Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và việc vận dụng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam trong thời kỳ mớ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.5 KB, 39 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước pháp quyền,
nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là tư tưởng
độc đáo, sáng tạo của Người và của Đảng ta trong tiến trình
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Đây là kết quả của sự vận dụng
và phát triển những quan điểm tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin, sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá thế giới vào xây
dựng chính quyền nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ.
Theo Hồ Chí Minh, nhà nước phải thể hiện ý chí quyền lực
của dân, mưu cầu hạnh phúc cho dân, phấn đấu đem lại lợi ích
cho dân, thoả mãn những nhu cầu hợp lý của các tầng lớp nhân
dân trong xã hội. Đó là một nhà nước dân chủ và tiến bộ. Quán
triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền làm chủ đất nước và xã hội
của nhân dân, Đảng ta đã đúc kết thành cơ chế, chính sách
quản lý, điều hành đất nước: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
nhân dân làm chủ. Cơ chế đó phát huy được tính tích cực, chủ
động của các tổ chức chính trị - xã hội, tạo nên sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị, đáp ứng đòi hỏi của các cuộc
chiến tranh giải phóng dân tộc cũng như sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bước vào thời kỳ mới, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới
đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, việc xây dựng nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh phải tiếp tục được quán triệt sâu sắc.
Bởi đây là nền tảng tư tưởng, lý luận quan trọng trong tổ chức
2



và hoạt động của nhà nước pháp quyền kiểu mới do nhân dân
làm chủ.
Vì vậy, em chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân và
việc vận dụng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong thời kỳ mới” làm tiểu luận môn “Quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về
xây dựng Đảng và chính quyền Nhà nước”.
CHƯƠNG 1. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN CỦA DÂN, DO DÂN VÀ VÌ DÂN
1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân
Nếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề
chính quyền thì vấn đề cơ bản của chính quyền là ở chỗ nó
thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai. Năm 1927, trong cuốn
“Đường Kách Mệnh”, Bác chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm kách
mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao kách mệnh rồi
thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới
được hạnh phúc”. Sau khi giành độc lập, Người khẳng định,
“nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân,
bao nhiêu lợi ích đều vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực
lượng đều ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với
nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.
Thế nào là nhà nước của dân?
3


Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Năm

1946) khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng
hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt
Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp,
tôn giáo”.
Điều 32 của Hiến pháp viết: “Những việc liên quan đến vận
mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết...”, thực chất đó
là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm
ở nước ta.
Nhà nước của dân thì mọi người dân là chủ, người dân có
quyền làm bất cứ việc gì mà pháp luật không cấm và có nghĩa
vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân phải bằng mọi nỗ lực,
hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của
người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền
của dân, chỉ là công bộc của dân.
Thế nào là nhà nước do dân?
Nhà nước đó do nhân dân lựa chọn bầu ra những đại biểu
của mình, nhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để chi
tiêu, hoạt động; nhà nước đó lại do dân phê bình xây dựng, giúp
đỡ. Do đó, Bác yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa
vào dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu
sự kiểm soát của nhân dân. “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân
có quyền đuổi Chính phủ”, nghĩa là khi cơ quan nhà nước không
đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có
quyền bãi miễn nó. Hồ Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách
nhiệm “ghé vai gánh vác một phần” vì quyền lợi, quyền hạn bao
4


giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.
Thế nào là nhà nước vì dân?

Đó là nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng
của nhân dân, không có đặc quyền đặc lợi, thực sự trong sạch,
cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở
xuống đều là công bộc của dân.
“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,
Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”.
Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là
nhân dân với cán bộ, công chức nhà nước là công bộc của nhân
dân, do nhân dân bầu ra, được nhân dân thừa ủy quyền. Là
người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh
đạo, hướng dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì Chính
phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân
không ai dẫn đường”. Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải
trung thành, tận tụy, cần kiệm liêm chính..., là người lãnh đạo
thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần
gũi với dân, trọng dụng hiền tài...
Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài.
1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất giữa bản
chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc
của nhà nước ta
1.2.1. Bản chất giai cấp công nhân của nhà nước ta
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp, “là nhà nước dân chủ
5


