Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.38 KB, 40 trang )

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN VIỆT NAM
I - GIỚI THIỆU CHUNG VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
VIỆT NAM
1. Lịch sử hình thành và phát triển của Ngân Hàng Nông Nghiệp và
Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
Ngân Hàng Phát Triển Nông Thôn Việt Nam đựoc thành lập ngày 26
tháng 3 năm 1988 là tổ chức tiền thân của Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát
Triển Nông Thôn Việt Nam ( viết tắt là NHNO&PTNTVN ). NHNO&PTNTVN có số
vốn điều lệ là 2200 tỷ đồng, tổng tài sản có năm 2001 là 37598 tỷ. Ngày
22/11/1999 Thống đốc ngân hàng nhà nước đã phê duyệt điều lệ tổ chức và
hoạt động của NHNO&PTNTVN. Theo điều lệ NHNO&PTNTVN là một doanh
nghiệp nhà nước đặc biệt được tổ chức theo mô hình tổng công ty nhà nước,
có tư cách pháp nhân, thời hạn hoạt động là 99 năm, có trụ sở chính tại Hà
Nội, tự chủ về tài chính và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh, bảo toàn
và phát triển vốn.
NHNO&PTNTVN với tư cách là một ngân hàng thương mại quốc doanh do
Hội đồng quản trị và Tổng giám đốc điều hành thực hiện chức năng kinh
doanh đa năng chủ yếu là kinh doanh tiền tệ, tín dụng và các dịch vụ ngân
hàng đối với khách hàng trong nước và nước ngoài. Đầu tư vào dự án phát
triển kinh tế xã hội, uỷ thác tín dụng đầu tư cho chính phủ, các chủ đầu tư
trong nước và nước ngoài trong các ngành kinh tế mà trước hết là trong lĩnh
vực nông nghiệp nông thôn.

Từ một ngân hàng được bao cấp với số vốn nhỏ bé, cán bộ nhân viên
đông, trình độ thấp... Khi chuyển sang kinh doanh theo cơ chế thị trường NH
Nông nghiệp đã có nhiều cố gắng trong việc tổ chức lại để tăng cường huy
động vốn phục vụ kinh tế nông nghiệp, nông thôn, mở rộng các loại hình dịch
vụ đa dạng nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, bước đầu đã
đạt được những kết quả đáng kể như: nhanh chóng khắc phục cơ bản thói
quen cũ của ngân hàng trong cơ chế bao cấp chuyển từ một ngân hàng lỗ sang


một ngân hàng có lãi, cải
thiện đáng kể đời sống cán bộ công nhân viên, góp phần thực hiện tốt nghĩa vụ
với nhà nước.

Trong những năm gần đây ngân hàng đã không ngừng tăng cường quan
hệ đa phương và các hoạt động kinh doanh đối ngoại, uy tín quốc tế của ngân
hàng nhanh chóng được khẳng định, đó chính là cánh cửa mở ra con đường
hội nhập vào cộng đồng ngân hàng khu vực và quốc tế.
Sở giao dịch (SGD) mới được thành lập tháng 5 năm 2001 trên cơ sở Sở
Kinh Doanh Hối Đoái trước đây, hoạt động tín dụng trên địa bàn thành phố Hà
Nội. Năm 2001 vừa qua với sự cố gắng của Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân
viên và được sự quan tâm của Hội Đồng Quản Trị, Ban điều hành, các Ban
nghiệp vụ tại trung tâm điều hành Sở đã đảm nhiệm được chức năng sở đầu
mối của toàn ngành.
2. Đánh giá chất lượng hoạt động tín dụng trong năm 2001 :

- Tổng doanh số cho vay 47432 tỷ tăng 18,3 % so với năm 2000
- Tổng doanh số thu nợ 42624 tỷ tăng 20% so với năm 2000
- Dư nợ đạt 32210 tỷ tăng 18% so với năm 2000 (vượt kế hoạch 3%)
Trong đó :
+ Cho vay nội tệ 27638 tỷ đồng tăng 27,8% so với năm 2000
+ Cho vay ngoại tệ 2482 tỷ đồng tăng 71% so với năm 2000
+ Cho vay uỷ thác đầu tư 2090 tỷ đồng tăng 5,9% so với năm 2000
- Cho vay trung, dài hạn 12549 tỷ đồng tăng 26,9% và chiếm tỷ trọng 39%
tổng dư nợ.

