Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.11 KB, 24 trang )

TÍN DỤNG TRUNG DÀI HẠN CỦA NGÂN HÀNG VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN
DỤNG TRUNG DÀI HẠN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.

1. Những vấn đề cơ bản về tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng.
1.1. Khái niệm về tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng.
Tín dụng credit) xuất phát từ thuật ngữ la tinh là tin tưởng tín nhiệm
( credo) trong thực tế cuộc sống được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau và kể cả
trong quan hệ tài chính. Tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ này có nội
dung khác nhau.


Xét trên góc độ chuyển dịch quỹ cho vay từ chủ thể thặng dư tiết kiệm sang chủ
thể thiếu hụt tiết kiệm thì tín dụng được coi là phương pháp chuyển dịch quỹ từ
người đi vay sang người cho vay.



Trong quan hệ tài chính cụ thể thì tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở
có hồn trả giữa hai chủ thể. Phổ biến hơn cả trong quan hệ này là giao dịch giữa
ngân hàng và các định chế tài chính khác với các doanh nghiệp và các cá nhân thể
hiện dưới hình thức cho vay tức là ngân hàng cấp tiền cho vay cho bên đi vay và
sau một thời gian nhất định người vay phải thanh tốn cả gốc và lãi.



Tín dụng cịn có nghĩa là số tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp
cho khách hàng.



Khi xem xét tín dụng là một chức năng cơ bản của ngân hàng thì tín dụng đuợc


hiểu như sau:
Tín dụng là một giao dịch về tài sản(tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay(ngân
hàng, các định chế tài chính khác) trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho
bên đi vay sử dụng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có


trách nhiệm hồn trả vơ điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn
thanh toán.
Từ khái niệm này ta có thể thấy được bản chất của tín dụng là một giao dịch về
tài sản trên cơ sở hồn trả.
Tín dụng trung dài, hạn là khoản cho vay của ngân hàng có thời hạn trên một
năm nhưng không dài hơn thời gian khấu hao cần thiết của tài sản hình thành bằng
vốn vay. Việc phân chia cụ thể tín dụng trung dài hạn tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia,
ở Việt Nam theo quy chế cho vay mới 1267/2001/QĐ của Ngân hàng Nhà nước có
hiệu lực từ 01/02/2002 các khoản tín dụng có thời hạn từ 12 tháng đến năm năm là
tín dụng trung hạn và các khoản tín dụng có thời hạn từ năm năm trở lên là tín
dụng dài hạn.
• Tín dụng trung hạn: Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt nam thì
cho vay trung hạn có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm.
Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định,
cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng
các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp
chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các thiết bị sau: Máy cày, máy bơm nước,
xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, hồ tiêu...
Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định cho vay trung và dài hạn cịn là nguồn hình
thành vốn lưu động thường xuyên cho các doanh nghiệp đặc biệt là những doanh
nghiệp mới thành lập.


Tín dụng dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm và thời hạn tối đa có

thể lên tới 20 đến 30 năm, một số trường hợp cá biệt có thể lên tới 40 năm.
Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài
hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, các phương tiện vận tải có quy mơ lớn, xây
dựng các xí nghiệp mới.


Nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại là cho vay ngắn hạn
nhưng từ những năm 70 trở lại đây các Ngân hàng thương mại đã chuyển sang
kinh doanh tổng hợp và một trong số những nội dung đổi mới đó là nâng cao tỷ
trọng cho vay trung, dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Muốn được như
vậy thì ngân hàng cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
1.2. Phân loại tín dụng trung, dài hạn.
1.2.1. Tín dụng để mua sắm máy móc- thiết bị trả góp.
Tín dụng để mua sắm máy móc thiết bị trả góp là các khoản cho vay tài trợ nhu
cầu mua sắm máy móc thiết bị của doanh nghiệp, có thời hạn trên 1 năm, tiền vay
được thanh toán dần dần cho ngân hàng theo từng định kì.
1.2.2. Tín dụng theo kỳ hạn.
Tín dụng theo kì hạn thường dùng tài trợ cho các mục đích chung của doanh
nghiệp, bao gồm tài trợ cho tài sản lưu động thường xuyên, mua sắm các bất động
sản phục vụ sản xuất kinh doanh, các thiết bị sản xuất, tài trợ cho nhu cầu vốn cho
việc liên doanh, liên kết trong kinh doanh và thậm chí cịn có cả tài trợ cho việc
thanh toán các khoản nợ khác...
Đối với hai phương thức tín dụng vừa trên, thường việc thanh tốn tiền vay theo
các định kì là bằng nhau. Nhưng cũng có khi tiền vay được thanh tốn ở kì hạn
cuối cùng nhiều hơn và các kì hạn khác có mức thanh toán bằng nhau. Ngân hàng
thường yêu cầu khách hàng thanh tốn cho mình một số tiền vay ở kì hạn cuối lớn
hơn so với số tiền thanh toán ở các kì hạn trước đó trong các trường hợp sau:


Ngân hàng muốn giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt hơn trong thời hạn

vay, miễn sao đến khi kết thúc thời hạn vay thì khách hàng phải hồn trả hết tiền
vay, kể cả lãi cho ngân hàng.




Khi thời hạn vay theo yêu cầu của khách hàng ngắn hơn thời hạn cho vay mà
ngân hàng mong muốn.
Đối với các khoản tín dụng theo kì hạn, có nhiều lúc khách hàng được yêu cầu
phải duy trì ở ngân hàng một số tiền nhất định, thường dưới dạng tiền gửi có kì
hạn, trong tổng số tiền được vay, được gọi là số dư tiền gửi bù trừ. Đối với ngân
hàng số dư tiền gửi bù trừ mà khách hàng phải duy trì có một số tác dụng sau:
Giảm chi phí thu hồi vốn của ngân hàng, là nguồn cho vay đối với các khoản vay
mới, có tính chất như một khoản phí cam kết, giúp hạn chế rủi ro cho ngân hàng.
1.1.3. Tín dụng tuần hồn.
Tín dụng tuần hồn là một hình thức cho vay, trong đó ngân hàng cam kết chính
thức dành cho khách hàng một hạn mức tín dụng trong một thời hạn nhất định.
Cam kết có thể dài từ 1 đến 3 năm thậm chí 5 năm, song thời hạn của khế ước
trong thời hạn được cam kết thường ngắn khoảng 90 ngày và nếu khách hàng thực
hiện tốt các điều khoản của hợp đồng tín dụng thì cam kết hạn mức sẽ được tái
tục, tức là gia hạn thêm một kì hạn bằng kì hạn gốc.
Thông thường, khi được hưởng một hạn mức như trên, phần tiền vay mà người
đi vay thực sự được sử dụng trên hạn mức sẽ được tính lãi cịn phần hạn mức còn
lại, chưa được sử dụng hết sẽ được tính phí, gọi là phí cam kết.
Tín dụng tuần hồn thường được dùng để tài trợ cho nhu cầu tăng trưởng tài sản
lưu động hoặc thay thế cho các khoản nợ ngắn hạn tới kì thanh tốn. Thực chất tín
dụng tuần hồn là một hình thức lai tạo giữa tài trợ tài sản lưu động thời vụ và cho
vay kì hạn.
Tín dụng tuần hồn thường được sử dụng khi ngân hàng chưa thể xác định được
phần tài sản lưu động thường xuyên của doanh nghiệp. Đến khi bộ phận nàyđã

