Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.38 KB, 29 trang )

Tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1. Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ
Hiện nay có rất nhiều ý kiến khác nhau khi đưa ra khái niệm về doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng nhìn chung có thể hiểu doanh nghiệp vừa và nhỏ
theo nghĩa thông thường là những cơ sở sản xuất kinh doanh tương đối nhỏ
với quy mô không lớn lắm, có tư cách pháp lý, không có vị thế độc quyền,
chuyên môn hoá thấp, quy mô về vốn thấp, số lượng lao động và doanh thu
hàng năm thấp. Tuy nhiên để có thể nói chính xác thế nào là quy mô nhỏ, không
lớn lắm thì mỗi nước khác nhau lại có những quan điểm khác nhau nhưng
thông thường người ta căn cứ vào các tiêu thức như tổng vốn đầu tư được
huy động cho sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử
dụng thường xuyên…Trên cơ sở đó mỗi nước có sự lựa chọn tiêu thức khác
nhau để đưa ra quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Ở Việt Nam những năm gần đây, khi vai trò của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ ngày càng được khẳng định thì những quan điểm về tiêu thức xác định loại
hình doanh nghiệp này cũng không thống nhất. Có quan điểm thì cho rằng
doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp có lao động thường xuyên
dưới 500 người, giá trị tài sản cố định dưới 1 tỷ, giá trị vốn lưu động dưới 8 tỷ
và doanh thu dưới 20 tỷ. Bên cạnh đó lại có quan điểm cho rằng trong lĩnh vực
sản xuất và xây dựng, doanh nghiệp nào có vốn nhỏ hơn 1 tỷ và dưới 100 lao
động là doanh nghiệp nhỏ, doanh nghiệp nào có vốn từ 1 tỷ đến 10 tỷ với số
lượng lao động từ 100 đến 500 là doanh nghiệp vừa.
Ngày 20/06/1998 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành công văn số
681/CP-KNT quy định tiêu chí tạm thời xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ là
doanh nghiệp có vốn điều lệ dưới 5 tỷ đồng và số lao động bình quân dưới 200
người.
Theo nghị định 90/NĐ-CP/2001 của Chính phủ ban hành ngày
23/11/2001 thì doanh nghiệp vừa và nhỏ được định nghĩa như sau: “doanh
nghiệp vừa và nhỏ là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh
theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động


bình quân hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội
của từng ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương
trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một
trong hai tiêu chí nói trên”.
Như vậy, có thể thấy rằng trong những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta
đã quan tâm hơn đến loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ thể hiện qua các quy
định, quy chế đã phù hợp hơn, tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các doanh nghiệp này
phát triển hơn cả về vốn và lao động nhằm khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư
làm ăn lớn và khuyến khích việc thu hút thêm nhiều lao động đang thiếu việc làm.
Theo nghị định 90/CP thì doanh nghiệp vừa và nhỏ bao gồm các doanh
nghiệp được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp, các doanh nghiệp
được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp Nhà nước, các hợp tác xã
thành lập và hoạt động theo luật hợp tác xã, các hộ kinh doanh cá thể đăng ký
theo nghị định 20/2000/NĐ-CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký
kinh doanh bao gồm các loại hình doanh nghiệp cơ bản như: Doanh nghiệp
Nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân, công ty TNHH, công ty cổ phần,
công ty hợp danh và hộ kinh doanh cá thể.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp vừa và nhỏ
Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ dù theo loại hình nào thì cũng
mang những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất: Vốn đầu tư ban đầu thấp, những sản phẩm mà các doanh
nghiệp vừa và nhỏ kinh doanh là những sản phẩm không có tính ổn định trong
sản xuất kinh doanh vì hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có định
hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh mà thường xuyên thay đổi ngành
nghề, cơ cấu mặt hàng, các mặt hàng sản phẩm dịch vụ nhiều về chủng loại
nhưng không lớn về số lượng.
Thứ hai: Tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh gọn nhẹ, các mối quan hệ
nội bộ dễ điều chỉnh vì thế có tính linh hoạt cao, dễ thích ứng với sự biến động
của nền kinh tế thị trường. Công tác điều hành mang tính trực tiếp và quan hệ
giữa người quản lý và người lao động khá chặt chẽ.

