sự vận động của nền kinh tế nhất thiết phải có một yếu tố quan trọng đó
là doanh nghiệp, không có hoạt động của các doanh nghiệp thì nền kinh tế
không thể lưu thông và hoạt động.
DNV&N có vai trò lớn trong sự tăng trưởng kinh tế của rất nhiều quốc gia,
kể cả các nước phát triển và đang phát triển. Trong bối cảnh Việt Nam đang
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và hội nhập với kinh tế khu vực và thế
giới, DNV&N đã và đang đóng vai trò quan trọng về nhiều mặt: Đảm bảo nền
tảng ổn định và bền vững của nền kinh tế; huy động tối đa các nguồn lực cho
đầu tư phát triển; đáp ứng một cách linh hoạt nhu cầu của các ngành kinh tế
quốc dân; cải thiện thu nhập và giải quyết việc làm cho một bộ phận đông đảo
dân cư; góp phần xoá đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống và thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các vùng đất nước. Các doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động và sản xuất của mình đã cung cấp hàng hoá, tạo ra sự lưu thông hàng hoá
trong thị trường. Tuy nhiên để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh một cách
có hiệu quả thì các doanh nghiệp phải có một chiến lược phát triển cụ thể trong
quá trình kinh doanh của mình. Ở Việt Nam các DNV&N chủ yếu tập trung vào
các ngành thương mại, sửa chữa động cơ, xe máy (chiếm 40,6% doanh nghiệp
của cả nước), tiếp đến là các ngành chế biến (20,9%), xây dựng (13,2%) và các
ngành còn lại như kinh doanh tài sản, tư vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%).
Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Tổng cục Thống Kê, chỉ tính riêng
năm 2005, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới (chủ yếu là DNV&N) đã là
45.162 doanh nghiệp, bằng tổng số doanh nghiệp trước giai đoạn 2000.
Có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, nếu phân loại doanh nghiệp
theo hình thức sở hữu thì có doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần… Nếu phân loại theo quy mô
nguồn vốn thì có doanh nghiệp lớn và DNV&N. Trong đề tài này, tập trung vào
DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống các doanh
nghiệp Việt Nam và đây cũng là những doanh nghiệp đóng góp một vai trò
không nhỏ trong nền kinh tế. Nếu chúng ta có một định hướng đúng đắn đối với

các DNV&N thì sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to lớn, từ đó làm điểm
tựa vững chắc để đưa đất nước phát triển.
Từ khái niệm DNV&N “là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”, cho thấy, tuyệt
đại đa số doanh nghiệp của chúng ta nằm trong “bảng”.
Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị, chủ yếu ở các thành
phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày càng
tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng rất
khác biệt so với các doanh nghiệp lớn trên thị trường. Đồng thời, do đặc điểm
nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa mà DNV&N
mang những đặc trưng cơ bản sau:
1.1.2.2 Đặc điểm của các DNV&N
a) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn trên thị trường, và tốc độ
gia tăng cao
Theo luật doanh nghiệp quy định, việc thành lập DNV&N yêu cầu số vốn
thành lập nhỏ, vì vậy số lượng DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong nền kinh
tế. Với ưu điểm là vốn điều lệ thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn cho các
tổ chức kinh tế tư nhân đứng ra thành lập doanh nghiệp của mình. Mặt khác, từ
trước đó đã tồn tại không ít các doanh nghiệp nhà nước có quy mô vốn nhỏ, lao
động ít như các hợp tác xã, các doanh nghiệp nhà nước mới thành lập hoặc được
tách ra…Với đặc điểm là vốn pháp định nhỏ như vậy, số lượng các DNV&N đã
chiếm phần lớn về số lượng trong nền kinh tế và có tốc độ gia tăng cao.
Tính đến cuối năm 2007, số lượng DNV&N vào khoảng 190.000 doanh
nghiệp; 2,9 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn 20.000 hợp tác xã, nước ta phấn
đấu đến năm 2010, cả nước có 500.000 DNV&N. Con số này đã khẳng định sự
phát triển không ngừng về số lượng của các DNV&N. Với tỷ trọng lớn như vậy
trong nền kinh tế, đòi hỏi chính phủ phải có một chính sách hợp lý cho các
DNV&N, đảm bảo sự phát triển ổn định của kinh tế.

