Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Tiểu luận cao học, tác PHẨM KINH điển , hồ chí minh về công tác cán bộ trong sửa đổi lối làm việc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.59 KB, 32 trang )

A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ thiên tài, người anh hùng giải phóng
dân tộc, nhà tư tưởng, danh nhân văn hoá lớn của thế giới. Tư tưởng của
Người luôn là tấm gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là đội ngũ
cán bộ phấn đấu học tập và noi theo. Với sự hiểu biết sâu rộng, là kiến trúc sư
và linh hồn của khối đoàn kết dân tộc, Người cũng đã để lại cho nhân dân ta
nhiều bài học quý giá về việc xây dựng đội ngũ cán bộ. Giá trị cao quý của
nó không những là các chỉ dẫn lý luận mang tính sáng tạo, thiết thực mà còn
có ý nghĩa thực tiễn chỉ đạo và định hướng trực tiếp cho công tác cán bộ của
hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn hiện nay và mai sau.Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã từng dạy chúng ta rằng "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết cần phải có những con người xã hội chủ nghĩa". Đó là một con người
phát triển toàn diện, có tư tưởng và tình cảm đẹp, có tri thức và năng lực làm
chủ xã hội, làm chủ bản thân có cuộc sống tập thể và cuộc sống cá nhân hài
hòa, có sự phát triển đầy đủ về các mặt: tri thức, đạo đức, thể chất và thẩm
mỹ. "Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với
vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then chốt trong
công tác xây dựng Đảng" ,nên hơn ai hết, họ phải có đủ năng lực, phẩm chất
của một con người xã hội chủ nghĩa để lãnh đạo đất nước và phục vụ nhân
dân. Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã, đang diễn ra
sâu sắc và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực
hiện thắng lợi mục tiêu, nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH đất
nước, tiến đến mục tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh". Từ đó đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp
có đức, có tài, vừa hồng vừa chuyên, ngang tầm, đáp ứng yêu cầu của nhiệm
vụ cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh – danh nhân văn hóa thế giới, vị lãnh tụ vĩ đại
của dân tộc Việt Nam. Người là tấm gương sáng về tinh thần cách mạng, chủ
2



nghĩa dân tộc thời đại, ý chí kiên cường, bất khuất; cả cuộc đời Người dành
toàn tâm toàn ý cống hiến cho Đảng, cho nhân dân và cho cách mạng. Người
tận tụy hy sinh suốt đời phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng
dân tộc, giải phóng con người; vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho dân
tộc và vì chủ nghĩa xã hội cộng sản chân chính.
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng
Sản Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng Cộng Sản Việt Nam đầu năm
1930; là cán bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là
lãnh tụ của Đảng Cộng Sản Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn
luyện Đảng, đồng thời là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế.
Theo quan niệm của Hồ Chí Minh, xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn liền
với sự tồn tại của Đảng; còn Đảng, còn hoạt động, còn cần phải tổ chức xây
dựng, chỉnh đốn. Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một
trong những công tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định
thành công tới toàn bộ công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng.
Khi nào, nơi nào làm tốt công tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có
nhiều thuận lợi và giành được thắng lợi, và ngược lại. Trong hoạt động cách
mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ để
có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng. Tư tưởng Hồ Chí
Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.
Để hiểu hơn tấm gương đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh và đặc biệt là
những bài học quí báu trong công tác xây dựng Đảng và tu dưỡng đạo đức tác
phong công tác đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên, chúng ta cùng nhau “Tìm
hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tác phẩm “Sửa đổi lối
làm việc” ”.
3



Bài viết không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô và các
bạn…đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành
cảm ơn .
2. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu tư tưởng của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ của Đảng
trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
trong công tác cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở lý luận của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ
của Đảng trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” . Từ đó, đề tài đi sâu vào phân tích

quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ nói chung và quan điểm của Hồ Chí
Minh về công tác cán bộ trong tác tác phẩm sửa đổi lối làm việc nói riêng