được xác định thì thường hạn mức của tín dụng tuần hồn sẽ được điều chỉnh và
chuyển sang cho vay kì hạn.


1.3. Vai trị của tín dụng trung, dài hạn trong nền kinh tế thị trường.
• Vai trị đối với ngân hàng.
Tín dụng trung, dài hạn là một hoạt động khơng thể thiếu được đối với sự tồn
tại và phát triển của ngân hàng. Bởi vì lợi nhuận thu được từ các khoản tín dụng
trung, dài hạn chiếm tỷ lệ quan trọng trong tổng lợi nhuận của ngân hàng. Thu
nhập từ tiền cho vay biểu hiện dưới dạng lãi tiền vay và phụ thuộc chủ yếu vào thời
hạn của các khoản vay. Thời hạn tín dụng càng dài thì lãi suất càng cao và do đó
thu nhập của ngân hàng càng lớn vì vậy nếu ngân hàng mở rộng và nâng cao được
chất lượng tín dụng trung dài hạn thì càng có điều kiện kiếm lời hơn. Dư nợ tín
dụng trung, dài hạn luôn là con số được quan tâm trong các tài liệu về ngân hàng vì
xu hướng bây giờ các ngân hàng đang chuyển hướng sang kinh doanh tổng hợp vì
vậy phải nâng cao trung, dài hạn tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn trong tổng số dư
nợ của ngân hàng. Khơng chỉ có vậy, việc đáp ứng tốt nhu cầu tín dụng trung dài,
hạn cũng đem lại cho ngân hàng một vũ khí cạnh tranh lợi hại. Chất lượng tín dụng
trung dài hạn cao thể hiện năng lực quản lý, năng lực chuyên môn của cán bộ ngân
hàng cao. Điều đó tạo nên uy tín của ngân hàng.
• Vai trị đối với khách hàng.
Tín dụng trung, dài hạn là loại tín dụng chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cố
định của doanh nghiệp để mua sắm máy móc, thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, từ
đó cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất
chiếm lĩnh thị trường.
Có thể nói tín dụng trung, dài hạn là trợ thủ đắc lực tài trợ cho các doanh nghiệp
trong việc khai thác các cơ hội kinh doanh vì trên thực tế các doanh nghiệp thường
gặp phải một căn bệnh kinh niên là thiếu vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Nền kinh tế khơng ngừng vận động, hàng hố sản xuất ra ngày càng phong phú
đa dạng, có chất lượng cao và nhu cầu con người không ngừng nâng cao. Một



doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường thì phải biết
nắm bắt các nhu cầu và thoả mãn các nhu cầu đó.
Như vậy doanh nghiệp phải không ngừng mạnh dạn đổi mới đầu tư nâng cao
chất lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất để tham nhập và duy trì sản phẩm ở thị
trường mới nhiều tiềm năng. Do nguồn ngắn hạn chỉ đáp ứng nhu cầu thiếu vốn
tạm thời trong doanh nghiệp chứ không thể giúp doanh nghiệp mua sắm máy móc
thiết bị, đầu tư xây dựng nhà máy mới, thực hiện các hoạt động kinh doanh có thời
gian thu hồi vốn lâu dài. Chính vì vậy mà các doanh nghiệp lựa chọn hình thức vay
trung, dài hạn vì vay trung, dài hạn ngân hàng thực hiện tốt hơn so với viêc phát
hành chứng khốn, đồng thời tránh được một số chi phí như chi phí đăng kí, chi
phí bảo hiểm... vì vậy tín dụng trung, dài hạn là biện pháp quan trọng để các doanh
nghiệp có vốn cho việc thực hiện dự án của mình.


Vai trị đối với tồn bộ nền kinh tế.
Nền kinh tế của mỗi quốc gia trong từng thời kì dù có là một quốc gia chậm
phát triển, đang phát triển hay phát triển thì nhu cầu vốn trung dài hạn cho đầu tư
phát triển là rất cần thiết. Đối với các nước chậm phát triển thì hoạt động đầu tư
chủ yếu là theo chiều rộng dưới hình thức xây dựng mới, các nước phát triển chủ
yếu đầu tư chiều sâu theo hướng hiện đại hố. Cịn các nước đang phát triển thì
vừa đầu tư theo hướng chiều rộng vừa phải đầu tư theo hướng chiều sâu. Tín dụng
trung, dài hạn có tác dụng khơng nhỏ vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Vì
nó là cơng cụ để tích tụ, tập trung vốn và ngân hàng cũng có thể làm nhiệm vụ khơi
dòng cho vốn chảy từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn, làm trung gian để điều hoà
lượng cung cầu vốn cho nền kinh tế từ đó tín dụng trung, dài hạn góp phần đẩy
nhanh q trình tái sản xuất mở rộng đầu tư nền kinh tế thực hiện cơng nghiệp hố
hiện đại hố đất nước.
2. Chất lượng tín dụng trung dài hạn và một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng

tín dụng trung dài hạn của ngân hàng.