nhân dân dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp
công nhân lãnh đạo”. Bản chất giai cấp công nhân biểu hiện ở
chỗ:
- Nhà nước ta do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo.
Đảng lãnh đạo bằng những chủ trương, đường lối thông qua tổ

chức của mình trong Quốc hội, Chính phủ, các ngành, các cấp
của Nhà nước; được thể chế thành pháp luật, chính sách, kế
hoạch của Nhà nước.
- Bản chất giai cấp còn thể hiện ở định hướng đưa nước ta
đi lên chủ nghĩa xã hội. “Bằng cách phát triển và cải tạo nền
kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền kinh tế lạc hậu
thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến”.
- Bản chất giai cấp của Nhà nước ta còn thể hiện ở nguyên
tắc tổ chức cơ bản là nguyên tắc tập trung dân chủ. “Nhà nước
ta phát huy dân chủ đến cao độ... mới động viên được tất cả lực
lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến lên. Đồng thời phải tập
trung cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ
nghĩa xã hội”.
Bên cạnh dân chủ, Bác cũng nhắc đến chuyên chính, “chế
độ nào cũng có chuyên chính. Vấn đề là ai chuyên chính với
ai?”. “Dân chủ là của quý báu của nhân dân, chuyên chính là cái
khoá, cái cửa để đề phòng kẻ phá hoại... dân chủ cũng cần
chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ”.

6


1.2.2. Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thống nhất
với tính nhân dân và tính dân tộc
Tính thống nhất thể hiện ở chỗ:
(1) Nhà nước dân chủ mới ra đời là kết quả của cuộc đấu
tranh lâu dài và gian khổ với sự hy sinh xương máu của bao thế
hệ cách mạng.
(2) Nhà nước ta vừa mang bản chất giai cấp vừa có tính

nhân dân và tính dân tộc vì nó lấy lợi ích của dân tộc làm nền
tảng và bảo vệ lợi ích cho nhân dân. Trong thời gian Người lãnh
đạo đất nước, nhờ sách lược mềm dẻo, cũng như Người dung
nạp nhiều nhân sĩ, trí thức, quan lại cao cấp của chế độ cũ vào
bộ máy nhà nước đã thể hiện tư tưởng Nhà nước ta là nhà nước
của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Nhà nước ta vừa ra đời đã đảm nhiệm vai trò lịch sử là tổ
chức toàn dân kháng chiến để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ
quốc, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc
lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần tích cực vào sự phát triển
tiến bộ của thế giới.
1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước pháp
quyền có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ
1.3.1 Xây dựng một nhà nước hợp hiến
Nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ trước hết là một
nhà nước hợp hiến. Vì vậy, sau khi giành chính quyền, Hồ Chí
Minh đã thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn độc lập,
tuyên bố với quốc dân đồng bào và với thế giới khai sinh Nhà
7


nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Chính phủ lâm thời có địa vị
hợp pháp, tổng tuyển cử bầu ra quốc hội rồi từ đó lập Chính phủ
và các cơ quan nhà nước mới.
Sau đó, Người bắt tay xây dựng Hiến pháp dân chủ, tổ
chức tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, thành lập
Ủy ban dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh được Quốc hội nhất trí bầu làm Chủ
tịch Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Đây là Chính phủ hợp hiến
đầu tiên do nhân dân bầu ra, có đầy đủ tư cách và hiệu lực

trong việc giải quyết các vấn đề đối nội và đối ngoại.
1.3.2. Quản lý nhà nước bằng pháp luật và chú trọng
đưa pháp luật vào cuộc sống
Nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý là Nhà nước quản
lý đất nước bằng pháp luật và phải làm cho pháp luật có hiệu
lực trong thực tế. Trong nhà nước dân chủ, dân chủ và pháp luật
luôn đi đôi với nhau, đảm bảo cho chính quyền trở nên mạnh
mẽ. Mọi quyền dân chủ phải được thể chế hoá bằng hiến pháp
và pháp luật. Xây dựng một nền pháp chế xã hội chủ nghĩa đảm
bảo việc thực hiện quyền lực của nhân dân là mối quan tâm của
Hồ Chí Minh. Là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ, có
công lớn trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp, một mặt Người
chăm lo hoàn thiện Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà
nước ta, mặt khác Người chăm lo đưa pháp luật vào cuộc sống,
tạo cơ chế đảm bảo cho pháp luật được thi hành, cơ chế kiểm
tra, giám sát việc thi hành của các cơ quan nhà nước và của
nhân dân. “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Sức mạnh
8


