Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

DNNN VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.05 KB, 20 trang )

DNNN VÀ VẤN ĐỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI
DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. DNNN VÀ VAI TRÒ CỦA DNNN TRONG NỀN KTTT.
1.1.1. Khái niệm và phân loại doanh nghiệp nhà nước
Thực tế cho thấy ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới dù đang phát triển
hay phát triển, TBCN hay XHCN tuy có mức độ quản lý khác nhau song đều có
sự quản lý của Nhà nước. Nhà nước có thể can thiệp vào nền kinh tế bằng
nhiều công cụ quản lý vĩ mô khác nhau, trong đó phải kể đến công cụ vật chất
của khu vực kinh tế Nhà nước bao gồm nhiều công ty độc quyền nắm giữ các
ngành kinh tế then chốt, mũi nhọn mà Nhà nước đầu tư 100% vốn hay chiếm
giữ một tỷ lệ vốn chi phối thông qua chế độ tham dự. Theo thời gian khu vực
kinh tế Nhà nước dần hình thành, điều tiết và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Thành phần kinh tế Nhà nước ở nước ta là thành phần lấy sở hữu Nhà
nước về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự ra đời, tồn tại và phát triển vì mục
đích xã hội mà bộ máy Nhà nước là đại biểu. Căn cứ vào tiền đề xuất phát là sở
hữu quyền lực chính trị Nhà nước , có thể xem thành phần kinh tế Nhà nước là
khu vực rộng lớn có tầm quan trọng đặc biệt, bao gồm hệ thống các DNNN, hệ
thống tài chính – ngân hàng, các nguồn dự trữ, lợi ích từ tài nguyên đất đai,
khoáng sản , kết cấu hạ tầng…Trong đó bộ phận các DNNN là bộ phận kinh tế
giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong định hướng phát triển kinh tế đất nước.
Trong nền kinh tế thị trường có nhiều loại hình doanh nghiệp cùng tồn
tại. Điều đó cho thấy sự đa dạng trong hình thức tổ chức và sở hữu. Từ loại
hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần,
công ty đa quốc gia, DNNN. Trong nền kinh tế nước ta DNNN đóng vai trò chủ
đạo. Để hiểu rõ về DNNN trước hết ta xem xét khái niệm DNNN
Điều 1 luật DNNN qui định rõ:
“Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức do Nhà nước đầu tư vốn,
thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động
công ích nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước giao”
Về mặt pháp lý “ DNNN có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân
sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong phạm vi số vốn


do doanh nghiệp quản lý.”
Theo luật DNNN có được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
* Dựa vào qui mô và hình thức tổ chức doanh nghiệp chia thành
-DNNN độc lập là DNNN không có trong cơ cấu tổ chức của các doanh
nghiệp khác.
-DNNN thành viên là DNNN nằm trong cơ cấu tổ chức của một doanh
nghiệp lớn hơn.
Theo mục đích hoạt động kinh doanh thì DNNN được chia thành 2 loại.
- DNNN hoạt động kinh doanh là DNNN hoạt động nhằm chủ yếu vào
mục đích lợi nhuận.
- DNNN hoạt động công ích là DNNN hoạt động sản xuất cung ứng dịch
vụ công cộng theo các chính sách của nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng an ninh.
Theo số vốn của Nhà nước cấp DNNN chia thành .
- Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư của Nhà nước
- Doanh nghiệp cổ phần , trong đó Nhà nước chiếm một tỷ lệ vốn cao
trên 50% là những doanh nghiệp vị trí quan trọng trong các ngành kinh tế
hoặc có khả năng đóng góp lớn cho nền kinh tế .
- Những doanh nghiệp còn lại sẽ được tiến hành chuyển đổi sở hữu theo
hình thức cổ phần hóa, bán toàn bộ hoặc một phần, cho thuê gọi vốn đầu tư
của các DNNN khác, các thành phần kinh tế khác để hình thành lập công ty
TNHH hay gọi vốn đầu tư của nước ngoài để thành lập các xí nghiệp liên
doanh. Đây là biện pháp tiếp tục sắp xếp đổi mới lại những doanh nghiệp có
quy mô nhỏ thua lỗ kéo dài hoặc không cần sở hữu Nhà nước nhằm tạo điều
kiện cơ cấu lại DNNN.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
- DNNN là một bộ phận cấu thành nền kinh tế quốc dân, một đơn vị kinh
doanh thuộc thành phần kinh tế Nhà nước. Nó được hình thành và phát triển
là tất yếu khách quan. Tỷ trọng đóng góp của DNNN trong tổng sản phẩm quốc
nội(GDP) là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước và biến động theo