2.1. Quan niệm về chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng là một nghiệp vụ mang lại phần lớn
doanh lợi cho ngân hàng nhưng cũng là nơi ẩn chứa nhiều rủi ro nhất. Điều này
được thể hiện ngay cả với các khoản cho vay có tài sản thế chấp, cầm cố. Nâng cao
chất lượng tín dụng trung, dài hạn là một vấn đề quan trọng hàng đầu trong hoạt
động tín dụng của ngân hàng do nguồn vốn mà ngân hàng đầu tư cho các khoản
cho vay trung, dài hạn là lớn, lại có thời gian thu hồi vốn dài vì vậy mà ngân hàng
cần phải có biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Trước tiên là để
bảo vệ được nguồn vốn của ngân hàng mình sau đó thực hiện được tốt chức năng
kinh doanh tổng hợp.
Do hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất
bởi đặc tính của hoạt động cho vay này là việc chuyển giao hàng hố và tiền tệ có
liên quan đến tất cả các ngành, các thành phần kinh tế. Thêm vào đó tiền tệ lại là
một loại hàng hố đặc biệt nó rất nhạy cảm với các yếu tố của thị trường như lãi
suất, thiên tai, chiến tranh, các hoạt động chính trị xã hội khác... Do vậy nghiên
cứu để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là một yêu cầu bức thiết đối với
toàn hệ thống ngân hàng.
Ngân hàng có chức năng đi vay để cho vay, do vậy đồng tiền qua hoạt động của
ngân hàng là đồng tiền có giá(vì được hưởng lãi suất). Khi đồng vốn tín dụng
trung, dài hạn gặp phải rủi ro dưới dạng nợ khó địi hay mất vốn thì ngân hàng dễ
dàng gặp phải tình trạng khả năng thanh tốn bị ảnh hưởng. Nếu như ngân hàng
khơng đáp ứng được u cầu chi thanh tốn thì nguy cơ phá sản của ngân hàng là
điều tất yếu. Vì vậy chất lượng tín dụng trung, dài hạn ảnh hưởng khơng nhỏ tới sự
sống cịn của mỗi ngân hàng.
Ngồi ra tín dụng trung, dài hạn có tác dụng to lớn đối với khách hàng như: Do
tín dụng tín dụng trung, dài hạn là khoản vay có thời hạn từ 12 tháng trở nên chủ
yếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cố định của khách hàng để mua sắm trang thiết bị



máy móc, xây dựng cơ sở vật chất, từ đó cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất
lương sản phẩm, mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường. Có thể nói, tín dụng
trung, dài hạn là trợ thủ đắc lực của các doanh nghiệp trong việc thoả mãn các cơ
hội kinh doanh.
Trong điều kiện Việt nam hiện nay, nhu cầu vốn tín dụng trung, dài hạn để phục
vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước đang là một đòi hỏi bức xúc.
Nhu cầu này được thoả mãn bằng một phần vốn ngân sách cấp phát, vay nước
ngoài, một phần huy động từ dân cư và nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Trong
đó nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn là một nguồn hết sức quan trọng và có tính
khả thi cao.
Cuối cùng tín dụng trung, dài hạn cịn có tác dụng đối với tồn bộ nền kinh tế
khi hoạt động tín dụng trung, dài hạn mà hiệu quả sẽ có tác động tốt tới mọi lĩnh
vực kinh tế xã hội. Phát triển cho vay trung, dài hạn sẽ giảm bớt các khoản bao cấp
từ ngân sách nhà nước cho việc đầu tư sản xuất kinh doanh, góp phần giảm bớt các
khoản thâm hụt ngân sách.
Bên cạnh đó, tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng đóng vai trị tích cực trong
việc giải quyết cơng ăn việc làm cho người lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và
hạn chế các tệ nạn xã hội.
Có thể khẳng định từ các lợi ích mà tín dụng trung, dài hạn mang lại, thì việc
nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là việc làm quan trọng cần thiết của
ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung dài hạn là khái niệm phản ánh khả năng mở
rộng tín dụng của ngân hàng phù hợp với nhu cầu vay vốn của khách hàng, với
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, đồng thời bảo đảm sự tồn tại của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn vừa mang tính cụ thể thơng qua các chỉ tiêu
có thể tính tốn được như kết quả kinh doanh, nợ quá hạn... vừa mang tính trừu


tượng thể hiện qua khả năng thu hút khách hàng, quy trình thủ tục...và ta phải xem

xét chất lượng tín dụng trung, dài hạn qua 3 khía cạnh sau:
• Chất lượng tín dụng trung, dài hạn xét từ góc độ của Ngân hàng thương mại: Chất
lượng tín dụng trung, dài hạn thể hiện ở phạm vi, mức độ, giới hạn của tín dụng
trung, dài hạn phải phù hợp với khả năng theo hướng tích cực của bản thân ngân
hàng và phải đảm bảo được sự cạnh tranh trên thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoàn
trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng kỳ hạn, hạn chế tới mức thấp nhất những rủi ro có thể
xảy ra.
• Chất lượng tín dụng trung, dài hạn xét từ góc độ của nền kinh tế: Tín dụng trung,
dài hạn của ngân hàng trong những năm gần đây phản ánh rõ nét sự tăng trưởng, sự
năng động của nền kinh tế khi chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Đặc biệt tín dụng trung, dài hạn khi đầu tư cho nền kinh tế sẽ tạo ra những sản
phẩm cho xã hội, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, góp phần tăng
trưởng nền kinh tế và khai thác khả năng tiềm tàng cho nền kinh tế, thu hút tối đa
nguồn vốn nhàn rỗi trong nước, tranh thủ vốn vay nước ngồi có lợi cho nền kinh
tế phát triển. Chất lượng tín dụng trung, dài hạn đối với nền kinh tế đó là việc vốn
cho vay trung, dài hạn được an toàn, làm cho tỷ trọng tín dụng trung, dài hạn của
ngân hàng được nâng cao thu được lợi nhuận lớn khiến cho hoạt động của ngân
hàng được an tồn từ đó làm cho hệ thống ngân hàng lớn mạnh, đáp ứng yêu cầu
quản lý vĩ mơ, thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hồ nhập với cộng đồng quốc tế.
• Chất lượng tín dụng trung, dài hạn xuất phát từ góc độ của khách hàng:Tín
dụng trung, dài hạn của ngân hàng phải đáp ứng đầy đủ kịp thời yêu cầu hợp
lý của khách hàng với lãi suất hợp lý, thủ tục đơn giản, không gây phiền hà
cho khách hàng. Thu hút được khách hàng nhưng vẫn đảm bảo đủ nguyên
tắc, quy định của tín dụng trung, dài hạn và phù hợp với tốc độ tăng trưởng


