Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoàI quốc doanh tạI NHCT Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.46 KB, 23 trang )

Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng đối với doanh nghiệp ngoàI
quốc doanh tạI NHCT Thái Bình
I. Định hướng hoạt động tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh tạI NHCT Thái Bình.
Ngân hàng Công thương Thái Bình hoạt động kinh doanh trên địa bàn
tỉnh Thái Bình, có uy tín nên thu hút được nhiều khách hàng trong đó có nhiều
doanh nghiệp lớn, vì vậy nguồn vốn huy động và dư nợ tăng trưởng ngày càng
cao. Tuy nhiên, Ngân hàng gặp không ít khó khăn :
Vốn huy động tăng nhanh nhưng chủ yếu tăng ở loại có lãi suất cao và
nguồn vốn huy động bằng VND không đạt kế hoạch do nguồn huy động chủ yếu
là tiền gửi của dân cư và tiền do huy động kì phiếu trái phiếu còn tiền gửi của
các doanh nghiệp, các đơn vị tổ chức chưa lớn dẫn đến cơ cấu nguồn chưa hợp
lý.
Mức tăng trưởng tín dụng tuy đạt tỷ lệ cao song tăng trưởng không đều
chủ yếu là dư nợ VND dẫn tới Chi nhánh thiếu nguồn phải nhận vốn điều hoà
để cho vay.
Tình hình tài chính của của nhiều doanh nghiệp hết sức khó khăn: vốn tự
có ít, tình trạng công nợ lớn, hàng tồn kho ứ đọng, kém phẩm chất ...
Vì vậy, mục tiêu chiến lược của NHCT Thái Bình xác định trong những
năm tới là Xây dựng Chi nhánh thành một Ngân hàng thương mại chủ
lực và hiện đại trên địa bàn tỉnh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, tài
chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, kinh doanh đa năng, chiếm
thị phần lớn trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Để đạt được mục tiêu chiến lược trong những năm tới, với chủ đề hoạt
động là Huy động vốn, phát triển và nâng cao chất lượng dịch vụ Ngân
hàng trong năm 2003 Chi nhánh NHCT Thái Bình đã đặt ra một số chỉ tiêu cụ
thể như sau :
- Tăng trưởng nguồn vốn ổn định vững chắc từ 20-25%, phấn đấu có cơ cấu
nguồn hợp lý, có mức lãi suất đầu vào chấp nhận được. Biện pháp :
Tập trung các biện pháp để đẩy mạnh huy động vốn, đa dạng hoá các loại
tiền gửi, tích cực tiếp thị để khai thác nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp các


tổ chức xã hội thông qua việc mở rộng quan hệ thanh toán và các tiện ích Ngân
hàng, tranh thủ nguồn vốn trong thanh toán, nguồn vốn đầu vào với lãi suất
thấp để tạo thế cạnh tranh trong sử dụng vốn.
Duy trì mạng lưới huy động vốn ở các phòng, các quĩ tiết kiệm hiện có và
mở thêm từ 1 đến 2 quĩ để khơi tăng nguồn vốn. Cán bộ nguồn vốn phải có tác
phong giao dịch văn minh lịch sự, tận tuỵ phục vụ khách hàng và giới thiệu
hướng dẫn mọi dịch vụ của Ngân hàng.
- Tăng trưởng dư nợ cả năm đạt khoảng 15%. Việc tăng trưởng dư nợ phải
thực hiện chính sách chọn lọc khách hàng và phải bám sát mục tiêu, định
hướng phát triển kinh tế của tỉnh. Duy trì và tăng trưởng đầu tư tín dụng vào
những ngành kinh tế mũi nhọn như : công nghiệp may, công nghiệp cơ khí,
làng nghề, kinh tế biển ... Biện pháp :
Trước hết phải tập trung vào các khách hàng truyền thống có quan hệ lâu
năm và có uy tín với Ngân hàng như công ty XNK Bình Minh công ty Bia Hương
Sen, xí nghiệp dệt Hồng Quân...
Tích cực tìm kiếm những khách hàng mới, làm ăn có hiệu quả trên cơ sở
giao chỉ tiêu dư nợ cho cán bộ tín dụng trên nguyên tắc đảm bảo an toàn vốn,
có hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt chú ý tới những công ty xuất nhập khẩu,
những công ty có quan hệ làm ăn với nước ngoài trong và ngoài tỉnh để sử
dụng có hiệu quả nguồn ngoại tệ mà Ngân hàng huy động được.
Tiếp tục đổi mới công tác tiếp thị để giữ khách hàng tốt nhất, đến với
khách hàng ở khu công nghiệp. Đặc biệt phải chú ý chọn lọc các dự án lớn mà
Ngân hàng có thể đầu tư được.
- Bám sát đôn đốc, thu hồi và xử lý dứt điểm nợ quá hạn mới phát sinh, tập trung
dứt điểm nợ tồn đọng cũ, phấn đấu tỷ lệ nợ quá hạn <2%.
- Phấn đấu chênh lệch lợi nhuận hạch toán khoảng 5 tỷ đồng
- Ngoài ra, còn một số mặt công tác khác được NHCT Thái Bình đề ra như: hoàn
thiện và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ hiện có, tăng cường các biện
pháp kiểm tra kểm soát... nhằm tạo sức mạnh tổng hợp để Ngân hàng hoàn
thành các mục tiêu đề ra.

II. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng đối với doanh
nghiệp ngoàI quốc doanh tạI NHCT Thái Bình.
1. Nâng cao chất lượng thẩm định đối với khách hàng và dự án vay
vốn.
Công tác thẩm định dự án vay vốn là hết sức quan trọng, một số cán bộ tín
dụng còn coi nặng tài sản thế chấp làm căn cứ để cho vay chưa quan tâm đúng
mức đến thẩm định dự án vay vốn mà thường bỏ qua các khâu trong quá trình
thẩm định dẫn đến rủi ro trong công tác tín dụng.
Mục đích của tín dụng là bổ xung vốn cho khách hàng phục vụ các nhu
cầu sản xuất kinh doanh. Vì vậy, các khách hàng phải giải trình dự án hoặc kế
hoạch sản xuất kinh doanh của mình với Ngân hàng để xin vay vốn.
Ngân hàng muốn đạt hiệu quả cao khi cho vay cần phải làm tốt công tác
thẩm định dự án, phương án vay vốn, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng,
giảm rủi ro cho Ngân hàng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Việc thẩm
định tín dụng tập trung vào 2 vấn đề chủ yếu sau :
- Dự án vay vốn phải có đủ các điều kiện cho vay, nguyên tắc cho vay theo thể lệ
qui định cụ thể đối với loại cho vay đó, đảm bảo sau khi cho vay Ngân hàng sẽ
thu được gốc và lãi đúng hạn
- Hồ sơ xin vay vốn phải đầy đủ hợp lệ, hợp pháp theo chế độ qui định, nếu xảy
ra tranh chấp tố tụng thì đảm bảo an toàn về pháp lý cho Ngân hàng
Trong quá trình thẩm định cán bộ tín dụng cần tập trung một số vấn đề
sau:
- Năng lực pháp lý của doanh nghiệp như : quyết định thành lập, đăng kí kinh
doanh, quyết định bổ nhiệm giám đốc...
- Điều tra uy tín, tư cách của doanh nghiệp nhằm mục tiêu hạn chế đến mức thấp
nhất rủi ro do chủ quan của doanh nghiệp gây ra như : về đạo đức, năng lực
trình độ, kinh nghiệm, khả năng thích ứng với thị trường của khách hàng để có
thể phát hiện ra âm mưu lừa đảo ngay từ ban đầu của một số khách hàng. Uy
tín của doanh nghiệp thể hiện ở chỗ giá cả, chất lượng sản phẩm của doanh
nghiệp chiếm lĩnh trên thị trường, các quan hệ thanh toán với bạn hàng và với