Năm 2001 NHNO&PTNTVN đã tập trung chỉ đạo nâng cao chất lượng tín
dụng, sử lý nợ tồn đọng cũ và nâng cao chất lượng thẩm định xét duyệt cho vay
mới. Bằng những biện pháp cụ thể, thích hợp để giảm nợ quá hạn:
Năm 2001 nợ quá hạn còn 948 tỷ đồng chiếm tỷ lệ 2,95% tổng dư nợ,

giảm 1,17% so với 31/12/2000
Bên cạnh đó với địa bàn tập chung chủ yếu là nông nghiệp, nông thôn
NHNO&PTNTVN đã mở rộng cho vay hộ nông dân đạt 19603 tỷ đồng tăng
16,7% so với năm 2000 chiếm 61% tổng dư nợ .
Với kết quả đạt được năm2001 NHNO&PTNTVN cần cố gắng phát huy
hơn nữa, góp phần thực hiện chủ chương xoá đói giảm nghèo ở nông thôn và
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội do Đảng và Nhà nước ta đề ra.
II - GIỚI THIỆU CHUNG VỀ SỞ GIAO DỊCH
1. Khái quát chung về Sở Giao Dịch

SGD là đơn vị hạch toán phụ thuộc đại diện theo uỷ quyền của
NHNO&PTNT VN, có quyền tự chủ kinh doanh theo phân cấp của
NHNO&PTNTVN, có con dấu riêng, có bảng cân đối tài sản theo qui định của
NHNO&PTNTVN, chịu sự giàng buộc về nghĩa vụ và quyền lợi với Ngân hàng
Nhà nước, chịu trách nhiệm cuối cùng về các nghĩa vụ do cam kết của SGD
trong phạm vi uỷ quyền.
SGD được đặt tại số 2 Láng hạ - Đống Đa - Hà Nội, tài khoản tiền gửi
thanh toán mở tại Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.Với tư cách là một Sở đầu
mối của toàn ngành SGD đi vào hoạt động với nhiệm vụ được giao là:
* Nhiệm vụ theo lệnh của Tổng giám đốc NHNO&PTNTVN
- Quản lý quĩ vốn nội, ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi của NHNO&PTNTVN
- Đầu mối quản lý điều hoà thanh toán ngoại tệ trong toàn hệ thống
NHNO&PTNTVN
- Trực tiếp kinh doanh trên thị trường nội, ngoại tệ liên ngân hàng.

* Nhiệm vụ theo phân cấp uỷ quyền NHNO&PTNTVN
- Điều hoà vốn nội tệ trong khu vực các tỉnh phía bắc.
- Huy động vốn:
+ Khai thác nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi
thanh toán.

+ Phát hành những chứng chỉ nhận tiền gửi, trái phiếu, kỳ phiếu ngân
hàng.
+ Tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, vốn uỷ thác đầu tư của chính phủ và
các tổ chức kinh tế .

- Cho vay:
+ Cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng VND, ngoại tệ
+ Cho vay xuất nhập khẩu, chiết khấu, tái chiết khấu bộ chứng từ, cho
vay theo các chương trình dự án kinh tế.
- Thực hiện các dịch vụ ngân hàng : thanh toán quốc tế, bảo lãnh mua bán
ngoại tệ...
- Đầu tư dưới các hình thức : hùn vốn, liên doanh, mua cổ phần và các
hình thức đầu tư khác.
- Tổ chức kiểm tra, kiểm soát, báo cáo thống kê theo qui định.
- Các nhiệm vụ khác được Tổng giám đốc giao.
* Tổ chức bộ máy Sở Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông
Thôn Việt Nam
Giám đốc:
Phạm Văn Quyến
Phó giám đốc:
H à Đan Huấn
Phó giám đốc :
Lê Thanh Hằng
Phó giám đốc :
Vũ Thanh Phương
Phòng
tín dụng dự án
Phòng KD
ngoại tệ
Phòng thanh toán Q.tế