Thứ ba: Lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất đa
dạng và phong phú nhờ vậy việc mở rộng tín dụng cho các doanh nghiệp này
sẽ giúp các Ngân hàng phấn tán được rủi ro hoặc rủi ro gây biến động không
lớn đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Thứ tư: Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp này còn thấp do hạn
chế về vốn, về trình độ, công nghệ, phương thức quản lý, khả năng tiếp cận thông
tin và khả năng tiếp cận thị trường thấp. Đặc điểm này của doanh nghiệp vừa và
nhỏ chính là yếu tố tiềm ẩn gây rủi ro cho Ngân hàng khi cho vay.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với sự phát triển kinh
tế
Qua số liệu thống kê trong và ngoài nước chúng ta thấy các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế quốc dân với nhiều
hình thức đa dạng phong phú, hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực kinh tế.
Cùng với những lợi thế và không đòi hỏi nhiều vốn đầu tư, quản lý đơn giản, dễ
thay đổi linh hoạt theo thị trường, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã và đang
phát huy những mặt tích cực và khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế.
Ở nước ta với đường lối kinh tế đúng đắn, các doanh nghiệp này đã và đang
phát triển một cách mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng.
1.1.3.1. Tạo công ăn việc làm
Việc làm là vấn đề cấp bách hiện nay của Việt Nam, với tốc độ tăng dân
số hàng năm mặc dù đã giảm nhưng so với khu vực và trên thế giới vẫn cao,
hàng năm đã tạo ra khoảng 1 triệu người đến tuổi lao động cộng với số người
thất nghiệp là 6%/năm và bán thất nghiệp hiện nay do cơ cấu kinh tế như sắp
xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước, số quân nhân giải ngũ…Theo dự báo từ
nay đến năm 2010 mặc dù dân số tăng chậm lại nhưng nguồn lao động của
nước ta vẫn tăng nhanh liên tục đòi hỏi việc làm hết sức khẩn trương. Sức ép
của dân số lao động lên đất đai, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân
của dòng di dân từ nông thông ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức
tạp. Thực tế cho thấy toàn bộ các doanh nghiệp Nhà nước thời gian qua, năm
cao nhất cũng chỉ thu hút đươc khoảng 1.6 triệu lao động. Trong khi đó theo số

liệu hàng năm doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng tạo ra việc làm cho khoảng 50-
80% lao động trong các ngành nghề công nghiệp, dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều
thời kỳ, khi các doanh nghiệp lớn sa thải số lượng lớn công nhân thì khu vực
doanh nghiệp vừa và nhỏ lại là nơi tái tạo lại công việc cho họ. Mặt khác đây
chính là khu vực thu hút lao động là sinh viên mới ra trường và điều này đã góp
phần giải quyết một trong những bức xúc của chúng ta. Như vậy, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ chính là một trong những phương tiện rất hiệu quả để giải
quyết vấn đề lao động.
1.1.3.2. Khai thác, tận dụng các nguồn lực xã hội
Hiện nay còn rất nhiều tiềm năng trong dân chưa được khai thác như
tiềm năng về trí tuệ, tay nghề cao, lao động, vốn, điều kiện thực hiện, bí quyết
sản xuất… Do đó việc phát triển doanh nghiệp sản xuất, các ngành nghề trong
nông thôn hiện nay là một hướng quan trọng để khai thác nguồn lực nói trên,
thu hút lao động nông thôn, phát huy lợi thế của từng vùng nhằm phát triển
kinh tế.
Về thu hút vốn trong dân: Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút
được phần lớn nguồn vốn trong dân do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán, đi sâu vào
các ngõ ngách bản làng. Do yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều nên có
thể tận dụng từ số vốn của bản thân, vay gia đình, bạn bè thậm chí còn vay của
các tổ chức tín dụng. Do dễ khởi sự và nguồn vốn ít nên các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có vai trò, tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ
nhàn dỗi trong dân để đầu tư sản xuất kinh doanh.
Về thu hút lao động: Sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
nông thôn sẽ thu hút nhiều lao động chưa có việc làm hoặc lực lượng lao động
tạm thời nhàn rỗi theo mùa vụ vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực
lượng lao động trong nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ nhưng vẫn
sống tại quê hương không phải di chuyển đi nơi khác thực hiện phương châm “
li nông bất li hương”. Đây là yếu tố chủ đạo góp phần phát huy các ngành nghề
truyền thống đã bị mai một, một phần nhằm khôi phục lại nền văn hoá dân
gian mặt khác làm thay đổi bộ mặt nông thôn, từng bước hiện đại hoá nông