của nền kinh tế xã hội, đảm bảo được sự tồn tại và phát triển của ngân hàng,
góp phần đẩy mạnh tài chính cho ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn được hiểu theo đúng nghĩa là vốn vay ngân
hàng đáp ứng kịp thời đầy đủ cho doanh nghiệp và được doanh nghiệp đưa vào sản

xuất kinh doanh để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới trang thiết bị
công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới... một cách có
hiệu quả nhất, nhằm tạo ra một số lượng tiền lớn hơn để hoàn trả cho ngân hàng
đầy đủ cả gốc, lãi , trang trải các chi phí và thu được lợi nhuận.
Chất lượng tín dụng là kết quả của một quá trình phối hợp hành động hợp lý và
hiệu quả giữa các thành viên trong từng tổ chức và giữa các tổ chức với nhau vì
một mục đích chung. Do đó, muốn đạt được chất lượng tín dung trung dài hạn cao
địi hỏi phải có một phương pháp khoa học chặt chẽ .
2.2. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Như chúng ta đã biết, chất lượng tín dụng trung, dài hạn khó có thể xác định
bằng một chỉ tiêu tổng hợp. Để đánh giá được chất lượng tín dụng trung, dài hạn
người ta có thể sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau. Ở đây tôi dùng hai loại chỉ tiêu
để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đó là chỉ tiêu chung và chỉ tiêu đặc
thù.
2.2.1.Một số chỉ tiêu chung .
Chỉ tiêu chung là những chỉ tiêu mà bất cứ một cá nhân, một tổ chức nào cũng
có thể nhìn vào đó mà nhận xét được hoạt động tín dụng trung, dài hạn của Ngân
hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam như thế nào, nó biểu hiện bằng các con số cụ
thể như:
• Dư nợ tín dụng trung, dài hạn.


Chỉ tiêu này cho thấy khi ngân hàng có số dư nợ tín dụng trung, dài hạn cao
chứng tỏ ngân hàng cho vay trung, dài hạn nhiều, có thể chất lượng tín dụng trung,
dài hạn tăng lên, chúng ta khơng chỉ dựa và chỉ một chỉ tiêu này mà đánh giá chất
lượng tín dụng trung, dài hạn cao hay thấp mà chỉ tiêu này còn kết hợp với nhiều
chỉ tiêu khác nữa.
Nguồn vốn huy động trung, dài hạn.
Đây là chỉ tiêu đánh giá được hoạt động huy động vốn trung, dài hạn của ngân
hàng có hiệu quả khơng, dựa vào chỉ tiêu này mà chúng ta có thể kết hợp với chỉ

tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn để đánh giá được chất lượng tín dụng trung, dài
hạn của ngân hàng cao hay thấp. Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hoạt động huy
động vốn trung, dài hạn của ngân hàng có hiệu quả.


Nợ q hạn trung, dài hạn.
Khi nợ quá hạn của ngân hàng cao chứng tỏ hoạt động tín dụng trung, dài hạn
của ngân hàng khơng đạt hiệu quả. Nợ quá hạn thường chia làm hai loại:
Nợ quá hạn do định kì hạn nợ ngắn hơn chu kì sản xuất kinh doanh hay vì một
lý do nào đó chưa thu được tiền bán hàng nên đến hạn trả nợ khách hàng chưa có
tiền trả. Ngân hàng buộc phải chuyển khoản cho vay này sang nợ quá hạn, nhưng
khả năng thu nợ của ngân hàng vẫn cao.
Nợ quá hạn do khách hàng vay vốn bị phá sản hoặc kinh doanh thua lỗ hoặc bị
lừa đảo hay bị chết khơng cịn khả năng trả nợ cho ngân hàng buộc ngân hàng phải
chuyển khoản cho vay này sang nợ quá hạn chờ xử lý. Loại nợ quá hạn này được
gọi là nợ khó địi, khả năng thu hồi được nợ là rất ít.


2.3.2. Một số chỉ tiêu đặc thù
* Về ngân hàng


Hiệu suất sử dụng vốn vay(HS)
Hiệu suất sử dụng vốn vay(HS) là tỷ số giữa tổng dư nợ tín dụng trung, dài hạn
và tổng vốn trung, dài hạn huy động.
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích so sánh khả năng cho vay của ngân hàng
với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy
động. Hầu hết ngân hàng thương mại sử dụng nguồn vốn trung dài hạn để đầu tư
cho 3 loại tài sản là tài sản cố định, tín dụng trung dài hạn và đầu tư trung dài hạn.
Như vậy nếu tỷ lệ trên càng gần một thì chứng tỏ hầu hết các khoản tín dụng trung

dài hạn của ngân hàng được tài trợ bởi nguồn vốn trung và dài hạn, điều đó đảm
bảo cho ngân hàng có một cơ cấu vốn tối ưu xét về mặt phòng ngừa rủi ro.
Việt Nam đang có xu hướng trong tương lai phát triển cơ sở hạ tầng vững
mạnh để thu hút vốn đầu tư của nước ngồi nên luật của các tổ chức tín dụng đã
cho phép tài trợ 25% vốn trung, dài hạn bằng nguồn vốn ngắn hạn do nhu cầu về
vốn tín dụng trung, dài hạn cao mà khả năng huy động nguồn vốn này cịn hạn chế.
Thêm vào đó, do đặc điểm các nguồn vốn ngắn hạn của ngân hàng có sự gối đầu
nhất định nên ngân hàng có thể tận dụng nguồn này một cáh hợp lý để cho vay
trung dài hạn.
Chính vì vậy mà tỷ lệ này ở các ngân hàng thường cao hơn 1, khi đó ngân hàng
sẽ sử dụng vốn trung, dài hạn có hiệu quả nếu biết kết hợp với chỉ tiêu dư nợ tín
dụng trung dài hạn ở trên.




Chỉ tiêu dư nợ tín dụng trung, dài hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng dư nợ tín dụng trung dài hạn so với tổng dư nợ
tín dụng của ngân hàng, tức là phản ánh quy mơ của tín dụng trung dài hạn trong
mối tương quan với quy mơ tín dụng ngắn hạn.
Đây là một chỉ tiêu tương đối vì được xem xét tại một thời điểm nhất định vào
cuối năm tài chính hay được tính bình qn trong năm.
Chỉ tiêu này mà lớn chứng tỏ ngân hàng cho vay trung, dài hạn nhiều. Tuy
nhiên, có thể tỷ kệ này cao lại do công tác thu nợ không được thực hiện tốt. Nói
chung các ngân hàng đều mong muốn có được tỷ lệ này cao vì tín dụng trung dài
hạn là hoạt động mang lại thu nhập lớn hơn so với tín dụng ngắn hạn. Mỗi ngân
hàng tuỳ theo hoạt động của mình có kết cấu tài sản khác nhau mà tỷ lệ này có
khác nhau.