Phòng SWIFT
Phòng k.toán ngân quỹ
Phòng h nh chính N.Sà ự


Trong những năm qua với sự chỉ đạo sáng suốt của Ban giám đốc và sự
phối hợp nhịp nhàng có hiệu qủa giữa các phòng ban, SGD đã khẳng định được
vị trí, vai trò của mình trong nền kinh tế, đứng vững và phát triển trong cơ chế
mới, chủ động mở rộng mạng lưới giao dịch, đa dạng hoá các mặt kinh doanh
dịch vụ tiền tệ ngân hàng, thường xuyên tăng cường vật chất kỹ thuật, từng
bước đổi mới công nghệ, hiện đại hoá ngân hàng. Đặc biệt là vào đầu năm
2002 SGD đã đưa vào sử dụng loại hình dịch vụ rút tiền tự động bằng máy
ATM. Đây là một trong những thuận lợi để thu hút khách hàng.
Hiện nay Sở đã có quan hệ với 36 đơn vị trong đó có: 26 doanh nghiệp
nhà nước, 7 công ty trách nhiệm hữu hạn và 3 doanh nghiệp tư nhân, Sở chưa
thực hiện cho vay đối với hộ gia đình, cá nhân. Mặc dù số lượng khách hàng
chưa nhiều song bằng kết quả kinh doanh của Sở trong những năm qua chúng
ta đã thấy được tình hình kinh doanh có lãi tại Sở, năm sau cao hơn năm
trước, đóng góp cho nhà nước ngày càng lớn, đời sống cán bộ công nhân viên
chức ngày càng được cải thiện.
Mặt khác chúng ta biết rằng năm 2001 tình hình kinh tế xã hội của nước
ta còn chịu nhiều ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế tài chính, liên tiếp xẩy ra
các đợt bão lũ miền trung khiến tình hình kinh tế đất nước ngày càng thêm
khó khăn. Trong lĩnh vực ngân hàng, tài chính do sản xuất kinh doanh bị đình
trệ, vốn tín dụng dư thừa, không mở rộng được điều đó ảnh hưởng không nhỏ
tới kế hoạch kinh doanh và thu nhập của SGD nói riêng và các ngân hàng
thương mại nói chung, đặc biệt là năm 2001 còn là năm chuyển trụ sở của Sở
Giao Dịch, tổ chức lao động của Sở đang trong thời kỳ củng cố bổ sung, lao
động của Sở đang còn thiếu. Tình hình này tác động trực tiếp tới việc quảng
cáo, thông tin tiếp thị và mở rộng hoạt động kinh doanh trong thời gian trước

mắt. Vì vậy Ban giám đốc cần phải coi trọng công tác tổ chức, nâng cao chất
lượng cán bộ. Thực hiện chấn chỉnh công tác tổ chức kết hợp với việc bồi
dưỡng nghiệp vụ một cách nghiêm túc nhằm khắc phục những khó khăn trên,
nâng cao hiệu quả kinh doanh của SGD
2. Thực trạng kinh doanh năm 2001 tại Sở Giao Dịch - Ngân Hàng
Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn.
Trong công tác đổi mới nền kinh tế Việt Nam thời gian qua đã thu được
kết quả bước đầu rất khả quan, tạo được niềm tin trong dân chúng cũng như
các nhà đầu tư. Năm 2001 là năm kinh tế nước ta bước sang giai đoạn phát
triển chiều sâu theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá, nhanh chóng hoà
nhập vào nền kinh tế các nước ASEAN và quốc tế. Là một lĩnh vực đóng vai trò
xương sống của nền kinh tế, hệ thống ngân hàng nói chung và SGD nói riêng
cần phải có những bước tiên phong trong qúa trình đổi mới vừa phải khắc
phục những tồn tại cũ vừa phải vươn lên để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế
trong tình hình mới đó là :
- Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã có ảnh hưởng xấu
đến nền kinh tế nước ta, tỷ lệ tăng trưởng giảm sút, thu nhập của người dân
giảm, dẫn đến sức tiêu thụ hàng hoá trên thị trường giảm sút làm cho các nhà
sản xuất và cung cấp dịch vụ gặp nhiều khó khăn trong việc tiệu thụ sản phẩm
của mình điều đó gây bất lợi cho hoạt động của ngân hàng.
- Tình hình lũ lụt miền trung xẩy ra liên miên đã để lại hậu quả nặng nề
trong khu vực và tác động xấu đến nền kinh tế đất nước.

- Tình trạng về tài chính của các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp
nhà nước kinh doanh thua lỗ, gặp nhiều khó khăn. Mặc dù nhà nước cũng đã
có những biện pháp tăng cường thêm nguồn vốn cho các doanh nghiệp.
- Bản thân SGD hiện nay vẫn cần phải giải quyết những tồn đọng từ năm
trước. Mặc dù số lượng nợ quá hạn có giảm song tỷ lệ nợ quá hạn vẫn cao, tiến
độ thu nợ và sử lý tài sản thuế chấp còn chậm, các cơ chế xử lý đòi hỏi phải có
sự phối kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan có liên quan chưa được bổ xung và