thôn và nâng cao đời sống nông dân. Ngoài ra, lực lượng lao động ở khu vực
này không những rất dồi dào mà còn rất dẻ do đó sẽ giúp cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ giảm chi phí sản xuất từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Về kỹ thuật: Doanh nghiệp vừa và nhỏ thường chọn kỹ thuật phù hợp
với kỹ thuật thủ công và kỹ thuật phổ biến để nhanh chóng tiếp thu và làm chủ,
ít sử dụng kỹ thuật tiên tiến đòi hỏi vốn lớn vì vậy tận dụng được kỹ thuật
trong nước, thúc đẩy công nghệ cải tiến kỹ thuật.
Như vậy có thể nhận thấy rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ là một bộ
phận sử dụng rất có hiệu quả và tiết kiệm nguồn lực sẵn có của đất nước.
Đồng thời các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất kinh doanh các mặt hàng tiểu
thủ công nghiệp trong các làng nghề truyền thống còn tạo ra một nguồn thu
ngoại tệ đáng kể, học hỏi kinh nghiệm kinh doanh hoặc các doanh nghiệp cũng
có thể sản xuất có hiệu quả các mặt hàng thay thế nhập khẩu, tiết kiệm ngoại
tệ, khai thác tiềm năng và giải quyết việc làm.
1.1.4. Khó khăn của doanh nghiệp vừa và nhỏ khi tiếp cận vốn NH
Hiện này khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các
nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng là tình trạng thiếu vốn để sản xuất.
Trước hết là do nguồn vốn chủ sở hữu thấp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như
không đáp ứng được điều kiện để có mặt trên thị trường chứng khoán. Vì vậy
doanh nghiệp vừa và nhỏ đang huy động vốn chủ yếu từ hai nguồn: nguồn thứ
nhất là vốn vay NH chiếm tỷ trọng lớn, nguồn thứ hai từ nguồn vốn của bản
thân chủ doanh nghiệp, từ gia đình, bạn bè.
Do hạn chế về trình độ và kinh nghiệm trong việc xây dựng kế hoạch tài
chính, phương án, dự án đầu tư nên bản thân các doanh nghiệp cũng ít đưa ra
được các dự án có tính khả thi, có hiệu quả kinh tế đủ sức thuyết phục nhà đầu
tư, đủ điều kiện xin vay vốn NH.
Hầu hết các cơ sở sản xuất manh mún, phân tán, trình độ công nghệ,
thiết bị quá lạc hậu, lao động thủ công nên sản phẩm khó cạnh tranh với các
doanh nghiệp lớn, đó là chưa kể đến hàng nhập khẩu từ nước ngoài.
Nhiều doanh nghiệp không thực hiện đúng chế độ thống kê, kế toán. Số

liệu phản ánh không chính xác tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính của
doanh nghiệp.
Trình độ cán bộ quản lý và lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
còn nhiều hạn chế. Phần lớn những người kinh doanh chưa được đào tạo về
chuyên môn, nghiệp vụ, chưa hiểu biết nhiều về pháp luật, khả năng quản trị
điều hành thấp. Hoạt động kinh doanh chủ yếu theo thương vụ, chạy theo
phong trào mà không có chiến lược phát triển nên dễ phá sản.
Chính vì những khó khăn trên, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như
không đáp ứng được điều kiện vay vốn của NH. Nên hiện nay không ít doanh
nghiệp vừa và nhỏ lâm vào tình trạng chiếm dụng vốn lẫn nhau, tức là sản
xuất kinh doanh dựa trên một phần vốn của người khác. Nguy cơ thiếu khả
năng thanh toán, vỡ nợ đã xảy ra.
1.2.Tín dụng Ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người chủ
sở hữu sang người sử dụng vốn, sau một thời gian nhất định người sử dụng có
trách nhiệm hoàn trả cho người sở hữu một lượng lớn hơn giá trị ban đầu.
Tín dụng NH là quan hệ tín dụng giữa một bên là NH với một bên là các tổ
chức kinh tế, cá nhân, hộ gia đình trong xã hội trong đó NH giữ vai trò người thủ
quỹ cho toàn xã hội. Tín dụng NH ra đời với nhiệm vụ huy động các nguồn vốn tạm
thời nhàn dỗi tron xã hội để tạo thành một quỹ cho vay, đáp ứng nhu cầu về vốn
cho các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác.
1.2.2. Các hình thức tín dụng NH
Tín dụng NH được phân chia theo nhiều loại theo những tiêu thức khác
nhau tuỳ theo yêu cầu của khách hàng và mục tiêu quản lý của NH. Sau đây là
một số cách phân loại:
Phân loại theo thời hạn tín dụng : Phân chia theo thời gian có ý
nghĩa quan trọng đối với NH vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an toàn
và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của khách hàng. Theo
thời hạn tín dụng, tín dụng được phân thành:

- Tín dụng ngắn hạn: Từ 12 tháng trở xuống
- Tín dụng trung hạn: Từ trên 1 năm đến 5 năm
- Tín dụng dài hạn: Trên 5 năm
Phân loại theo tài sản đảm bảo: Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép
NH có được nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ
nhất (từ quá trình sản xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Tín dụng có thể được phân chia thành tín dụng có tài sản đảm bảo bằng uy
tín của chính khách hàng, có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài
sản mà mình đang sở hữu hoặc sử dụng, hoặc khả năng trả nợ của người thứ
ba để trả nợ cho NH.
Tín dụng không cần tài sản đảm bảo có thể được cấp cho khách hàng có
uy tín, thường là khách hàng làm ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính
vững mạnh, ít xảy ra tình trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ
so với vốn của người vay. Các khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà
Chính phủ yêu cầu, không cần tài sản đảm bảo. Các khoản cho vay đối với các
tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn, hoặc những khoản cho vay trong thời gian
ngắn mà NH có khả năng giám sát việc bán hàng…cũng có thể không cần tài sản
đảm bảo.
Tín dụng dựa trên cam kết đảm bảo yêu cầu NH và khách hàng phải ký
hợp đồng đảm bảo. NH phải kiểm tra, đánh giá được tình trạng của tài sản
đảm bảo (quyền sở hữu, giá trị, tính thị trường, khả năng bán, khả năng tài
chính của người thứ ba…), có khả năng giám sát việc sử dụng hoặc có khả
năng đảm bảo tài sản đảm bảo.
Phân loại tín dụng theo rủi ro: Để phân loại theo tiêu thức này, NH
cần nghiên cứu các mức độ, các căn cứ để phân loại rủi ro. Một số NH lớn chia
tới thang bậc rủi ro theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao cho các khoản
mục tài sản, bao gồm cả nội và ngoại bảng, cho vay, bảo lãnh, chứng khoán.
Cách phân loại này giúp NH thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các
khoản tín dụng, trích lập dự phòng tổn thất kịp thời.

- Tín dụng lành mạnh: Các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao
- Tín dụng có vấn đề: Các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành mạnh
như khách hàng chậm tiêu thụ, tiến độ thực hiện kế hoạch chậm, khách hàng
gặp thiên tai, khách hàng trì hoãn nộp báo cáo tài chính…
- Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: Các khoản nợ đã quá hạn với thời
gian ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
lớn…
- Nợ quá hạn khó đòi: Nợ quá hạn lâu, khả năng trả nợ rất kém, tài sản
thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá, khách hàng chây ì…
Phân loại khác:
- Theo ngành kinh tế (công, nông nghiệp)
- Theo đối tượng tín dụng (TSLĐ, TSCĐ)
- Theo mục đích (sản xuất, tiêu dùng…)
Các cách phân loại này cho thấy tính đa dạng hoặc chuyên môn hoá
trong cấp tín dụng của NH. Với xu hướng đa dạng, các NH sẽ mở rộng phạm vi
tài trợ song vẫn có thể duy trì những lĩnh vực mà NH có lợi thế.
Tuỳ theo từng đối tượng khách hàng, tuỳ theo từng mục đích sử dụng
vốn cũng như khả năng nguồn vốn của mình mà NH và khách hàng có sự thoả
thuận về các loại tín dụng cho phù hợp.
Trong nền kinh tế thị trường, khách hàng chủ yếu đối với NH chính là
các doanh nghiệp, do vậy tín dụng cho các doanh nghiệp chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng khối lượng tín dụng cung ứng cho nền kinh tế. Cũng chính vì thế mà
các NHTM hiện nay không ngừng nâng cao chất lượng cũng như đa dạng hoá
các hình thức tín dụng đối với các doanh nghiệp để có thể thu hút được nhiều
khách hàng, có thể phục vụ tốt nhất và thu được lợi nhuận cao nhất. Nhìn
chung các hình thức tín dụng mà các NHTM cung cấp cho các doanh nghiệp
bao gồm những hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất là tín dụng ngắn hạn: Đây là loại tín dụng có thời hạn
không quá một năm, là loại cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất của các NHTM và
chủ yếu đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của các doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu

động của doanh nghiệp xuất phát từ độ lệch giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra
cả về quy mô lẫn thời gian. Doanh nghiệp vay ngắn hạn NH để đáp ứng nhu
cầu vốn, thời vụ của mình chủ yếu là hàng tồn kho và các khoản phải thu. Tín
dụng ngắn hạn của NH bao gồm các hình thức sau:
- Chiết khấu thương phiếu: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó khách
hàng chuyển nhượng những loại giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán của
mình đến NH để nhận lấy số tiền bằng mệnh giá trừ đi lợi tức chiết khấu và phí
hoa hồng. Chiết khấu là một loại nghiệp vụ cổ điển nhưng cho đến ngày nay nó
vẫn được sử dụng rộng rãi. Vì nó được coi là đơn giản và dựa trên sự tín nhiệm
giữa NH với những người ký tên trên thương phiếu. Nhờ có nghiệp vụ này mà các
doanh nghiệp có thể tái tạo khả năng vốn tiền tệ của mình khi chưa đến hạn,
đồng thời nó là nghiệp vụ ít gặp rủi ro, là loại tài sản có tính thanh khoản cao và
không làm đóng băng vốn của NH do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho
NH, hơn nữa NH có thể đem thương phiếu đi tái chiết khấu tại NHTW để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp.
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng
hoá và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán (hoặc người thụ hưởng) có
thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc
mang đến NH để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền NH ứng trước phụ thuộc vào
lãi suất chiết khấu, thời hạn chiết khấu và lệ phí chiết khấu.
- Thấu chi: Là nghiệp vụ tín dụng ngắn hạn trong đó NH cho khách hàng
vay bằng cách cho phép khách hàng rút tiền vượt quá số dư trên tài khoản
vãng lai trong phạm vi hạn mức tín dụng và thời hạn xác định. Giới hạn này
được gọi là hạn mức thấu chi. Áp dụng nghiệp vụ này NH căn cứ vào nhu cầu
vay, trên cơ sở tài sản đảm bảo và khả năng vốn của NH để quyết định hạn
mức cho phù hợp.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và thời
gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho NH). Trong quá trình hoạt động,
khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi vượt quá số dư trên tài khoản tiền gửi
để chi trả trong hạn mức thấu chi. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền

gửi NH sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà khách hàng phải trả:
Lãi suất thấu chi

Thời gian thấu chi

Số tiền thấu chi
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ
sử dụng hình thức này.
Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự đoán dựa vào dự đoán ngân
quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho
khách hàng trong quá trình thanh toán: chủ động, nhanh, kịp thời.
Doanh số cho vay của NH có thể lớn hơn rất nhiều so với hạn mức và dư
nợ luôn biến động nên NH khó xác định được hình thức đảm bảo do vậy nghiệp
vụ này NHTM thường chỉ áp dụng với khách hàng có tín nhiệm cao và không
cần thế chấp hoặc giá trị tài sản thế chấp rất thấp.
- Cho vay từng lần: Là hình thức tín dụng ngắn hạn, mỗi lần có nhu cầu
vay thì khách hàng làm thủ tuc vay vốn và ký kết hợp đồng tín dụng với NH,
việc giải ngân có thể theo tiến độ thực hiện kế hoạch của khách hàng hoặc giải
ngân một lần nếu khách hàng vay cho từng phương án, từng thương vụ.
Phương thức cho vay này đơn giản phù hợp với trình độ, năng lực quản
lý và tổ chức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và cả với những khách hàng lớn

×