b) Các DNV&N có quy mô vốn nhỏ, lao động ít
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các
DNV&N trong những năm gần đây thì lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên 2
tỷ đồng/doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp, DNV&N là các
doanh nghiệp có số vốn pháp định không vượt quá 10 tỷ, và có số lao động
không vượt quá 300 lao động. Với số vốn nhỏ như vậy, các doanh nghiệp gặp
nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh và nhất là khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn sản
xuất cùng một loại sản phẩm trong thị trường. Nhất là khi nền kinh tế có biến
động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNV&N khó có khả năng chống đỡ và
dễ bị dẫn đến phá sản. Đồng thời, với số lao động ít (< 300 người), các doanh
nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản xuất kinh doanh và
mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhất là với tình trạng ít lao động, doanh nghiệp
vừa và nhỏ sẽ khó có được các lao động với tay nghề cao. Với số lao động ít
như vậy, sẽ khó mở các lớp đào tạo nâng cao tay nghề nghiệp vụ cho các nhân
viên. Và vì đa số người lao động, nhất là người lao động có tay nghề nghiệp vụ,
trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm đều có xu hướng muốn vào các
doanh nghiệp lớn trên thị trường, điều này khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ
gặp khó khăn trong quá trình tuyển mộ và phải đầu tư nhiều hơn cho công tác
marketing tuyển mộ lao động.
c) Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân (chiếm
khoảng 80%) do đặc điểm về quy mô vốn và số lượng lao động. Điều này tạo
khó khăn cho việc quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhất là đối với các
doanh nghiệp tư nhân hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Các doanh
nghiệp tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt động chưa có một
tầm nhìn chiến lược cho doanh nghiệp của mình. Và trong khi vận hành sản
xuất kinh doanh, khi có một biến cố xảy ra thì không có kinh nghiệm chống đỡ
hoặc không đủ khả năng chống đỡ, dẫn đến thua lỗ hoặc nặng hơn là phá sản.
Việc quản lý các doanh nghiệp tư nhân cũng rất khó khăn. Nhiều doanh nghiệp

còn cố tình làm ăn phi pháp, cố tình trốn thuế và không thực hiện đúng chế độ
kế toán thống kê. Để quản lý tốt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đòi hỏi một sự
theo dõi sát sao và thực sự có hiệu quả. Như vậy mới có thể mới kiểm soát được
hoạt động của loại hình doanh nghiệp này.
d) Kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều
Không kể các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ đã thành lập lâu đời và
hoạt động ổn định, đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều là các doanh nghiệp
tư nhân được thành lập trong hoặc sau thời kỳ mở cửa nền kinh tế hoặc là các
doanh nghiệp Nhà nước vừa được tách ra. Với những doanh nghiệp vừa và nhỏ
thành lập khá lâu mà hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có hiệu quả, họ sẽ dần
dần mở rộng nguồn vốn của mình và đứng vào hàng ngũ những doanh nghiệp
lớn. Như vậy, kinh nghiệm hoạt động của loại hình doanh nghiệp này chưa
nhiều. Với số vốn ít và bề dày kinh nghiệm hạn chế, các doanh nghiệp vừa và
nhỏ gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, chống đỡ
với những thay đổi trong quá trình hoạt động của mình.
e)Trình độ công nghệ và phương pháp quản lý lạc hậu
Đây là vấn đề nổi cộm đối với tổng thể các doanh nghiệp của nước ta do đặc
điểm nền kinh tế chưa thực sự phát triển.Ở doanh nghiệp Việt Nam hiện nay,
một thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc
hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, 70%
công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị
trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới.
Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn
của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50%
so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá
thành cao và năng suất thấp (Nguồn t ừ Vietnamnet).
Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ trợ
kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về trình độ
chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý doanh nghiệp,
một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có phương tiện kỹ thuật

nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường.
Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh nghiệm
và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của Việt Nam trước
áp lực cạnh tranh quốc tế.
f) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động linh hoạt, năng động
Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những thành phần hoạt
động linh hoạt nhất. Với mỗi thay đổi nhỏ nhất của nền kinh tế, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đều chịu tác động và phải điều chỉnh hoạt động của mình để
phù hợp với mỗi biến đổi đó. Với tính năng động như vậy, các doanh nghiệp
vừa và nhỏ đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình và đóng góp không
nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, phương thức quản lý,
sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp cho họ đứng vững được trong
thị trường.
1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
1.2.1. Các hình thức cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên
thế giới thì hoạt động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở Việt Nam thì
chiếm tới 60-70%. Song song với hoạt động huy động vốn, tín dụng tạo ra
nguồn lợi nhuận chính duy trì hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng
ngân hàng được dựa trên quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước số
1627/2001/QĐ/NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó quan hệ tín dụng giữa
khách hàng và ngân hàng có thể hiểu như sau:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định. Các
khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
khách hàng và các khoản vay mượn khác. Bản thân ngân hàng cũng có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho các khoản mượn nói trên. Ngân hàng thu lợi
nhuận là nhờ thu chênh lệch lãi suất cho vay và đi vay, đồng thời sử dụng vốn
vay để thực hiện hoạt động khác như đầu tư, tài trợ… Như vậy, để duy trì sự tồn

tại và phát triển của mình, ngân hàng phải yêu cầu khách hàng thực hiện đúng
cam kết này .
- Khách hàng phải cam kết sử dụng món vay theo mục đích được thoả thuận với
ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân
hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân hàng, và
mỗi ngân hàng đều có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Do vậy, khi cho
giải ngân trong phạm vi hoạt động của mình, ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận với ngân hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Phương án hoạt động của
người đi vay đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng. Mặt khác, để
đảm bảo đòi được nợ, các ngân hàng thường yêu cầu tài sản đảm bảo với mỗi
khoản vay.
Các hoạt động tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau. Ngân hàng tiến hành phân loại tín dụng để dễ quản lý các khoản tín dụng
và nhằm đa dạng hoá tín dụng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Phân loại cho
vay của ngân hàng quyết định lãi suất cho vay, cũng như loại hình cho vay thích
hợp với mỗi loại tín dụng khác nhau.
Việc xác định phương thức cho vay có một ý nghĩa rất quan trọng của quá
trình cấp tín dụng cho khách hàng. Nếu xác định đúng phương thức cho vay cho
từng doanh nghiệp từ đó sẽ tạo ra yếu tố tích cực giúp cho khách hàng thuận lợi
trong quá trình giao dịch và chủ động về tài chính trong quá trình sản xuất kinh
doanh và thuận lợi để thực hiện phương án sản xuất kinh doanh, khuyến khích
được khách hàng về quan hệ vay vốn với ngân hàng, Ngân hàng chủ động trong
việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Nếu xác định sai phương thức cho
vay sẽ dẫn đến Ngân hàng không kiểm soát chặt chẽ được số vốn cho vay làm
tăng rủi ro tín dụng, không khuyến khích được khách hàng vay vốn.
Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng các phương thức cho vay sau:
1.2.1.1 Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là nghiệp vu cho vay qua đó ngân hàng cho phép người

vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất
định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi và
thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá trình
hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt số dư
tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có tiền nhập
về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải
trả là:
Số lãi phải trả= Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi.
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử
dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không
phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán
dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay
này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh toán, chủ
động, kịp thời.
Thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày
trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp,
mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách hàng có độ tin
cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
1.2.1.2 Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không
có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ
sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở
rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân hàng chỉ tham gia
vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay, xác

định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu cầu
đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế ước
nhận nợ) khác nhau.
Số lượng cho vay= Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - vốn chủ
sở hữu tham gia - Các nguồn vốn khác tham gia.
Trong đó:
Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh = Nhu cầu vốn đầu tư cho
TSLĐ và TSCĐ - Giá trị tài sản và chi phí không thuộc đối tượng tài trợ
của ngân hàng.
Nếu cho vay dự trên giá trị tài sản đảm bảo:
Số lượng cho vay= Giá trị tài sản đảm bảo x Tỷ lệ cho vay trên giá
trị tài sản đảm bảo.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi. Trong
quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục đích và
hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ
trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo
thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo.
1.2.1.3 Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Mỗi lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay, nộp
các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay. Sau
khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát tiền
cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh

×