ban hành kịp thời.
- Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có nhiều ngân hàng thương mại quốc
doanh và ngoài quốc doanh cùng họat động, các ngân hàng kinh doanh đa
năng nội tệ, ngoại tệ và tham gia thanh toán quốc tế. Thực trạng một khách
hàng vay nhiều ngân hàng đang phổ biến và là yêu cầu tất yếu của sự phát
triển. Tuy nhiên các ngân hàng không có sự phối hợp chặt chẽ với nhau dẫn
đến còn thiếu giải pháp để kiểm soát an toàn vốn vay. Việc cạnh tranh giữa các
ngân hàng đôi khi gay gắt, thiếu lành mạnh, rất dễ xảy ra rủi ro.
Trước tình hình đó để vượt qua được khó khăn trên SGD đã bám sát định
hướng nêu ra nhằm đạt được mục tiêu của mình. Vừa tổ chức thực hiện nhiệm
vụ kinh doanh theo kế hoạch đã định, vừa đảm bảo thực hiện tốt nội dung công
tác “chấn chỉnh hoạt động ngân hàng” với phương châm: ổn định, an toàn,
hiệu qủa và phát triển, phát huy sức mạnh nội lực thực hiện nghiêm túc sự chỉ
đạo của cấp trên, tranh thủ sự ủng hộ giúp đỡ của NHNO&PTNTVN, Ngân hàng
Nhà nước và các ngành có liên quan. Trong năm 2001 SGD đã đạt được kết quả
trên các mặt hoạt động như :
2.1 Công tác tín dụng :
2.1.1 Nguồn vốn huy động :
Là một tổ chức chuyên “đi vay để cho vay” do vậy công tác tạo vốn ở ngân
hàng là tiền đề để mở rộng thị trường tín dụng và là điều kiện sống còn trong
kinh doanh dịch vụ ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của việc huy động
vốn SGD luôn đề cao công tác này. Năm 2001 đã thực hiện nghiêm túc chủ
chương và chỉ tiêu kế hoạch Tổng giám đốc giao về nguồn vốn huy động. Với
nhiều hình thức, nhiều thể loại huy động và tuỳ từng địa điểm mà SGD đã áp
dụng các biện pháp năng động mềm dẻo để thu hút nguồn vốn cả ngoại tệ và
nội tệ đáp ứng nhu cầu tín dụng của Sở đảm bảo nguồn vốn điều chuyển về
NHNO&PTNTVN theo kế hoạch góp phần điều hoà vốn của chung cho toàn hệ
thống.
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2001
- Nguồn vốn huy động đạt 541 tỷ tăng gần 10% so với năm 2000

Cơ cấu nguồn vốn như sau :
Nguồn vốn không kỳ hạn chiếm tỷ lệ 25,98% tổng nguồn vốn
Nguồn vốn kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ lệ 30,32% tổng nguồn vốn
Nguồn vốn kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ lệ 43,7% tổng nguồn vốn
Nguồn vốn kỳ hạn trên 12 tháng chiếm tỷ trọng lớn trong đó chủ yếu là
tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ 12 tháng (chiếm tỷ lệ 99%) tiền gửi tiết kiệm nội tệ
12 tháng chỉ đạt 2,5 tỷ đồng (1%).
2.1.2 Tình hình đầu tư vốn tín dụng năm 2001 :
Tổng doanh số cho vay 223 tỷ đồng tăng 59 tỷ đạt 135% so với năm 2000
trong đó:
+ Cho vay ngoại tệ đạt 4000 ngàn USD giảm 4518 ngàn USD và đạt
46,33% so với năm 2000.
+ Cho vay nội tệ là 169 tỷ đồng tăng 120 tỷ, đạt 344,9% so với 2000
+ Doanh số thu nợ trong năm đạt 230 tỷ đồng tăng 107 tỷ, đạt 186,9% so
với năm 2000.

Tổng dư nợ đến 31/12/2001 đạt 183 tỷ đồng bằng 88% so với năm 2000
(giảm 12% tương đương với 25 tỷ đồng). Thời điểm 31/12/2001 điều chỉnh
sang tài khoản nợ khoanh số tiền 18 tỷ đồng của 3 đơn vị là công ty Việt Hà -
Hà Tĩnh, công ty Xuất Nhập Khẩu, công ty FORINCONS trong đó.
+ Dư nợ cho vay ngoại tệ : 8667 ngàn USD giảm 3185 ngàn USD bằng
72% so với năm 2000
+ Dư nợ cho vay nội tệ : 66 tỷ đồng, tăng 18 tỷ đồng và bằng 137% so với
2000 chiếm tỷ lệ 36% tổng dư nợ.
* Cơ cấu đầu tư như sau :
Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế:
- Ngành nông lâm nghiệp đạt : 74 tỷ đồng bằng 40,43% so với tổng dư nợ
- Ngành công nghiệp đạt 24 tỷ đồng bằng 13,11% so với tổng dư nợ
- Ngành dịch vụ thương mại đạt 52 tỷ đồng bằng 28,41% so với tổng dư nợ
- Ngành xây dựng đạt 22 tỷ đồng bằng 12,02% so với tổng dư nợ