Nhiệm vụ nghiên cứu: Đề tài xin được trình bày sơ lược về quan điểm
của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tác tác phẩm sửa đổi lối làm việc . Từ đó chỉ

ra nghiên cứu tác phẩm có ý nghĩa gì với cách mạng Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Lý luận của vận dụng sáng tạo học thuyết Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác cán bộ của Đảng và ý nghĩa của nó
đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Quan điểm của Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác cán bộ của Đảng và sự vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Những nguyên lý về tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác
cán bộ trong tác phẩm sửa đổi lối làm việc
Phương pháp nghiên cứu

Tiểu luận sử dụng chủ yếu các phương pháp: phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, phương
pháp nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp.
4


6. Kết cấu tiểu luận
Đề tài gồm: Phần mở đầu, phần nội dung ,phần kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo

5


B. NỘI DUNG
Hoàn cảnh ra đời

Tác phẩm “ Sửa đổi lối làm việc”
Tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết
xong vào tháng 10/1947, ký tên với bút danh là X.Y.Z ; Nhà xuất bản Sự thật
xuất bản lần đầu tiên vào năm 1948.Tác phẩm được Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết vào lúc cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược
đang ở giai đoạn gay go, quyết liệt, địch đang mở cuộc tấn công quy mô lên
căn cứ địa Việt Bắc hòng tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và lực lượng
chủ lực của ta. Các cơ quan của Đảng, Chính phủ, đoàn thể chuyển lên chiến
khu, hoạt động trong điều kiện chiến tranh, phân tán. Với bản chất xâm lược
và hiếu chiến, kẻ thù đã gửi 3 tối hậu thư trong 2 ngày, đòi chúng ta phải hạ
6


vũ khí; chúng đã buộc chúng ta phải cầm súng đứng lên bảo vệ nền độc lập.

Ta tiến hành kháng chiến chống Pháp trong điều kiện tự lực cánh sinh, dựa
vào sức mình là chính. Cuộc kháng chiến trường kì càng khó khăn, gian khổ
yêu cầu sức chiến đấu của Đảng ngày càng cao. Chính trong bối cảnh đó,
Người viết tác phẩm này nhằm vạch ra những sai lầm, khuyết điểm, lệch lạc
và chấn chỉnh lại tư tưởng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, phẩm chất đạo
đức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của cách mạng. Về lý luận, tác phẩm là sự phát triển và vận dụng sáng tạo các
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng chính Đảng kiểu mới của
giai cấp công nhân ở một nước vốn là thuộc địa, nửa phong kiến giành độc
lập tự do và đi lên chủ nghĩa xã hội. Về thực tiễn, tác phẩm là sự chỉ dẫn cho
hành động của Đảng ta trong quá trình kháng chiến và kiến quốc đến thành
công. Từ khi ra đời cho đến nay, tác phẩm đã trở nên quan trọng và cần thiết
đối với việc xây dựng Đảng ta thành một Đảng chân chính cách mạng.
Từ khi ra đời đến nay, tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” luôn là văn
kiện quan trọng về xây dựng Đảng. Được viết cách đây hơn 50 năm, nhưng
đến nay nội dung, tư tưởng tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, là một trong
những tài liệu phục vụ cho việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh.
A. CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ
Hồ Chí Minh là một trong những người tham gia thành lập Đảng cộng sản
Pháp năm 1920; là người sáng lập Đảng cộng sản Việt Nam đầu năm 1930; là cán
bộ của Ban Phương Đông Quốc tế Cộng sản. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của Đảng
cộng sản Việt Nam, suốt cả cuộc đời chăm lo lãnh đạo, rèn luyện Đảng, đồng thời
là một chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Trong hoạt động cách mạng, Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng đến việc xây
dựng đội ngũ cán bộ để có đủ sức mạnh hoàn thành sự nghiệp vẻ vang của Đảng.
7



Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa to lớn đối với sự
nghiệp cách mạng Việt Nam.
Về vị trí của cán bộ, Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ là giây chuyền của bộ
máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể nhân dân, “là những người đem chính sách của
Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem
tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính
sách cho đúng”1. Như vậy, cán bộ có vị trí chủ thể của sự nghiệp cách mạng nước ta
do Đảng lãnh đạo. Vị trí lãnh đạo, vị trí chủ thể của cán bộ là do Đảng, Nhà nước,
đoàn thể phân công, và quyền lực của cán bộ cũng như nhiệm vụ của người cán bộ
là do nhân dân giao cho.
Về vai trò của cán bộ, Hồ Chí Minh khẳng định rằng: cán bộ là cái gốc của
mọi công việc; muôn việc thành công hay thất bại đều là do cán bộ tốt hay kém.
Với ý nghĩa như vậy, chúng ta có thể hiểu rằng, cán bộ là lực lượng tinh tuý nhất
của xã hội, có vị trí vừa tiên phong vừa là trung tâm của xã hội và có vai trò cực kỳ
quan trọng của hệ thống chính trị nước ta.
Luận điểm khái quát nhất của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ là:
cán bộ vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ thật trung thành, là trâu ngựa của
nhân dân.

1.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của công tác cán bộ
Trong quá trình xây dựng Đảng, công tác cán bộ là một trong những công
tác chiếm vị trí quan trọng hàng đầu, có vai trò quyết định thành công tới toàn bộ
công tác xây dựng lực lượng cách mạng của Đảng. Khi nào, nơi nào làm tốt công
tác cán bộ thì khi đó, nơi đó cách mạng sẽ có nhiều thuận lợi và giành được thắng
lợi, và ngược lại. Với quan điểm đó, cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn luôn chú
trọng đến công tác cán bộ, từ đánh giá, lựa chọn, huấn luyện, thử thách, rèn luyện,
sử dụng, đãi ngộ. Sau năm 1920, khi đã trở thành người cộng sản, tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn, Hồ Chí Minh đã tích cực chuẩn bị cả về chính trị, tư
tưởng và tổ chức cho sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam. Một trong những
nhiệm vụ quan trọng của Hồ Chí Minh là tìm kiếm những thanh niên Việt Nam yêu

1

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 269.

8


nước, đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện họ trong tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên; gửi những người ưu tú hoặc có nhiều triển vọng tốt vào đạo tại các
trường của Trung Quốc và của Quốc tế Cộng sản. Từ khi thành lập Đảng cộng sản
Việt Nam đầu năm 1930 trở đi, Hồ Chí Minh luôn luôn chú ý huấn luyện và xây
dựng lực lượng cán bộ. Chính do như vậy, cho nên Đảng đã lãnh đạo thành công
Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.

1.3. Yêu cầu đối với cán bộ cách mạng
Yêu cầu về tư cách. Có ba nội dung chủ yếu nhất sau đây có tính bao quát
toàn bộ các mặt của nó mà Hồ Chí Minh hay nêu:
Một là: Cán bộ phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng của Đảng.
Hai là: Người cán bộ phải đặt quyền lợi của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết
và lên trước hết, “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích
gì khác. Cho nên Đảng phải ra sức tổ chức nhân dân, lãnh đạo nhân dân để giải
phóng nhân dân và để nâng cao sinh hoạt, văn hoá, chính trị của nhân dân. Vì toàn
dân được giải phóng, tức là Đảng được giải phóng” 2. Hồ Chí Minh đề ra nguyên
tắc: “Lợi ích cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ
phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải
phục tùng lợi ích lâu dài”3.
Trong việc chống chủ nghĩa cá nhân, Hồ Chí Minh rất coi trọng lợi ích cá
nhân, miễn là lợi ích cá nhân của cán bộ là phù hợp với lợi ích của Đảng, của cách
mạng. Trong cuộc sống, nhiều khi lợi ích cá nhân phù hợp với lợi ích của Đảng,

nhưng cũng có lúc không, vì thế Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu gặp khi lợi ích
chung của Đảng mâu thuẫn với lợi ích riêng của cá nhân, thì phải kiên quyết hy
sinh lợi ích của cá nhân cho lợi ích của Đảng. Khi cần đến tính mệnh của mình
cũng phải vui lòng hy sinh cho Đảng” 4; đảng viên và cán bộ “phải đặt lợi ích của
Đảng lên trên hết, lên trước hết…Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán
2

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 250.