là do con người và vì con người, vì vậy, Hồ Chí Minh yêu cầu mọi
người phải hiểu và tuyệt đối chấp hành pháp luật, bất kể người
đó giữ cương vị nào. Công tác giáo dục pháp luật cho mọi người,
đặc biệt là cho thế hệ trẻ cực kỳ quan trọng trong việc xây dựng
một nhà nước pháp quyền có hiệu lực pháp lý, đảm bảo quyền
và nghĩa vụ công dân được thực thi trong cuộc sống.
1.3.3. Tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức
của Nhà nước có đủ đức và tài
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền có hiệu lực mạnh mẽ,
Bác Hồ cho rằng, phải nhanh chóng đào tạo, bồi dưỡng nhằm

hình thành một đội ngũ viên chức nhà nước có trình độ văn hoá,
am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là
phải có đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư, một tiêu
chuẩn cơ bản của người cầm cân công lý. Yêu cầu của đội ngũ
cán bộ phải có đức và tài, trong đó đức là gốc, đội ngũ này phải
được tổ chức hợp lý và có hiệu quả. Cụ thể là:
(1) Tuyệt đối trung thành với cách mạng.
(2) Hăng hái, thành thạo công việc, giỏi chuyên môn,
nghiệp vụ.
(3) Phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân.
(4) Cán bộ, công chức phải là những người dám phụ trách,
dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm, nhất là những tình
huống khó khăn, “thắng không kiêu, bại không nản”.
Để đảm bảo công bằng và dân chủ trong tuyển dụng cán
bộ nhà nước, Người ký sắc lệnh ban hành Quy chế công chức.
9


Công chức theo chế độ chức nghiệp, vì vậy phải qua thi tuyển
công chức để bổ nhiệm vào ngạch, bậc hành chính. Nội dung thi
tuyển khá toàn diện bao gồm 6 môn thi: chính trị, kinh tế, pháp
luật, địa lý, lịch sử và ngoại ngữ. Điều này thể hiện tầm nhìn xa,
tính chính quy hiện đại, tinh thần công bằng dân chủ... của tư
tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng nền móng cho Nhà nước
pháp quyền Việt Nam.
1.4. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước
trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả
Thứ nhất, tăng cường và khắc phục những tiêu cực trong
hoạt động của Nhà nước.
Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo

đức. Do tập quán của kinh tế tiểu nông, muốn hình thành ngay
một nhà nước pháp quyền là chưa được, vì vậy một mặt phải
nhấn mạnh vai trò của luật pháp, đồng thời tăng cường tuyên
truyền, giáo dục pháp luật trong nhân dân, nhất là giáo dục đạo
đức. Đạo đức và pháp luật là hai hình thái ý thức xã hội có thể
kết hợp cho nhau. Khắc phục những biểu hiện tiêu cực sau:
- Đặc quyền, đặc lợi.
- Tham ô, lãng phí, quan liêu.
- “Tư túng”, “chia rẽ”, “kiêu ngạo”.
Thứ hai, tăng cường pháp luật đi đôi với giáo dục đạo đức
cách mạng. Bên cạnh giáo dục đạo đức, Người kịp thời ban hành
pháp luật.