- Ngành giao thông vận tải đạt 10 tỷ đồng bằng 5,46% so với tổng dư nợ
- Ngành khác (cho vay cầm cố) 1 tỷ đồng bằng 0,5% so với tổng dư nợ
Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế (năm 2001)
- Doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước: 212 tỷ đồng chiếm
95,067% tổng doanh số cho vay.
- Doanh số cho vay ngoài quốc doanh: 11 tỷ đồng chiếm 4,933% tổng doanh
số cho vay.
Hiện nay SGD có quan hệ với 36 khách hàng trong đó có 26 doanh nghiệp nhà
nước, 7 công ty trách nhiệm hữu hạn và 3 doanh nghiệp tư nhân. Có thể nói
khách hàng của SGD có số lượng không nhiều mặt khác theo như đánh giá của
cán bộ tín dụng thì năng lực sản xuất kinh doanh và tình hình tài chính của các
doanh nghiệp là không đồng đều do vậy đòi hỏi các cán bộ tín dụng cần linh
hoạt trong khi xét duyệt cho vay đối với từng doanh nghiệp, gắn hiệu quả cho
vay với an toàn vốn. Trong năm 2001 SGD đã thực hiện đáp ứng được vốn để
duy trì và phát triển sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp nhà nước
như :công ty vật tư tổng hợp Hà Anh, công ty Sản Xuất Kinh Doanh Hàng Xuất
Nhập Khẩu... Giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động. Song hiện
nay tại Sở còn có một số doanh nghiệp đang hoạt động sản xuất kinh doanh ở
mức cầm chừng, tài chính khó khăn và một số doanh nghiệp khác đang gặp
những khó khăn tạm thời. SGD đã đưa ra những giải pháp tích cực nhằm giúp
cho doanh nghiệp có điều kiện khắc phục vươn lên đồng thời tránh rủi ro, tạo
ra thế ổn định đầu tư tín dụng an toàn có hiệu quả và tạo tiền đề để phát triển
nhịp độ tăng trưởng tín dụng lành mạnh, chất lượng tín dụng đưọc nâng lên,
đảm bảo cơ chế tín dụng hiện hành, giảm tỷ lệ nợ quá hạn.

Tóm lại công tác tín dụng năm 2001 của Sở đã có nhiều cố gắng và thực
sự đi vào chất lượng: Đối với những món vay mới thực hiện nghiêm túc thể lệ
chế độ quy trình nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo tất cả các món vay đều được
kiểm tra trước, trong và sau khi phát tiền vay, thực hiện quy chế thế chấp tài
sản, không tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng, chiếm đoạt tài sản hoặc sử dụng

vốn sai mục đích. Tiến hành phân loại khách hàng, chọn lựa các doanh nghiệp
làm ăn có hiệu quả, sản xuất kinh doanh đúng hướng, có tín nhiệm để tạo ra
một đội ngũ khách hàng tin cậy và mang tính chiến lược lâu dài. Đối với những
khoản vay quá hạn: Đối với một số doanh nghiệp hoạt động làm ăn không hiệu
quả, tài chính khó khăn, có công ty đã tuyên bố phá sản.... Năm 2001 Sở đã
ngừng cho vay và đôn đốc thu nợ đồng thời SGD đã phối hợp với chính quyền
địa phương nơi con nợ cư trú, với cơ quan bảo vệ pháp luật để xử lý đối với
khách hàng không có khả năng thanh toán, nợ dai do làm ăn thua lỗ, phá sản
hoặc khách nợ có hành vi lừa đảo, chiếm đoạt vốn của ngân hàng. Vì vậy năm
2001 dư nợ quá hạn giảm so với năm 2000 bằng 8,3 tỷ.
Cơ cấu tín dụng theo thời gian đầu tư :
+ Doanh số cho vay ngắn hạn : 208742 triệu đồng chiếm tỷ lệ 93,6% tổng
doanh số cho vay.
+ Doanh số cho vay trung dài hạn : 14258 triệu đồng chiếm tỷ lệ 6,4% tổng
doanh số cho vay.
Qua số liệu trên ta thấy SGD chủ yếu là cho vay để đầu tư vốn lưu động
cho các doanh nghiệp chiếm 93,6% tổng doanh số cho vay.
Tỷ lệ đầu tư trung và dài hạn còn chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng doanh
số cho vay trong năm - phải chăng nguyên nhân ở đây là do hầu hết các khách
hàng của Sở đều có quy mô nhỏ, không đồng đều và không ổn định. Vì vậy
trong năm 2001 mặc dù SGD đã thực sự cố gắng đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh cho các doanh nghiệp, các công ty song sang năm 2002 Sở cần phải
tích cực hơn nữa trong công tác tìm kiếm những khách hàng có dự án đầu tư
hiệu quả, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của SGD.
2.2 Các hoạt động khác :
2.2.1 Hoạt động mua bán ngoại tệ :
Được giao nhiệm vụ làm đầu mối duy nhất trong thanh toán và kinh
doanh ngoại tệ. Từ cuối tháng 3 năm 2001 SGD đã cố gắng và bước đầu thực
hiện vai trò của Sở đầu mối vừa đảm bảo đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho các chi
nhánh làm dịch vụ cho khách hàng vừa kinh doanh ngoại tệ có hiệu quả.