giai đoạn phát triển của nền kinh tế.
Ở nước ta DNNN chiếm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Một mặt đóng
vai trò như các DNNN ở các nước tư bản. Mặt khác nó vai trò to lớn để duy trì
chế độ sở hữu công cộng. Đây là một đặc trưng cơ bản của CNXH nhằm tạo lập
công bằng xã hội, bảo vệ lợi ích người lao động, đóng vai trò dẫn đường đối
với nền kinh tế, là công cụ chi phối hướng dẫn thị trường, nơi áp dụng và sử
dụng nhanh nhất các thành tựu khoa học cộng nghệ của đất nước và nhân
loại.
- DNNN là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Với vai trò đó DNNN duy
trì sự phát triển cân đối giữa các ngành trong nền kinh tế. Trong ngành công
nghiệp nặng các DNNN nắm gần như toàn bộ các ngành điện lực, dầu khí, khai
thác than…Nhà nước khuyến khích các ngành thông qua tác động bằng biện
pháp kinh tế. Ngoài ra, DNNN có vai trò lớn trong cung ứng, ổn định giá cả
trên thị trường.
- DNNN góp phần đảm bảo lợi ích xã hội. Bên cạnh các DNNN hoạt động
kinh doanh có không ít DNNN hoạt động vì mục đích công cộng. Lợi ích của các
doanh nghiệp này mang lại không chỉ cho riêng ai mà cho toàn xã hội. Những
lĩnh vực mang lại lợi nhuận thấp hoặc không đem lại lợi nhuận thì các doanh
nghiệp khác không muốn đầu tư vào. DNNN với vai trò của mình vẫn tham gia
hoạt động để đảm bảo lợi ích cho cộng động.
- Các DNNN cung cấp tài chính cho NSNN. Nhà nước chỉ hoạt động được
bình thường trong điều kiện có lượng vốn ngân sách nhất định. NSNN được
hình thành từ thu thuế từ khu vực dân doanh, DNNN, thuế xuất nhập khẩu và
các khoản thu khác. Số thu phải đảm bảo cho hoạt động chi từ ngân sách. ở
nước ta, DNNN vẫn là lực lượng chủ yếu cung cấp cho NSNN. Đây là nguồn thu
chính đảm bảo các khoản chi cho NSNN.
Ngoài ra DNNN còn có vai trò quan trọng trong tạo thêm công ăn việc
làm, phân phối lại thu nhập quốc dân, giảm sự chênh lệch về kinh tế , văn hoá,
giáo dục giữa các vùng, đảm bảo sự ổn định về kinh tế, chính trị và xã hội.
1.2. Tín dụng ngân hàng trong nền kinh tế.

1.2.1. Tín dụng
Tín dụng có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau
-Tín dụng là phương pháp chuyển dịch quỹ cho vay từ người cho vay
sang người đi vay.
-Tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi.
Theo quan điểm của Mark thì tín dụng là quá trình chuyển dịch tạm thời
một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất
định quay về với lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Từ những quan điểm trên ta có thể đưa ra một định nghĩa chung
Tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa bên cho vay và bên đi vay,
trong đó bên đi vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong
một thời gian nhất định theo thoả thuận bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh
toán.
Như vậy về bản chất tín dụng là một quan hệ kinh tế giữa hai chủ thể
thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức
tiền tệ hoặc hàng hoá. Quá trình tín dụng được biểu hiện qua ba giai đoạn.
- Thứ nhất là phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Trong giai
đoạn này, giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một
bên nhượng lại giá trị và chỉ có một bên nhượng đi giá trị.
- Thứ hai là sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất. Người đi
vay được sử dụng giá trị vay để thoả mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của
mình. Tuy nhiên người đi vay chỉ được quyền sử dụng trong một khoảng thời
gian nhất định mà không có quyền sở hữu về giá trị đó.
- Thứ ba là đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng.
Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ để trở về với hình thái tiền tệ
thì vốn tín dùng được người đi vay hoàn trả cho người cho vay.
1.2.2. Đặc trưng của tín dụng
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa trên cơ sở lòng tin.
Người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vốn vay một cách hiệu quả sau

một thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ vay.
- Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng gồm hai hình thức là cho vay
bằng tiền và cho thuê( bất động sản hoặc động sản).
- Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, người đi vay phải hoàn trả đúng hạn
gốc và lãi. Đây là yếu tố quan trọng trong giá trị tín dụng.
- Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay. Hay
người vay phải hoàn trả cả gốc và lãi đúng hạn. Để thực hiện nguyên tắc này
phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát( lãi suất thực dương).
Tuy nhiên vì lãi xuất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau nên trong
một số trường hợp lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn tỷ lệ lạm phát.
Trong quan hệ tín dụng, tài sản vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn
trả vô điều kiện của bên đi vay đối với bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
1.2.3. Các hình thức tín dụng
Trong quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và lưu thông hàng hoá,
quan hệ tín dụng hình thành và phát triển qua các hình thức tín dụng: tín dụng
nặng lãi, tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng.
* Tín dụng nặng lãi
Là hình thức đầu tiên sơ khai nhất của tín dụng, nó có từ khi mới hình
thành sản xuất hàng hoá trong thời kỳ kinh tế tiền sản xuất hàng hoá. Tín
dụng nặng lãi mạng lại lợi nhuận cao cho người giàu, bần cùng hoá nhân dân
lao động, đồng thời góp phần duy trì kìm hãm nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu
kém phát triển. Tín dụng nặng lãi mang tính phi sản xuất. Mặt khác tín dụng
nặng lãi là cơ sở cho sự tích tụ tập trung vốn trong tay một số ít người và đó
cũng chính là cơ sở cho sự ra đời phương thức sản xuất TBCN. Đặc điểm của
loại tín dụng này là lãi suất rất cao, quan hệ vay mượn thường kèm theo
những điều kiện khắc nghiệt do chủ nợ áp đặt. Nên tiền vay chỉ được sử dụng
vào mục đích tiêu dùng cấp bách mà không cho sản xuất. Do đó tín dụng nặng
lãi không làm thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và kinh doanh hàng hoá.
Song nó đã góp phần làm tan rã nền kinh tế tự nhiên, tạo tiền đề cho chủ nghĩa
tư bản ra đời.