10


Kiên quyết chống ba thứ “giặc nội xâm” là tham ô, lãng
phí, quan liêu. Sức mạnh và hiệu quả của luật pháp, một mặt
dựa vào tính nghiêm minh của thi hành pháp luật, mặt khác dựa
vào sự gương mẫu, trong sạch về đạo đức của người cầm quyền.
Bác nói: “Tham ô, lãng phí, quan liêu, dù cố ý hay không, cũng
là bạn đồng minh của thực dân phong kiến... tội lỗi ấy cũng
nặng như tội việt gian, mật thám”. Mác và Ăngghen đã từng
cảnh tỉnh giai cấp vô sản rằng chủ nghĩa quan liêu có thể dẫn
các đảng cộng sản cầm quyền đến chỗ “đánh mất một lần nữa
chính quyền vừa giành được”. Lênin cũng viết “...chúng ta bị
khốn khổ trước hết về tệ quan liêu. Những người cộng sản đã trở
thành tên quan liêu. Nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì
chính là cái đó”.
Vì vậy, không thể nói đến một nhà nước trong sạch vững

mạnh, hiệu quả nếu không kiên quyết, thường xuyên đẩy mạnh
cuộc đấu tranh để ngăn chặn tận gốc những nguyên nhân gây
ra nạn tham ô, lãng phí, quan liêu.

11


CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
2.1. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một tất yếu lịch sử, khách quan
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong
mỗi giai đoạn sau này đã có không ít những thay đổi về mô hình
bộ máy dưới tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách
quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn là tư tưởng của
Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của
nhân dân. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vẫn
còn nguyên giá trị và là một tất yếu lịch sử, khách quan.
2.1.1. Tính tất yếu lịch sử
Tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát
triển của Nhà nước ta. Ngay từ khi thành lập và trong quá trình
phát triển, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã và luôn là
một nhà nước hợp hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và
hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến pháp và pháp luật
và luôn vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Các
đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân và các đạo luật về chính quyền địa phương
được xây dựng trên cơ sở các Hiến pháp năm 1946, năm 1959,

năm 1980, năm 1992 và năm 2013.
12


Những lần Hiến pháp được sửa đổi và thông qua là những
bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản
thân các cơ quan nhà nước. Vì vậy, có thể nói, quá trình xây
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử
được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và Hiến
pháp năm 1946.
Ngày nay, quá trình này đang được tiếp tục ở một tầng cao
phát triển mới với nhiều đòi hỏi và nhu cầu cải cách mới.
2.1.2. Tính tất yếu khách quan
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa mà
mục tiêu cơ bản là dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế
độ xã hội có tính mục tiêu như vậy, công cụ, phương tiện cơ bản
chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy còn xuất phát
từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải
cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho Nhà nước không
ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, củng cố
độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

13



2.2. Quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã xác định
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được xây
dựng, tổ chức và vận hành theo thể chế nhà nước pháp quyền
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đây là chủ trương,
đường lối có tính chiến lược của Đảng, xuất phát từ yêu cầu tất
yếu, khách quan của thực tiễn xây dựng và phát triển đất nước.
Những yêu cầu tất yếu, khách quan đó bao gồm: Một là, xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm
đáp ứng yêu cầu của tiến trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh
mẽ. Hai là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam xuất phát từ yêu cầu quản lý và phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ba là, xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu
phát triển xã hội theo hướng dân chủ, hài hòa và bền vững.
Từ những yêu cầu trên đây, bắt đầu từ Hội nghị đại biểu
toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 01-1994), Đảng Cộng
sản Việt Nam đã sử dụng khái niệm nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và khẳng định sự cần thiết phải xây dựng nhà nước
pháp quyền như một điều kiện không thể thiếu để phát triển
nền dân chủ thực sự vì nhân dân. Trong Văn kiện Đại hội IX,
Đảng ta đã khẳng định: “Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
14



thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật”.
Từ Nghị quyết Đại hội IX, tại Điều 2 Hiến pháp năm 1992
(sửa đổi năm 2001) đã ghi nhận: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp”.
Trong Văn kiện Đại hội X, Đảng ta tiếp tục khẳng định:
“Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cần xây
dựng cơ chế vận hành của Nhà nước, bảo đảm nguyên tắc tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong
việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoàn
thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ thể, khả thi của các quy
định trong văn bản pháp luật. Xây dựng và hoàn thiện thể chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến và hợp pháp trong các hoạt
động và quyết định của các cơ quan công quyền”.
Trong Văn kiện Đại hội XI, các đặc trưng cơ bản của nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã được khái quát một cách
cô đọng, tập trung tại một luận điểm về Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cụ thể, trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung,
15