Doanh số mua bán ngoại tệ quy đổi ra USD đạt 1430 triệu bằng 251% so
với năm 2000. Trong đó mua các chi nhánh đạt 116 triệu USD bằng 42,42%
tổng doanh số mua, bán cho các chi nhánh 131 triệu USD bằng 43,12% tổng
doanh số bán.

Thu nhập từ mua bán ngoại tệ năm 2001 đạt 4,5 tỷ đồng tăng 1,4 tỷ đồng
so với năm 2000.
Từ cuối tháng 6 năm 2001 đã tiếp nhận REUTERS phục vụ cho hoạt động
kinh doanh ngoại tệ. Đến nay các giao dịch mua bán ngoại tệ, giao dịch tiền
gửi, trao đổi thông tin của NHNO&PTNTVN trên thị trường liên ngân hàng
trong nước và quốc tế đều thực hiện qua hệ thống này.
Việc đưa vào sử dụng hệ thống REUTERS vừa nâng cao tính chuyên
nghiệp của phòng Dealing room vừa góp phần đảm bảo nhu cầu về các ngoại
tệ cho khách hàng vừa thực hiện kinh doanh đầu cơ ngoại tệ và chênh lệch tỷ
giá.
2.2.2 Hoạt động quản lý và kinh doanh vốn trên tài khoản :
Từ tháng 4 năm 2001 SGD được giao nhiệm vụ quản lý toàn bộ tài khoản
NOSTRO của NHNO&PTNTVN, SGD đã sử dụng có hiệu quả vốn nhàn rỗi trên tài
khoản NOSTRO, đảm bảo nhu cầu thanh toán, an toàn vốn và thu lợi nhuận cao
thông qua việc điều chuyển vốn giữa các ngân hàng có mức chênh lệch lãi suất
khác nhau.

Năm 2001 đã thực hiện 200 giao dịch gửi kỳ hạn USD (tổng doanh số 1,7
tỷ USD) với số dư bình quân khoảng 50 triệu USD thu từ chênh lệch lãi so với
lãi suất tiền gửi không kỳ hạn gửi tại các ngân hàng nước ngoài là 187 ngàn
USD.
Từ tháng 8/2001 được Tổng giám đốc giao tận dụng nguồn vốn ngoại tệ
tạm thời nhàn rỗi của toàn ngành gửi tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
SGD đã thực hiện 167 giao dịch tiền gửi doanh số 3460 tỷ đồng với số dư
thường xuyên khoảng 200 đến 250 tỷ đồng chênh lệch thu lãi so với gửi tại