* Tín dụng thương mại
Đây là hình thức tín dụng bằng hàng hoá giữa người sản xuất kinh
doanh hoạt động trực tiếp trong lĩnh vực lưu thông hàng hoá với nhau, công
cụ được sử dụng chủ yếu là kỳ phiếu thương mại. Theo Mark thì “tín dụng
thương mại không phải là cho vay bằng hàng hoá mà cho vay bằng tiền của
hàng hoá đem bán chịu”. Tín dụng thương mại đáp ứng được nhu cầu về vốn
của những doanh nghiệp tạm thời thiếu, đồng thời giúp cho các doanh nghiệp
tiêu thụ được sản phẩm hàng hoá của mình. Mặt khác chính hình thức tín dụng
này đã giúp cho các doanh nghiệp chủ động khai thác được vốn nhằm đáp ứng
yêu cầu sản xuất kinh doanh. Do đó tín dụng thương mại đã góp phần tích cực
trong nền kinh tế góp phần giải quyết mâu thuẫn giữa hiện tượng thừa thiếu
vốn để thúc đẩy lưu thông hàng hoá phát triển.
Mặc dù vậy, tín dụng thương mại còn có những hạn chế về qui mô tín
dụng, và phương thức tín dụng chỉ được thực hiện dưới hình thức hàng hoá.
* Tín dụng ngân hàng
Đây là hình thức phản ánh quan hệ vay mượn có hoàn trả cả vốn và lãi
sau một thời hạn nhất định giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng với các nhà
sản xuất kinh doanh.
Tín dụng ngân hàng là hình thức thể hiện rõ được các ưu thế so với hai
hình thức tín dụng trên ở chỗ. Quy mô tín dụng lớn hơn vì nguồn vốn cho vay là
nguồn vốn mà ngân hàng có thể tập trung huy động được từ nguồn tiền nhàn
rỗi. Do đó ngân hàng có thể đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế một cách
linh hoạt, kịp thời.
* Tín dụng Nhà nước
Tín dụng Nhà nước là hình thức tín dụng mà Nhà nước vay của dân dưới
hình thức công trái, tín phiếu kho bạc … để bù đắp thiếu hụt ngân sách hay lập
quĩ đầu tư để phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế. Tín phiếu kho bạc là công cụ
dùng ở thị trường liên ngân hàng và thị trường mở điều hòa lưu thông tiền tệ.
Theo thuyết tín dụng tạo ra tư bản, tín dụng Nhà nước là công cụ chống suy
thoái, thất nghiệp nếu được dùng để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế.

1.2.4. Tín dụng ngân hàng
1.2.4.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế hành vi tín dụng có thể được tiến hành bởi bất kỳ ai.
Nhưng cùng với sự phát triển của nền kinh tế có một tổ chức đứng ra chuyên
hoạt động trong lĩnh vực này đó là ngân hàng
Tín dụng ngân hàng cùng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng.
Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là
quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và
hai bên cùng có lợi. Điều cần lưu ý ở đây là tín dụng ngân hàng là mối quan hệ
vay mượn giữa ngân hàng và tất cả các doanh nghiệp các cá nhân khác.
Như vậy trong quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng phải
đảm bảo nguyên tắc
- Tiền vay phải được hoàn trả đúng hạn cả vốn và lãi vay.
- Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích.
- Vốn vay phải có tài
1.2.4.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng có thể phân chia thành nhiều loại theo nhiều tiêu
thức khác nhau.
* Căn cứ theo thời hạn cho vay có thể chia tín dụng ngân hàng thành 3 loại.
- Tín dụng ngắn hạn: là những khoản tín dụng có thời hạn dưới 12
tháng và được sử dụng để bù đắp thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp
và nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến 5
năm. Tín dụng trung hạn được sử dụng chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố
định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ và
thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời hạn trên 5 năm và thời
gian vay tối đa có thể lên đến 20, 30 năm thậm chí một số trường hợp cá biệt
có thể lên đến 40 năm. Tín dụng dài hạn đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây
dựng nhà ở thiết bị phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp

mới. Tín dụng trung dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định và một
phần nhỏ vốn lưu động cho doanh nghiệp.
* Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay. Tín dụng ngân hàng được chia thành
các loại sau:
- Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây
dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp,
thương mại dịch vụ…
- Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung
vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp thương mại
dịch vụ.
- Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chi phí sử dụng
như phân bón thuốc trừ sâu, giống cây trồng thức ăn gia súc , lao động nhiên
liệu…
- Cho vay các định chế tài chính bao gồm cấp tín dụng cho các ngân
hàng, công ty tài chính, công ty bảo hiểm quỹ tín dụng và các định chế tài chính
khác.
- Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như
mua sắm các vật dụng đắt tiền và các khoản cho vay để trang trả các chi phí
thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng.
- Cho thuê bao gồm hai loại cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài
sản cho thuê bao gồm bất động sản, động sản, trong đó chủ yếu là máy móc
thiết bị.
* Căn cứ theo mức độ tín nhiệm đối với khách hàng. Tín dụng ngân hàng được
chia thành hai loại:
- Cho vay không có đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp
cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy
tín của bản thân khách hàng. Đối với các khách hàng trung thực trong kinh
doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể
cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một
nguồn thu nợ thứ hai bổ sung.

×