Ngân hàng sòng phẳng, tình hình tài chính lành mạnh ...
- Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện ở khả năng độc lập tự chủ
trong sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán nói chung, khả năng hoàn trả
vốn vay nói riêng.
- Thẩm định về phương diện thị trường : phân tích khả năng tiêu thụ sản phẩm
về mặt giá cả, qui cách phẩm chất, mẫu mã thị hiếu của người tiêu dùng. Xem
xét các hợp đồng bao tiêu sản phẩm về số lượng chủng loại, giá cả, thời hạn
thanh toán và phương thức thanh toán... doanh nghiệp không nên bán hàng
cho một thị trường hoặc một nhà tiêu thụ duy nhất mà cần nhiều thị trường,
nhiều mối liên hệ để tiêu thụ để có thể chủ động trong việc bán hàng, tránh
được sự ép giá và hàng bị ứ đọng.
- Thẩm định tính khả thi của dự án về nội dung kinh tế tài chính. Đây là yếu tố
quyết định trực tiếp đến việc lựa chọn các dự án đầu tư. Vì vậy, Ngân hàng và
doanh nghiệp thường sử dụng một số phương pháp chung, một số phương
pháp thẩm định tính khả thi của dự án.
Đó là những phương pháp dựa trên giá trị hiện tại : giá trị hiện tại
thuần, tỷ suất hoàn vốn nội bộ, ngoài ra còn phân tích chỉ số doanh lợi, thời
gian hoàn vốn, độ nhạy cảm của dự án.
- Thẩm định về môi trường xã hội, phương án tổ chức thực hiện, phương án tổ
chức quản lý.
Khi đã thẩm định khách hàng và dự án vay vốn đủ mọi phương diện nêu
trên, Ngân hàng sẽ kết luận và quyết định cho vay hay không cho vay. Chính vì
vậy, đây là khâu quan trọng nhất ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng ngân
hàng.
Trong quá trình thẩm định dự án vay vốn của doanh nghiệp, nếu có vấn
đề nào đó mà cán bộ Ngân hàng chưa đủ điều kiện và trình độ để thẩm định thì
cần phải phối hợp với các cơ quan chức năng có thẩm quyền giúp đỡ để thẩm
định đạt được chất lượng cao như thẩm định về phương diện kỹ thuật.
2. Tăng cường phân tích tài chính doanh nghiệp ngoài quốc doanh
làm cơ sở quyết định cho vay.

Hoạt động phân tích tài chính là một trong những hoạt động cơ bản trong
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm giải quyết mối quan hệ kinh tế
phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh
doanh đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định và có nhiệm vụ
huy động các loại vốn cần thiết cho nhu cầu kinh doanh. Đồng thời tiến hành
phân phối, quản lý, sử dụng số vốn hiện có một cách hợp lý, có hiệu quả cao
nhất, đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục, giá trị vốn không ngừng
sinh sôi nảy nở, luôn giữ uy tín với các chủ nợ trong việc thanh toán .
Thường xuyên xem xét đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ
giúp cho Ngân hàng nắm được thực trạng hoạt động tài chính, xác định rõ
nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính của
khách hàng. Từ đó có thể đề ra những quyết định đúng đắn trong quan hệ tín
dụng với khách hàng, phòng ngừa rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng và
hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Xét thực chất thì hoạt động tín dụng của Ngân hàng là hoạt động cho vay
thu hồi vốn và lãi theo thời gian qui định, điều này thể hiện chất lượng công
tác tín dụng. Nhưng muốn có chất lượng cao thì cán bộ tín dụng phải hiểu
được đối tượng cho vay.
Yếu tố đầu tiên để cán bộ tín dụng quyết định cho vay hay không lại là sự
hiểu biết về khách hàng của mình. Sự hiểu biết đó tuỳ thuộc vào khả năng phân
tích tình hình tài chính, cán bộ tín dụng nắm được các thông tin hữu ích về
doanh nghiệp, những thông tin này giúp cho cán bộ tín dụng nắm được một
cách khái quát tình hình về vốn, nguồn vốn, tình hình thu chi của doanh nghiệp,
cụ thể :
- Thông qua bảng cân đối kế toán có thể biết được kết cấu nguồn vốn và kết cấu
tài sản của doanh nghiệp từ đó nhà phân tích có thể biết được loại hình doanh
nghiệp, qui mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp.
- Thông qua báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong
quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả
năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Nó cung cấp những thông

tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng những tiềm năng về vốn, lao
động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Thông qua báo cáo lưu chuyển tiền tệ nhà phân tích nắm được tình hình ngân
quĩ của doanh nghiệp để đánh giá doanh nghiệp có đảm bảo được khả năng
chi trả hay không.
Phân tích các báo cáo tài chính phải xem xu hướng phát triển của doanh
nghiệp theo thời gian khoảng từ 3 đến 5 năm, đồng thời phải so sánh kết quả
hoạt động các doanh nghiệp với nhau trong cùng một ngành hoặc trong cùng
một mối quan hệ kinh tế.
Phân tích tài chính thể hiện ở mức độ chính xác trong việc rút ra các chỉ
số tài chính và phân tích nó, bởi vì các chỉ số này rất hữu ích trong phân tích
kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ số tài chính được
phân thành 4 nhóm sau:
- Các tỷ số về khả năng thanh toán : đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh
giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
- Các tỷ số về khả năng cân đối vốn hoặc cơ cấu vốn : nhóm chỉ tiêu này phản
ánh mức độ ổn định và tự chủ tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của
doanh nghiệp.
- Các tỷ số về khả năng hoạt động : đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho khả năng
sử dụng tài nguyên , nguồn lực của doanh nghiệp.
- Các tỷ số về khả năng sinh lãi : nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất -
kinh doanh tổng hợp nhất của một doanh nghiệp.
Tuỳ theo mục tiêu phân tích tài chính mà nhà phân tích chú trọng nhiều
hơn tới nhóm tỷ số này hay nhóm tỷ số khác. Khi xem xét quyết định cho vay
ngắn hạn, Ngân hàng sẽ đặc biệt quan tâm tới khả năng thanh toán của doanh
nghiệp. Còn khi xem xét quyết định cho vay trung và dài hạn, Ngân hàng sẽ đặc
biệt quan tâm tới khả năng hoạt động và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Vì vậy căn cứ vào kết quả phân tích để xác định hướng cho vay và đối
tượng cho vay, tăng khả năng an toàn vốn vay.
Phân tích báo cáo tài chính có thể hiểu sâu sắc về thực trạng tài chính của

doanh nghiệp. Mặc dù vậy, cán bộ tín dụng cần biết những hạn chế của nó để
tránh sai sót khi đánh giá. Vì trong cơ chế thị trường, để giải quyết nhiều mục
tiêu khác nhau, một doanh nghiệp không đưa ra những báo cáo đích thực của
mình, nhiều số liệu ma xuất hiện hoặc được trang điểm để tâng bốc cho tiềm
lực của doanh nghiệp. Lạm phát cũng làm nhiễu sự phân tích, sự biến động của
nền kinh tế làm cho số liệu so sánh thiếu chính xác. Vì vậy, cán bộ tín dụng phải
tìm mọi cách loại trừ ảnh hưởng của chúng để kết quả phân tích được chính
xác nhất.
3. Phân loại doanh nghiệp ngoài quốc doanh để xác định mức cho
vay hợp lí, đảm bảo chất lượng tín dụng.
Hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta chịu một tai
tiếng lớn về sự lừa đảo, công ty ma, chiếm dụng vốn... dẫn đến sự mất lòng tin
trong Ngân hàng. Tuy nhiên, đây chỉ là những con sâu làm rầu nồi canh, vẫn có
rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động rất hiệu quả, có lãi, hoàn
thành nghĩa vụ đối với nhà nước, trả nợ rất đúng qui định. Xuất phát điểm của
thành phần kinh tế này là từ nguồn vốn của bản thân nên thường là ít. Để kích
thích và giúp đỡ họ phát triển một cách bền vững, Ngân hàng cần có chính
sách khách hàng cụ thể, nghiên cứu những đối tượng khách hàng thuộc nhóm
này, có sự ổn định trong kết quả kinh doanh để tài trợ vốn cho họ, tạo sự cạnh
tranh lành mạnh với các doanh nghiệp nhà nước, kích thích sự phát triển của
nền kinh tế. Đối với NHCT Thái Bình với hơn 60% số doanh nghiệp có quan hệ
tín dụng với Ngân hàng là doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì vấn đề phân
loại doanh nghiệp để xác định mức cho vay hợp lý là việc làm hết sức cần thiết
trong việc nâng cao chất lượng tín dụng.
Phân tích báo cáo tài chính các doanh nghiệp là việc làm rất cần thiết và
quan trọng trong quá trình đi đến quyết định đầu tư. Căn cứ vào kết quả phân
tích tài chính doanh nghiệp, Ngân hàng thực hiện phân loại khách hàng từng
bước thanh lọc những khách hàng yếu kém, thu hút và cho vay những khách
hàng hoạt động tốt.
Việc phân loại các doanh nghiệp được thể hiện như sau:

- Doanh nghiệp loại A : là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ổn định, có lãi, thực
hiện tốt nghĩa vụ với ngân sách nhà nước. Tình hình tài chính lành mạnh, quan
hệ thanh toán có uy tín và sòng phẳng, không có nợ quá hạn, lãi treo, có hệ số
bảo toàn vốn > 1 (nghĩa là doanh nghiệp không những bảo toàn vốn mà còn
tăng vốn).
Với doanh nghiệp loại A, ngoài việc cho vay theo hạn mức tín dụng đã
duyệt, nếu có phương án sản xuất kinh doanh theo từng thời vụ có tính khả
thi, Ngân hàng có thể tiếp tục cho vay vốn hoặc bảo lãnh nếu doanh nghiệp
yêu cầu.
- Doanh nghiệp loại B : là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định kết
quả tài chính bình thường, lãi thấp, quan hệ thanh toán với Ngân hàng, bạn
hàng, ngân sách nhà nước chưa có uy tín cao, hệ số bảo toàn vốn = 1
Với doanh nghiệp loại B, Ngân hàng chỉ cho vay trên cơ sở nhu cầu vốn
lưu động cần thiết sau khi đã trừ đi vốn tự có đối với những phương án sản
xuất kinh doanh có tính khả thi cao. Những nhu cầu mới phát sinh về vốn vay
Ngân hàng phải được xem xét kĩ càng và cẩn trọng.
- Doanh nghiệp loại C : là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không ổn định, kết
quả sản xuất kinh doanh thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ thanh
toán với Ngân hàng không sòng phẳng, có phát sinh nợ quá hạn, lãi treo, hệ số
bảo toàn vốn <1 (doanh nghiệp mất dần vốn). Với doanh nghiệp loại này, Ngân
hàng không cho vay, nếu còn dư nợ thì tìm cách khẩn trương thu hồi vốn vay.
Việc phân tích tài chính và xếp loại doanh nghiệp đòi hỏi cán bộ tín dụng
phải tiến hành thường xuyên liên tục 6 tháng một lần. Làm tốt công tác này
cán bộ tín dụng hiểu được đối tác của mình và sẽ có quyết định đúng đắn
trong kinh doanh.
4. Tăng cường các biện pháp bảo đảm an toàn trong hoạt động tín
dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
4.1. Thành lập bộ phận thẩm định tín dụng hoạt động độc lập với
phòng tín dụng, nâng cao chất lượng thẩm định với doanh
nghiệp .

Hiện nay, tại NHCT Thái Bình cán bộ tín dụng chịu trách nhiệm tín dụng
từ đầu đến cuối trong qui trình tín dụng, do vậy sẽ không tránh khỏi rủi ro tín
dụng do những nguyên nhân chủ quan, khách quan mang lại mà hậu quả của
nó khó lường trước được. Mặt khác qui trình tín dụng như vậy làm cho việc
xét duyệt các hồ sơ tín dụng của cán bộ lãnh đạo rất khó khăn do không có đủ

×