Ngân Hàng Nhà Nước là 3,3 tỷ đồng.
Thu lãi do kinh doanh vốn trên tài khoản nội tệ và ngoại tệ đã bù đắp
được một phần chi phí huy động vốn riêng, ngoại tệ gửi có kỳ hạn ở ngân hàng
nước ngoài những tháng cuối năm lãi suất lớn hơn lãi suất huy động vốn của
các chi nhánh NHNO&PTNTVN.
2.2.3 Hoạt động thanh toán quốc tế :
Doanh số thanh toán quốc tế phục vụ khách hàng tại SGD đạt 243 triệu
USD tăng 53,45% so với năm 2000. Trong đó thanh toán hàng nhập đạt 163,5
triệu USD chiếm tỷ lệ 67,28%, thanh toán hàng xuất đạt 76 triệu USD chiếm
31,28%, thanh toán kiều hối đạt 3,5 triệu USD chiếm tỷ lệ 1,44% tổng doanh số
thanh toán. Thực hiện các dịch vụ thanh toán đa dạng như thanh toán L/C,
nhờ thu, bảo lãnh...
Cùng với việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, SGD còn thực hiện đào tạo
thanh toán quốc tế cho các chi nhánh trong hệ thống. Năm 2001 SGD đã đào
tạo được 59 cán bộ ở 17 chi nhánh trong toàn quốc.
2.2.4 Hoạt động đại lý SWIFT :
Đến ngày 31/12/2001 SGD đã có quan hệ đại lý với 600 ngân hàng ở 72
nước trên thế giới. Chỉ tính riêng năm 2001 đã thiết lập thêm được 19 ngân
hàng đại lý. Hiện có 45 chi nhánh thực hiện thanh toán quốc tế qua SGD trong
đó có 35 chi nhánh đã nối mạng thanh toán trực tiếp qua SWIFT. Năm 2001 đã
cài đặt thêm mạng SWIFT cho 10 chi nhánh.
Từ tháng 4/2001 SGD được giao là đầu mối duy nhất trong thanh toán
quốc tế nên thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT tăng nhanh. Đến ngày
31/12/2001 đã chuyển tiếp 31382 điện giao dịch cho toàn hệ thống trong đó
có 16802 điện chuyển tiếp ra ngoài hệ thống, 14580 điện chuyển từ các ngân
hàng đại lý tới các chi nhánh.
Năm 2001 doanh số thanh toán qua mạng SWIFT của toàn hệ thống đạt
13529 món trị giá 2494 triệu USD tăng 119% so với năm 2000. Trong đó phát
hành 2626 L/C trị giá 390 triệu USD tăng 20% so với năm 2000, thông báo 170
L/C trị giá 25 triệu USD bằng 14% so với năm 2000, chuyển tiền đi 8254 món

trị giá 1836 triệu USD tăng 142% so với năm 2000, chuyển đến 2479 món trị
giá 243 triệu USD tăng 601% so với năm 2000.
2.2.5 Công tác kế toán ngân quỹ :
Với tư cách là một Sở đầu mối của toàn ngành trong đó có công việc tại
phòng kế toán của SGD luôn bận rộn song với sự cố gắng của các nhân viên
trong phòng năm 2001 đã tổ chức hạch toán đầy đủ, kịp thời, chính xác, đúng
chế độ kế toán các nghiệp vụ phát sinh, tổ chức tốt mạng lưới nhận tiền và
chuyển tiền qua mạng máy vi tính, góp phần tăng cường quay vòng vốn, tăng
số lượng khách hàng đến giao dịch với SGD đồng thời tổ chức tốt công tác huy
động vốn thông qua nghiệp vụ tuyên truyền, hướng dẫn khách hàng mở tài
khoản tiền gửi thanh toán.
Từ tháng 3/2001 đã nhận tài khoản tiền gửi ngoại tệ của các chi nhánh,
tài khoản NOSTRO từ Sở II bàn giao. Đến tháng 5/2001 lại tiếp tục nhận bàn
giao các tài khoản theo dõi vốn vay, quỹ và vốn tập trung của toàn ngành từ
SGD I. Vấn đề trên đã làm cho khối lượng nghiệp vụ tăng lên đột biến, lượng
chứng từ bình quân một ngày là 600 chứng từ song do bố trí cán bộ phù hợp tổ
chức điều hành phù hợp nên đã hoàn thành nhiệm vụ đảm bảo yêu cầu an toàn
chính xác,
hoàn thành công việc chuyển đổi từ tài khoản cũ sang hệ thống tài khoản mới
đảm bảo phục vụ cho các chi nhánh và khách hàng kịp thời.
Thực hiện nghiêm túc các biện pháp khắc phục sự cố Y2K nên không xảy
ra sai sót. Mặt khác sang năm 2001 công tác kế toán đã có nhiều cải tiến đảm
bảo hạch toán kịp thời, thanh toán nhanh đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng
của khách hàng và chi nhánh. Vì vậy qua các đợt kiểm tra, đối chiếu công khai
số dư tiền gửi, tiền vay với khách... Thanh tra của cấp trên chưa phát hiện ra
trường hợp nào tham ô và lợi dụng. Đồng thời do thực hiện nghiêm ngặt chế
độ kiểm tra, kiểm soát chứng từ kiểm tra thực hiện quy trình hạch toán, chế độ
sao kê đối chiếu, chế độ chuyển nợ quá hạn ... Sở đã không những chấp hành
nghiêm chế độ mà còn giữ được tín nhiệm đối với khách hàng giao dịch.
- Năm 2001 Sở đạt được kết quả kinh doanh như sau :