3

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5 5, tr. 250.

4

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5 ,tr. 251.

9


bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc
cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng””5.
Ba là: Người cán bộ phải có một đời tư trong sáng, phải là một tấm gương
sáng trong cuộc sống. Điểm nổi bật của Hồ Chí Minh so với nhiều danh nhân khác
ở trong nước và trên thế giới là toàn bộ cuộc đời của Người là tấm gương sáng về
đạo đức. Sức mạnh của đạo đức đã lan toả, thẩm thấu trong suốt chiều dài lịch sử
của dân tộc, trở thành giá trị cốt lõi, vĩnh hằng của văn hoá trong các thế hệ các dân
tộc ở trên đất nước Việt Nam. Nếu cán bộ không có một đời tư trong sáng thì sẽ
không thuyết phục, vận động được nhân dân trong các phong trào cách mạng.
Người cán bộ, ngoài việc phải hoàn thành tốt công việc chung của Đảng đã được

phân công, lại phải còn là một thành viên tốt của gia đình, là một người công dân
tốt, kiểu mẫu ở khu dân cư và ngoài xã hội, sống cuộc sống chan hoà, gần gũi với
mọi người chung quanh trong cùng bản làng, phum, sóc, thôn xóm…
Yêu cầu về phẩm chất, năng lực. Trước hết, cán bộ phải có đạo đức cách
mạng. Đây là yêu cầu “gốc”, “nguồn” đúng như Hồ Chí Minh đã nêu. Đây cũng
chính là quan điểm xuất phát, một yêu cầu có tính chất tiên quyết đối với cán bộ
cách mạng. Không ít lần, Hồ Chí Minh lưu ý rằng: “Đảng không phải là một tổ
chức để làm quan phát tài”6, người cán bộ cách mạng không phải là người “làm
quan cách mạng”, không phải vào Đảng, không phải làm cán bộ là để “thăng quan
tiến chức”, không phải như dưới thời thực dân-phong kiến “một người làm quan cả
họ được nhờ”, không phải làm cán bộ để “đè đầu cưỡi cổ dân chúng như dưới thời
thực dân-phong kiến”, v.v. Người cán bộ phải tận tụy với sự nghiệp cách mạng,
phải trung thành với Đảng, với Tổ quốc, “phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân
tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng” 7. Trung thành ở đây trước
hết đòi hỏi cán bộ phải hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình
được giao, kể cả trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và kể cả khi
thời bình, xây dựng đất nước; khi gặp thắng lợi thì không kiêu căng, chủ quan, tự
mãn; khi gặp khó khăn, gian khổ, trở ngại thì không hoang mang, dao động; “vô
5

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5 , tr. 251.

6

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 249.

7

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 249.