phát triển năm 2011) có ghi rõ: “Nhà nước ta là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng
là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền
lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp và kiểm
soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa. Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật
thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân
dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám
sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa
và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm,
lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân; giữ nghiêm
kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Tổ quốc và của nhân dân. Tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công,
phân cấp, đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của Trung
ương”.
2.3. Những đặc trưng cơ bản của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.3.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân

16


Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân

chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”; “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, tức là nhân dân là chủ”. Với Hồ Chí Minh, nhân dân là
chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Toàn bộ
quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ
quyền cho bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích
của nhân dân. Bộ máy nhà nước được thiết lập là bộ máy thừa
hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là
công bộc của nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính nhân
dân lập ra thông qua chế độ bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ là
phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập trong
nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền
khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân.
Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được
thể chế hoá thành một mục tiêu hiến định ngay trong bản Hiến
pháp đầu tiên của chính thể dân chủ cộng hoà ở nước ta - Hiến
pháp 1946: “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt
của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của
Nhà nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp
1959, 1980, 1992 và 2013.
2.3.2. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, tôn
trọng và bảo vệ Hiến pháp
Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa
17


chọn chính trị được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ
nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến pháp
được coi là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý

cao nhất, quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội,
quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất
bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến
pháp là cơ sở pháp lý quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà
nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó chính là nền tảng có
tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay không
hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của
Nhà nước và của cá tính chất chính trị, tính chất xã hội.
Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc
duy trì quyền lực của nhân dân, cho nên, việc xây dựng và thực
hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát hiện, đánh giá và phán
quyết về những quy định và hoạt động trái với Hiến pháp là rất
cần thiết trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước ở nước
ta hiện nay.
2.3.3. Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội
bằng pháp luật, bảo đảm vị trí tối thượng của pháp luật
trong đời sống xã hội
Pháp luật xã hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự
thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
18


trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, giáo dục,
khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện
vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy
tiến bộ xã hội. Vì vậy, nói đến pháp luật trong nhà nước pháp
quyền là nói đến tính pháp luật khách quan của các quy định

pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra pháp luật,
áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung
với mục đích tự thân của nó.
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách
của Đảng và lợi ích của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở
thành phương thức quan trọng đối với tính chất và hoạt động
của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của xã hội ta: công
bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát
triển tiến bộ và bền vững của Nhà nước và xã hội ta.
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ
thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội,
làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Pháp
luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại
của các cơ cấu và tổ chức xã hội và của các thiết chế nhà nước.
Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật là lối sống
có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
2.3.4. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và
19


tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước
và công dân, giữa Nhà nước và xã hội
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về
các nhà nước cách mạng chân chính, nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Cuộc đấu tranh suốt hàng chục năm đầy gian khổ hy sinh của
dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của Đảng
suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống,

quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân
tộc và của từng cá nhân, từng con người. Do vậy, vấn đề bảo
đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền dân chủ,
nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa
công dân với Nhà nước… luôn được Đảng ta dành sự quan tâm
đặc biệt. Nhiều hội nghị của Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề
này như văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X, XI và nhiều nghị
quyết Trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác định: Xây
dựng một chính quyền không có đặc quyền, đặc lợi, hoạt động vì
cuộc sống của nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII xác
định trên nguyên tắc: dân chủ xã hội chủ nghĩa là vấn đề thuộc
bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm chủ của nhân
dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá bằng
pháp luật… Dân chủ đi đôi với kỷ cương, kỷ luật… Văn kiện Đại
hội Đảng IX xác định rõ những phương châm cơ bản: xây dựng
cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn
của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của
20