Chỉ tiêu tỷ lệ nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ quá hạn = Nợ quá hạn trung, dài hạn / tổng dư nợ trung, dài hạn.
Chỉ tiêu này phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân
hàng, nếu tỷ lệ này cao thì chứng tỏ ngân hàng đó hoạt động kém hiệu quả và
ngược lại. Rõ ràng các ngân hàng đều mong muốn hạ tỷ lệ này xuống càng tháp
càng tốt, bởi lẽ tỷ lệ này càng cao chứng tỏ ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro. Tuy
nhiên trong thực tế do những rủi ro trong kinh doanh là không thể tránh khỏi nên
các ngân hàng thường chấp nhận một tỷ lệ nợ quá hạn nhất định được coi như giới
hạn an toàn. Theo ý kiến của các chuyên gia, tỷ lệ này ở mức dưới 3% là có thể
chấp nhận được, cịn đạt mức dưới 1,5% có thể coi là lý tưởng.
Chỉ tiêu trên tuy phản ánh khái quát tình hình nợ quá hạn của ngân hàng nhưng
phải kết hợp với các chỉ tiêu sau thì mới phản ánh chân thực được chất lượng tín
dụng.


Tỷ lệ nợ q hạn khó địi trên tổng dư nợ:
DN NQHKĐ TD trung dài hạn
Dư nợ TD trung dài hạn
Tỷ lệ nợ q hạn khơng có khả năng thu hồi trên tổng dư nợ:
Dư nợ NQH TD trung dài hạn khơng có khả năng thu hồi
Dư nợ TD trung dài hạn
Nợ khó địi là những khoản nợ có ít khả năng thu hồi nhưng vẫn cịn có hi vọng
thu hồi được nợ, cịn nợ khơng có khả năng thu hồi cũng đồng nghĩa với mất vốn.
Nếu cả hai chỉ tiêu này ở mức thấp thì dù chỉ tiêu nợ quá hạn trung dài hạn trên
tổng dư nợ có cao cũng chưa phải quá tồi tệ đối với ngân hàng. Ngược lại nếu hai
chỉ tiêu này ở mức cao nhất là chỉ tiêu nợ khơng có khả năng thu hồi thì rõ ràng
hoạt động của ngân hàng đang gặp nhiều rủi ro, tuy có thể chưa đe doạ đến sự tồn
tại của ngân hàng nhưng rõ ràng chất lượng tín dụng trung dài hạn trong trường
hợp này là rất thấp.

*Về doanh nghiệp
Các chỉ tiêu thường được sử dụng để đánh giá chất lượng của khoản tín dụng
trung dài hạn bao gồm:
- Mức tăng năng suất lao động.
- Doanh thu tăng từ dự án.
- Lợi nhuận tăng từ dự án.
Các chỉ tiêu này càng cao càng tốt, nó cho thấy hiệu quả sử dụng vốn vay của
doanh nghiệp đạt mức cao. Đó là tiền đề để doanh nghiệp thực hiện đúng cam kết
trả nợ cho ngân hàng đồng thời bản thân doanh nghiệp có lợi nhuận, đóng góp vào
sự phát triển chung của nền kinh tế.


Tóm lại, chất lượng tín dụng ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng trung
dài hạn nói riêng là một khái niệm tổng hợp vừa mang tính cụ thể vừa mang tính
trừu tượng được biểu hiện thơng qua nhiều chỉ tiêu khác nhau của ngân hàng, của
doanh nghiệp và của nền kinh tế.
2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ quan trọng, đặc biệt trong thời gian gần
đây các ngân hàng có xu hướng nâng cao tỷ trọng cho vay trung, dài hạn để chuyển
đổi cơ cấu cho vay của ngân hàng. Đây là một nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ
yếu cho ngân hàng, khoảng 70% lợi nhuận. Trong thời gian gần đây, do nhiều
nguyên nhân khác nhau đã ảnh hưởng tới chất lượng của khoản cho vay này. Nợ
quá hạn có xu hướng gia tăng, nhiều khoản vay khó được hồn trả chuyển sang
khoản nợ khó địi đã làm cho ngân hàng ln trong tình trạng mất khả năng thanh
tốn. Chính vì vậy chất lượng tín dụng trung, dài hạn ln là vấn đề đáng được
quan tâm của ngân hàng.
Chất lượng tín dụng trung, dài hạn phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu sau:


Người cho vay.




Người đi vay



Mơi trường kinh tế.



Mơi trường pháp lý.



Mơi trường thiên nhiên.
Một sản phẩm tín dụng ngân hàng được xem là tốt, có chất lượng thì phải kết
hợp hoàn hảo của các yếu tố trên. Tuy nhiên, khi xem xét các nhân tố ảnh hưởng
tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn thì nhân tố xét đến đầu tiên là nhìn từ phía
người đi vay hay khách hàng.


2.3.1 . Nhìn từ góc độ người đi vay.
Đây là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Trên thực tế, hoạt động sản xuất kinh doanh của bất cứ doanh nghiệp nào cũng
chứa dựng những rủi ro từ khâu sản xuất đến khâu lưu thơng, tiêu thụ sản phẩm.
Trong quan hệ tín dụng, doanh nghiệp là người được ngân hàng tín nhiệm trao
quyền sử dụng vốn. Vì vậy, rủi ro trong hoạt động sản xuất kinh doanh của khách
hàng cũng chính là rủi ro trong hoạt động của ngân hàng. Điều này buộc chúng ta
phải xem xét các vấn đề của người đi vay có liên quan tới chất lượng tín dụng