10


luận hoàn cảnh thế nào, lòng họ cũng không thay đổi” 8; phải luôn luôn có ý thức và
hành động bảo vệ Đảng, bảo vệ Tổ quốc. Trung thành với cách mạng là phải hết
lòng, hết sức phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân, là việc gì có lợi cho dân, dù
nhỏ, cũng gắng sức làm, việc gì có hại cho dân, dù nhỏ, cũng hết sức tránh.
Đồng thời, về năng lực, cán bộ phải có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Muốn thế, phải “chuyên”. Đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà
nước, quyết định của đoàn thể chỉ biến thành hiện thực trong cuộc sống, ngoài yêu
cầu về việc đường lối, chủ trương, chính sách, quyết định đó phải đúng đắn, còn có
việc phải tổ chức lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân ra sức thực hiện thắng lợi. Không
như thế thì đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quyết định
của đoàn thể nhân dân chỉ nằm trên giấy.
Cán bộ phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân. Đây là yêu cầu đối với
cán bộ ở tất cả các thời kỳ cách mạng, nhưng trong thời kỳ Đảng cầm quyền càng
đặc biệt quan trọng hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, người cán bộ, bằng hành
động thực tế của mình, phải làm cho dân tin, dân yêu, dân kính, dân phục; đừng có
mang danh cộng sản để đè đầu cưỡi cổ nhân dân; phải yêu dân, kính dân; phải việc
gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố
tránh; phải khổ trước thiên hạ và vui sau thiên hạ; phải vừa là người lãnh đạo vừa là
người đày tớ thật trung thành của nhân dân.
Cán bộ phải luôn luôn học tập để nâng cao trình độ về mọi mặt. Học suốt
đời, học không biết chán, dạy không biết mỏi (Nho giáo); học, học nữa và học mãi
(V.I.Lênin)… đó là những điều mà Hồ Chí Minh đã chú ý vận dụng vào trong cuộc
sống của chính bản thân mình và giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên. Hồ Chí
Minh quan niệm: một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Hồ Chí Minh cho rằng, ngày
nay không thể lãnh đạo chung chung được nữa, rằng, chỉ có lòng nhiệt tình không
thôi thì chưa đủ, mà còn phải có tri thức nữa. Hồ Chí Minh suốt đời chăm chỉ học

tập, già rồi, cuối đời rồi vẫn còn học; học ở nhà trường, học trong cuộc sống, và
quan niệm của Hồ Chí Minh học không phải là để có bằng cấp, để thăng chức.
8

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 278.

11


Cán bộ phải có phong cách tốt. Theo Hồ Chí Minh, muốn có phong cách
công tác tốt, phải phòng và chống tác phong chủ quan, tác phong quan liêu, đại
khái, ham chuộng hình thức, phô trương cho oai, làm đại khái, qua loa. Phải sâu sát,
tỷ mỉ; nắm việc lớn, phải giải quyết bắt dầu từ những việc cơ bản, không cận thị
(tức là chỉ nhìn gần mà không nhìn xa trông rộng được), có đầu óc quan sát; phải
chân đi, miệng nói, tay làm, không như thế thì đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo
công văn nhưng công việc không chạy.
Hồ Chí Minh đã nêu lên những vấn đề lý luận cơ bản nhất về quy luật Đảng
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn bản thân mình. Điều này đúng như điều tất
yếu mà Hồ Chí Minh đã nêu: Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã
hội mà ra, do đó, Đảng phải thường xuyên phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, và đó
chính là quy luật phát triển của một Đảng Mác – Lênin, một Đảng chiến đấu dưới
lá cờ của chủ nghĩa cộng sản, vì một xã hội tốt đẹp, vì sự nghiệp cao cả là giải
phóng con người.
Riêng về phong cách công tác của cán bộ, Hồ Chí Minh nhấn mạnh tới các
vấn đề chủ yếu: Sửa cách lãnh đạo về công tác cán bộ; Biết chọn trình tự ưu tiên
công việc; Thường xuyên tổng kết công tác; Phải luôn luôn có sáng kiến; Sâu sát,
gần gũi nhân dân, có tinh thần phụ trách trước dân; Phải kiểm tra, kiểm soát chặt
chẽ; Có lãnh đạo chung, nhưng có chỉ đạo điểm.

1.4. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ

Phạm vi của vấn đề công tác cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng,
nhưng tập trung chủ yếu một số nội dung sau đây:
- Hiểu và đánh giá đúng cán bộ để lựa chọn và sử dụng đúng cán bộ. Đây là
yêu cầu xuất phát để tiến hành các mặt khác của công tác cán bộ. Nếu không đánh
giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ thì không thể đề ra chính sách cán bộ
một cách đúng đắn được. Hồ Chí Minh cho rằng, cứ mỗi lần xem xét lại cán bộ,
một mặt sẽ tìm thấy những nhân tài mới, mặt khác thì những người yếu kém sẽ bị
lòi ra. Hiểu và đánh giá đúng cán bộ và tình hình công tác cán bộ phải có những
yêu cầu riêng. Đồng thời, hiểu và đánh giá đúng cán bộ phải có có những chuẩn
mực phù hợp với từng thời kỳ, từng địa phương, từng lĩnh vực, đánh giá một cách
12