Tổng thu : 124888 triệu đồng tăng 30,4% so với năm 2000 trong đó:

+ Thu lãi tiền vay: 42715 triệu đồng chiếm tỷ lệ 34,2%
+ Thu lãi tiền gửi :59887 triệu đồng chiếm tỷ lệ 47,95%
+ Thu dịch vụ thanh toán : 4186 triệu đồng chiếm tỷ lệ 3,35%
+ Thu kinh doanh ngoại tệ : 4502 triệu đồng chiếm tỷ lệ 3,61%
+ Thu khác : 13598 triệu đồng chiếm tỷ lệ 10,89%
Tổng chi phí : 101646 triệu đồng tăng 17% so với năm 2000 trong đó:
+ Chi về huy động vốn : 67788 triệu đồng chiếm tỷ lệ 66,69%
+ Chi nộp thuế : 244 triệu đồng chiếm tỷ lệ 0,24%
+ Chi cho nhân viên : 905 triệu đồng chiếm tỷ lệ 089%
+ Chi phí quản lý : 1747 triệu đồng chiếm tỷ lệ 1,72%
+ Chi về tài sản : 671 triệu đồng
+ Trích dự phòng rủi ro : 30291 triệu đồng chiếm tỷ lệ 29,8%

Chênh lệch thu chi 124888 - 101646 = 23242 triệu đồng tăng 62% so với
năm 2000.

Nguồn thu ở đây chủ yếu là thu từ lãi tiền gửi đạt 59,887 tỷ đồng chiếm
tỷ lệ 48% tổng thu. Nguồn thu lãi cho vay chiếm tỷ lệ 34,2 % so với tổng thu đạt
thấp hơn so với năm trước là do nhiều khách hàng vay vốn gặp khó khăn về tài
chính dẫn đến nợ quá hạn cao không thu được lãi.
Bên cạnh đó ta thấy năm 2001 có một số khoản thu ổn định và tăng
trưởng so với năm 2000 như: Thu dịch vụ thanh toán gần bằng 4,2 tỷ đồng, thu
kinh doanh ngoại tệ chiếm 4,5 tỷ đồng, hai khoản thu này chiếm tỷ trọng 7%
tổng thu và có ý nghĩa quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh
doanh của Sở.
Trong tổng chi phí chủ yếu là chi trả lãi tiền gửi chiếm tỷ trọng 67% tổng
chi, chi trích quỹ dự phòng rủi ro 30,3 tỷ chiếm tỷ trọng 30%. Hai khoản chi
này tương đối lớn chiếm tỷ trọng 97%. Còn các khoản mục chi phí khác như chi

phí quản lý 1,7 tỷ, chi cho nhân viên 0,9 tỷ chiếm tỷ trọng 0,9%...Và tất cả chỉ
chiếm tỷ lệ là 3%tổng chi phí.

Năm 2001 là năm đã áp dụng nhiều biện pháp giảm chi phí và đã dẫn đến
tốc độ tăng chi phí là 17% thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng thu nhập (30,4%).
Vì vậy đã đảm bảo chênh lệch thu chi tăng trưởng 62% so với năm 2000 góp
phần đảm bảo thu nhập cho cán bộ công nhân viên, khuyến khích công nhân
viên hăng say làm việc với tinh thần đoàn kết cống hiến nhiều lợi ích của toàn
hệ thống.
Về công tác ngân quỹ :
Tổng thu tiền mặt :
+ Ngoại tệ : 102237 ngàn USD tăng 69,8% so với năm 2000
+ Nội tệ : 503264 triệu đồng tăng 336% so với năm 2000
Tổng chi tiền mặt :
+ Ngoại tệ 103042 ngàn USD tăng 71,5% so với năm 2000
+ Nội tệ : 492151 triệu đồng tăng 351,5% so với năm 2000
Năm 2001 khối lượng tiền thu chi và điều chuyển tăng nhưng vẫn đảm
bảo an toàn tài sản, đã trả tiền thừa cho khách hàng 29 lần với tổng số tiền là
1556 USD và 33186 ngàn đồng. Trong năm Sở đã cử một cán bộ dự thi thủ quỹ
kiểm ngân giỏi và được giải khuyến khích khu vực phía Bắc.

×