trung, dài hạn của ngân hàng.
Các doanh nghiệp khi đến ngân hàng vay vốn đều phải tính đến hiệu quả của
việc sử dụng vốn vay. Nếu họ thực hiện có hiệu quả dự án và có lợi nhuận thì chất
lượng tín dụng trung, dài hạn sẽ tăng lên. Tuy nhiên, trong suốt quá trình tiến hành
sản xuất kinh doanh doanh nghiệp có thể gặp phải những thay đổi ngồi dự kiến,
thậm chí có những sai lầm trong quản lý, kỹ năng kinh doanh của khách hàng, sử
dụng vốn vay sai mục đích, khơng đảm bảo độ an toàn trong sử dụng vốn gây mất
vốn dẫn đến rủi ro cao cho hoạt động của ngân hàng.
Một số doanh nghiệp nhà nước chưa bắt kịp với nhịp độ nền kinh tế, có thói
quen trơng chờ vào nhà nước. Trước đây những doanh nghiệp này được ngân sách
Nhà nước cấp vốn do vậy khi bị thua lỗ, họ đã trông mong vào sự cấp bù của Ngân
sách Nhà nước. Thời kì gần đây bắt đầu chuyển sang hạch toán kinh doanh, các
doanh nghiệp này phải đi vay ngân hàng thay cho việc cấp phát vốn từ Ngân sách
Nhà nước trước đây, nhưng khi bị thua lỗ họ vẫn trông vào Nhà nước bằng việc
khoanh nợ hay xố nợ. Nói chung, các doanh nghiệp chưa có ý thức về hậu quả
của sự thua lỗ như các doanh nghiệp ngồi quốc doanh, vì vậy đã gây thiệt hại cho
ngân hàng.


Cho dù các ngân hàng có thực hiện đúng các yêu cầu khi cấp tín dụng trung, dài
hạn và chủ đầu tư có đủ khả năng cũng như đạo đức để thực hiện dự án thì khoản
cho vay cũng vẫn có thể có chất lượng khơng cao. Đó là do ảnh hưởng của các yếu
tố môi truờng.
2.3.2. Môi trường kinh tế.
Mơi trường cần phải nói đến đầu tiên là mơi trường kinh tế. Nếu môi trường
kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cơng tác tín dụng trung, dài hạn
phát triển. Ngược lại nếu môi trường kinh tế kém phát triển, trì trệ thì chất lượng
các khoản tín dụng trung, dài hạn cũng sẽ thấp đi. Vì thực tế mơi trường kinh tế rất
có thể có những thay đổi bất ngờ. Chẳng hạn khi lạm phát cao, lãi suất thực sẽ
giảm xuống, nếu ngân hàng không thực hiện cân đối giữa các loại nguồn và sử

dụng nguồn nhạy cảm với lãi suất thì có thể khoản cho vay sẽ khơng đem lại kết
quả như mong đợi.
Cũng có thể có những biến động về tỷ giá hoặc biến động về thị trường làm chủ
đầu tư bị bất ngờ dẫn đến thu khơng đủ bù chi đó là ngun nhân làm giảm khả
năng trả nợ cho ngân hàng.
Môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến sức mạnh tài chính của người đi
vay. Trong những giai đoạn phát triển kinh tế ổn định và hưng thịnh, người đi vay
hoạt động tốt do có lợi tức cao, nhưng trong giai đoạn khủng hoảng thì khả năng
trả nợ bị giảm sút. Như vậy là ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn
của ngân hàng.
2.3.3. Môi trường tự nhiên.
Khi xem xét các khoản cho vay, ngân hàng phải chú ý tới mối liên hệ giữa
khoản vay và môi trường tự nhiên giữa các góc độ khác nhau, đây cũng là nhân tố
ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung, dài hạn.




Dự án khoản vay sẽ ảnh hưởng gì đến mơi trường thiên nhiên và ngược lại môi
trường thiên nhiên sẽ tác động như thế nào đến dự án?



Mơi trường tự nhiên sẽ ảnh hưởng như thế nào đến tài sản thế chấp?
Ví dụ như một khoản cho vay trung, dài hạn được đảm bảo bằng một tài sản cố
định nhưng do tác động của môi trường thiên nhiên làm cho khoản vay đó giảm sút
giá trị so với khoản vay và điều này có thể gây rủi ro cho ngân hàng. Thêm vào đó
Việt Nam lại là nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường xuyên xảy ra lũ lụt gây
thiệt hại về người và tài sản do đó việc đầu tư vào sản xuất kinh doanh có thể gặp
nhiều rủi ro làm giảm chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng.

2.3.4. Môi trường pháp lý.
Cũng như hai mơi trường trên thì mơi trường pháp lý có tác động không nhỏ
đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại và như vậy cũng tác động
đến hoạt động cho vay trung, dài hạn của ngân hàng.



Mơi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng trung, dài hạn chưa đầy đủ, chưa
đồng bộ. Khả năng thực thi của luật chứng thư sở hữu tài sản còn yếu. Trong khi
đó, điều kiện đặt ra là để thế chấp tài sản phải có đầy đủ giấy tờ pháp lý.



Hiệu lực pháp lý của các cơ quan hành pháp chưa đáp ứng được yêu cầu giải
quyết các tranh chấp, tố tụng về hợp đồng kinh tế, hợp đồng dân sự, phát mại tài
sản thế chấp.
Quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp còn nhiều sơ hở. Nhà nước cho
phép nhiều doanh nghiệp được sản xuất kinh doanh với nhiều chức năng nhiệm vụ
vượt quá trình độ, năng lực quản lý, quy mơ hoạt động so với nguồn vốn tự có của
doanh nghiệp. Dẫn đến vốn vay gấp nhiều lần so với vốn tự có của doanh nghiệp,
làm nảy sinh những điều kiện dẫn đến rủi ro, thua lỗ trong hoạt động kinh doanh
gây khó khăn cho cơng tác thu hồi nợ của ngân hàng.


Trên đây là một số yếu tố khách quan ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung,
dài hạn của ngân hàng. Nhưng chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng
cịn bị ảnh hưởng bởi chính bản thân ngân hàng hay cịn gọi là yếu tố chủ quan từ
phía ngân hàng.
2.3.5. Nhìn từ góc độ người cho vay ( ngân hàng).
• Quy mơ và cơ cấu kì hạn nguồn vốn của Ngân hàng Thương mại.