nhân dân: làm chủ thông qua đại diện (là cơ quan dân cử và các
đoàn thể), làm chủ trực tiếp bằng các hình thức nhân dân tự
quản, bằng việc xây dựng và thực hiện các quy ước, hương ước
tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo
đảm dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định và thực
hiện các quyết định.
2.3.5. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc

thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, có
sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực
nhà nước
Bắt đầu từ Đại hội Đảng lần thứ VII (1991), với “Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”,
quan điểm về sự tồn tại của ba quyền và sự phân công, phối hợp
giữa ba phạm vi quyền lực đó của Nhà nước mới được chính thức
khẳng định trên cơ sở tiếp thu, kế thừa, phát triển, vận dụng vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam các tri thức của nhân loại
và trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Và đến Hội nghị Trung
ương 8 khoá VII, quan niệm của Đảng về ba quyền đã được sự
bổ sung quan trọng: quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
21


Quan điểm về sự thống nhất quyền lực nhà nước có sự phân
công, phối hợp chặt chẽ giữa ba quyền và quyền lực nhà nước là
một quan điểm có tính nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế mô
hình tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2.3.6. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối
với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân là một tất yếu lịch sử và tất yếu khách
quan. Không chỉ vậy, sự lãnh đạo đó còn có cơ sở đạo lý sâu sắc
và cơ sở pháp lý vững vàng.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng duy nhất

cầm quyền đối với đời sống xã hội và đời sống nhà nước không
những không trái (mâu thuẫn) với bản chất nhà nước pháp
quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối
với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, Nhà nước
pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động là một trong những
đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo chính
trị, quyết định phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm
cho Nhà nước ta thực sự là tổ chức thực hiện quyền lực của
22


nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực hiện thành
công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ
trương của Đảng bằng các hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức
tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…

CHƯƠNG 3. TÌNH HÌNH XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP
QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
MỚI
3.1. Những thành tựu và hạn chế trong xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay

3.1.1. Những thành tựu chủ yếu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền
23


xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những
nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Sự xác định mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong Báo cáo
chính trị của Đại hội X không chỉ là khẳng định quyết tâm chính
trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt
động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà
còn là sự đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp
xây dựng nhà nước kiểu mới - một nhà nước của dân, do dân, vì
dân.
Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua
(đặc biệt trong những năm đổi mới) đã đưa lại nhiều kết quả tích
cực. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 khoá VIII và các văn kiện
Đại hội Đảng khoá IX, X, XI đã khẳng định công cuộc xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có những
tiến bộ quan trọng:
- Đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc
cơ bản về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân. Hiến pháp 1992 và nhiều bộ luật, luật, pháp
lệnh đã được ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để Nhà nước
quản lý bằng pháp luật trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, an ninh,
quốc phòng... Đã có nhiều quyết định cải cách có ý nghĩa quan
trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà nước và pháp luật, làm cơ sở

cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ chức hoạt động của bộ
máy nhà nước.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy trên
24


nhiều lĩnh vực. Dân chủ về kinh tế ngày càng được mở rộng đã
tác động tích cực đến việc giải phóng sức sản xuất, là động lực
thúc đẩy kinh tế phát triển, nâng cao đời sống nhân dân. Dân
chủ về chính trị có bước tiến quan trọng, thể hiện ở việc bầu các
cơ quan dân cử, ở chất lượng sinh hoạt của Quốc hội, hội đồng
nhân dân các cấp, tại các cuộc thảo luận của nhân dân tham gia
ý kiến xây dựng các dự án luật, trong hoạt động của báo chí...
- Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước,
trước hết là của cơ quan hành chính nhà nước, đã có một bước
điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang quản lý nền kinh tế
nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước đã có bước đổi mới, vừa bảo đảm tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, vừa phát huy trách nhiệm, tính chủ động của các
cơ quan nhà nước.
3.1.2. Những hạn chế, yếu kém
- Bộ máy nhà nước ta chưa thật trong sạch, vững mạnh;
tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng,
chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý, điều hành chưa cao; kỷ
cương xã hội còn bị buông lỏng, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, Nhà nước ta.
- Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ

mới; chưa phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự
25


×