Muốn cho vay được thì điều kiện truớc tiên là ngân hàng phải có vốn, nhưng do
yêu cầu phải bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên nên các khoản vay trung
và dài hạn của ngân hàng cần phải được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn trung dài
hạn bao gồm các nguồn vốn có thời hạn từ một năm trở lên và các nguồn vốn ngắn
hạn nhưng có tính ổn định cao trong thời gian dài. Nếu một ngân hàng có nguồn
vốn dồi dào nhưng lại chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn và khơng ổn định thì khơng
thể và khơng nên cho vay trung dài hạn quá nhiều. Quy mô của nguồn vốn này
quyết định quy mô cho vay trung dài hạn và do đó ảnh hưởng tới chất lượng tín
dụng trung dài hạn của ngân hàng. Ngồi ra một ngân hàng có nguồn vốn trung và
dài hạn dồi dào cũng dễ dàng hơn trong việc tạo lập uy tín đối với khách hàng nhờ
đó thu hút được nhiều khách hàng.
• Thơng tin tín dụng.
Thơng tin ln là yếu tố cơ bản cần thiết cho cơng tác quản lý dù ở bất kì lĩnh
vực nào. Trong hoạt động tín dụng trung dài hạn cũng vậy, để thẩm định dự án
thẩm định khách hàng trước hết phải có thơng tin về dự án và thơng tin về khách
hàng đó để làm tốt cơng tác giám sát sau khi cho vay, theo dõi việc sử dụng vốn
vay và tiến độ trả nợ của khách hàng.Thông tin chính xác kịp thời đầy đủ cịn giúp
ngân hàng xây dựng hay điều chỉnh kế hoạch kinh doanh, chính sách tín dụng một
cách linh hoạt cho phù hợp với tình hình thực tế. Tất cả những điều đó góp phần
nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng.


• Công nghệ ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng trang thiết bị kĩ thuật cũng là một yếu tố tác động tới chất
lượng tín dụng trung dài hạn của ngân hàng, nhất là trong thời đại khoa học kĩ
thuật phát triển như vũ bão hiện nay. Một ngân hàng sử dụng trang thiết bị các
phương tiện kĩ thuật chất lượng cao sẽ tạo điều kiện đơn giản hoá các thủ tục, rút
ngắn thời gian giao dịch, đem lại sự tiện lợi tối đa cho khách hàng vay vốn. Đó là
yếu tố đầu tiên để ngân hàng thu hút thêm khách hàng và có điều kiện nâng cao
chất lượng tín dụng trung dài hạn.

• Khâu thẩm định dự án: Đối với ngân hàng khi quyết định cho vay đối với bất cứ
khách hàng nào cũng phải xem xét kĩ lưỡng về tất cả các mặt của người đi vay như
tư cách pháp nhân, khả năng tài chính...
Trong tất cả các việc cần làm thì việc thẩm định dự án đầu tư là khơng thể thiếu
được vì nó giúp các ngân hàng xem xét một cách toàn diện các mặt của dự án để
xác định tính khả thi của dự án và để ra quyết định cho vay.
Trên thực tế có ngân hàng đã bỏ qua những yêu cầu cần thiết, không được thẩm
định kĩ và không đủ thông tin nên cho vay vượt quá nhiều lần vốn tự có của doanh
nghiệp, cho vay khơng đủ tài sản đảm bảo nợ vay... Chính những món vay đó khi
khơng hồn trả được sẽ gây nên thiệt hại rất lớn cho ngân hàng. Nếu việc thẩm
định khơng được chặt chẽ thì khả năng xảy ra tổn thất đối với ngân hàng là rất lớn.
Muốn việc thẩm định dự án đạt kết quả thì yêu cầu về thơng tin có liên quan
đến dự án là vơ cùng quan trọng nó góp phần rất lớn vào việc nâng cao chất lượng
tín dụng trung, dài hạn. Điểm yếu của các ngân hàng thương mại nước ta là thiếu
hệ thống thông tin khách hàng. Điều này đã phần nào làm giảm chất lượng tín dụng
trung, dài hạn.
Ngồi ra chất lượng tín dụng trung, dài hạn tốt hay xấu cịn phụ thuộc vào đội
ngũ cán bộ tín dụng. Vì cán bộ tín dụng là người theo sát dự án, phát hiện kịp thời


những thông tin sai lệch và là người chịu trách nhiệm chính của khoản cho vay.
Khi tiếp cận các dự án tín dụng trung, dài hạn, cán bộ tín dụng Nếu không nghiên
cứu kĩ hồ sơ vay vốn hoặc do trình độ cán bộ tín dụng cịn hạn chế dẫn tới khả
năng phân tích dự án cịn nhiều thiếu sót, sơ hở. Do đó, nhiều khi cho vay đã
khơng đánh giá hết được mức độ rủi ro của dự án hoặc khơng phân tích được các
báo cáo tài chính một cách chính xác, khơng phân tích được khả năng kinh doanh
của lãnh đạo doanh nghiệp, không biết năng lực thực sự của khách hàng ... Do đó,
khi họ kinh doanh thua lỗ sẽ không trả được nợ cho ngân hàng là điều tất yếu.



Khâu kiểm tra sau khi cho vay.
Đây là khâu rất quan trọng trong quy trình ngiệp vụ tín dụng. Nhưng ở Ngân
hàng Đầu tư & Phát triển Việt Nam khâu này vẫn chưa được kiểm tra chặt chẽ.
Thực tế trong thời gian qua, có rất nhiều khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích,
nguyên nhân phát sinh từ phía khách hàng và sự lơ là của nhân viên tín dụng.



Chính sách tín dụng của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng,
ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng khoản cho vay, các khoản đảm bảo và nhiều yếu
tố khác. Chính sách tín dụng của ngân hàng không những phụ thuộc vào mục tiêu
của bản thân ngân hàng mà còn phụ thuộc khá nhiều vào chính sách của Chính phủ
và các cơ quan quản lý.



Cuối cùng, đối với ngân hàng việc nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn
phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế hoạt động của ngân hàng. Đây là yếu tố thuộc nội
bộ của ngân hàng. Tuy nhiên, xét một cách khách quan, cần phải xây dựng được
một cơ chế hợp động hợp lý, nhịp nhàng giữa các bộ phận, các phịng ban ln có
sự ăn khớp với nhau đồng thời sự chỉ đạo của các cấp lãnh đạo phải ln kịp thời
và có hiệu lực cao. Một cơ chế hoạt động tốt chính là điều kiện cơ bản cho sự
thành công trong hoạt động của ngân hàng và nhờ đó có biện pháp đúng đắn để
nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng trung, dài hạn.


2.4. Biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng.
2.4.1.Biện pháp sàng lọc và giám sát.
Đây là bước tiền đề tạo đà cho các bước tiếp theo của một quá trình cho vay.
Nếu bước này tiến hành được kĩ càng và cẩn thận thì những bước tiếp theo cũng sẽ

được thuận lợi. Vì việc sàng lọc là hoạt động của ngân hàng diễn ra trước khi có
một quyết định cho vay một khoản vốn nào đó. Ngân hàng sẽ phải sàng lọc những
khách hàng có triển vọng tốt ra khỏi những khách hàng vay tín dụng có xu hướng
xấu nhờ đó mà các món vay sẽ góp phần đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Để thực
hiện được việc sàng lọc có hiệu quả thì ngân hàng cần phải thu thập thông tin tin
cậy về phía khách hàng như khả năng tài chính, khả năng sinh lời của các dự án,
phương án vay vốn, tình hình thanh tốn của khách hàng vay với những đơn vị
khác, các khoản nợ khó địi, nợ q hạn
Nếu như cơng tác sàng lọc được diễn ra trước khi có các hoạt động cho vay thì
cơng tác giám sát là bước tiếp sau khi đã cho vay vốn.
Bắt đầu từ thời điểm này vốn nằm trong tay các doanh nghiệp và cũng là lúc
ngân hàng đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn. Nếu các doanh nghiệp kinh doanh có
hiệu quả thì đó là điều kiện thuận lợi cho ngân hàng. Nếu doanh nghiệp kinh doanh
khơng có hiệu quả thì ngân hàng sẽ cùng phải gánh chịu những tổn thất của doanh
nghiệp. Vì vậy, sau khi đã cho vay ngân hàng cần phải theo dõi, giám sát việc sử
dụng tiền vay có đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng khơng,
giám sát khả năng sinh lời của dự án vay vốn, việc đảm bảo đúng tiến độ giải ngân
và sử dụng tiền. Trong quá trình giám sát, theo dõi, nếu ngân hàng phát hiện ra
khách hàng vi phạm hợp đồng thì cần phải có những biện pháp xử lý thích hợp.
Chính vì tầm quan trọng của sàng lọc và giám sát mà hầu hết các ngân hàng
thành công trong kinh doanh đều thực hiện chi những khoản tiền lớn cho hoạt động
điều tra và tập hợp thông tin khách hàng.


2.4.2. Biện pháp tạo lập nhiều mối quan hệ lâu dài với khách hàng.
Đây là một trong những biện pháp quan trọng không những đối với hoạt động
cho vay mà còn là quy tắc quản lý ngân hàng. Việc tuân thủ nguyên tắc này mang
lại lợi ích cho cả người đi vay và ngân hàng.
Trước hết, quan hệ với khách hàng lâu dài giúp cho quá trình sàng lọc và giám
sát thêm phần hiệu quả do các chi phí cho việc tìm hiểu về thơng tin khách hàng,

giám sát khách hàng sẽ giảm xuống vì trên thực tế ngân hàng đã hiểu rõ về khách
hàng.
Khách hàng cũng có lợi khi thiết lập mối quan hệ lâu dài với ngân hàng vì họ có
thể được ưu đãi về lãi suất cho vay và thủ tục cho vay nhanh gọn hơn.
Chính vì sự quan trọng của nguyên tắc này mà nhiều ngân hàng ln muốn tìm
kiếm được nhiều khách hàng tốt và giữ mối quan hệ với họ thật lâu dài.
2.4.3. Biện pháp tài sản thế chấp và số dư bù.
Nói chung khi cho vay vốn ngân hàng thường xuyên yêu cầu bên vay phải có
tài sản đảm bảo nợ vay. Thơng thường ngân hàng chỉ cho vay ở mức nhỏ hơn giá
trị tài sản thế chấp. Vật thế chấp là nguồn thu nợ thứ hai cho ngân hàng khi người
vay không trả được nợ. Nó sẽ ràng buộc người vay với các khoản nợ. Vì thế, họ sẽ
phải có trách nhiệm sử dụng tiền vay có hiệu quả để trả nợ cho ngân hàng, trên cơ
sở đó chất lượng tín dụng sẽ được nâng cao.
Số dư bù là số dư tiền gửi tối thiểu tại ngân hàng. Số dư bù là một dạng riêng
của thế chấp bắt buộc. Khi phát tiền vay, ngân hàng sẽ giữ lại một tỷ lệ nhất định
và khoản tiền này không được hưởng lãi. Trong trường hợp người vay khơng trả
được nợ thì ngân hàng lấy số dư bù để bù đắp một phần tổn thất. Nếu người vay trả
được nợ thì ngân hàng lại trả số tiền đó cho họ. Như vậy số dư bù được hiểu như là
một khoản tiền bảo đảm cho khoản vay.


2.4.4. Biện pháp hạn chế tín dụng.
Đây là một biện pháp quan trọng giúp cho ngân hàng thành đạt đối phó với
những lựa chọn đối nghịch và rủi ro về đạo đức. Thực hiện nghiêm chỉnh các hạn
chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng .

Ở Việt Nam theo luật các tổ chức tín dụng hạn chế tín dụng đối với một khách
hàng khơng vượt q 15% vốn tự có của ngân hàng và tổng số tiền cho vay đối với
10 khách hàng lớn không vượt quá 30% tổng dư nợ. Mục đích của việc giới hạn
này mức cho vay tối đa sẽ hạn chế tập trung vốn vào một số ít khách hàng, một số

ít lĩnh vực kinh doanh nhằm tránh rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó
khống chế mức cho vay tối đa đối với một khách hàng cịn thúc đẩy ngân hàng đa
dạng hố khách hàng, lĩnh vực đầu tư, tránh rủi ro, phân tán rủi ro. Đây cũng là
nhưng quy định của pháp luật nhằm phòng ngừa, chống rủi ro tổn thất cho ngân
hàng, đảm bảo an tồn cho chính ngân hàng và cho toàn hệ thống.
2.4.5. Biện pháp quản lý chặt chẽ vốn của ngân hàng.
Muốn nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn và trách nhiệm của toàn ngân
hàng trong việc cho vay thì phải duy trì vững chắc nguồn vốn tự có. Nếu ngân
hàng quản lý khơng tốt thì có thể bị mất vốn hoặc bị giảm giá khoản tiền vay. Vốn
tự có của ngân hàng là chỗ dựa để ngân hàng có thể duy trì chức năng cho vay của
mình đồng thời nâng cao trách nhiệm của ngân hàng khơng những vì lợi ích của
mình mà cịn vì lợi ích của khách hàng.
Tóm lại, nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn là vấn đề đang được các
ngân hàng thương mại quan tâm đặc biệt là Ngân hàng



×