hoàn toàn công minh, khách quan. Yêu cầu về mặt này cho chúng ta thấy không thể
đem cái thước đo chất lượng của cán bộ vùng thành thị để đo chất lượng cán bộ
vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa; không thể đem thước đo chất lượng cán
bộ lĩnh vực này vào đo chất lượng cán bộ ở lĩnh vực khác.
Người làm công tác cán bộ khi đánh giá, xem xét cán bộ phải “tự biết mình”,
tức là biết được “sự phải trái của mình”, sửa chữa những khuyết điểm của mình, để
“mình càng ít khuyết điểm thì cách xem xét cán bộ càng đúng”, như thế mới không
phạm những căn bệnh: 1. Tự cao tự đại; 2. Ưa người ta nịnh mình; 3. Do lòng yêu,
ghét của mình mà đối với người; 4. Đem một cái khuôn khổ nhất định, chật hẹp mà
lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Hồ Chí Minh cho rằng, nếu phạm một trong
bốn bệnh đó thì người làm công tác cán bộ cũng như mắt đã mang kính có màu,
không bao giờ thấu rõ cái mặt thật của những cái mình trông.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng, xem xét một người cán bộ không nên chỉ
xem xét mặt bên ngoài, xem xét qua một việc, mà phải xem xét kỹ cả toàn bộ công
việc của người cán bộ đó. Quan niệm của Hồ Chí Minh là: trong thế giới, cái gì
cũng biến hoá, tư tưởng con người cũng vậy, cho nên xem xét cán bộ phải toàn
diện, xem xét cả một quá trình công tác của người cán bộ. Có người trước đây có

sai lầm nhưng nay đã sửa chữa được, có người nay không có sai lầm nhưng sau lại
mắc sai lầm, có người trước đây đi theo cách mạng nay lại phản cách mạng, ngược
lại có người trước đây không theo cách mạng nay lại tham gia cách mạng… nghĩa
là quá khứ, hiện tại, tương lai của mọi người không phải luôn luôn giống nhau. Do
đó, xem xét cán bộ phải xem xét cả lịch sử của họ, toàn bộ công việc của họ.
Hồ Chí Minh nêu lên quan điểm: “Ai mà hay khoe công việc, hay a dua, tìm
việc nhỏ mà làm, trước mặt thì theo mệnh lệnh, sau lưng thì trái mệnh lệnh, hay
công kích người khác, hay tự tâng bốc mình, những người như thế, tuy họ làm được
việc, cũng không phải cán bộ tốt. Ai cứ cắm đầu làm việc, không ham khoe khoang,
ăn nói ngay thẳng, không che giấu khuyết điểm của mình, không ham việc dễ, tránh
việc khó, bao giờ cũng kiên quyết làm theo mệnh lệnh của Đảng, vô luận hoàn cảnh
thế nào, lòng họ cũng không thay đổi, những người như thế, dù công tác kém một

13


chút cũng là cán bộ tốt. Người ở đời, ai cũng có chỗ tốt và chỗ xấu. Ta phải khéo
nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”9.
Phải “khéo dùng cán bộ”, “dùng người đúng chỗ, đúng việc”. Hồ Chí Minh
nhấn mạnh: dùng người như dùng gỗ, người thợ khéo thì gỗ to, nhỏ, thẳng, cong
đều tùy chỗ mà dùng được. Hồ Chí Minh phê bình rằng, thường chúng ta không
biết tùy tài mà dùng người, thí dụ: thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn
dao, thành thử hai người đều lúng túng, nếu biết tùy tài mà dùng người thì hai
người đều thành công.
Hồ Chí Minh phê bình nghiêm khắc tệ “kéo bè kéo cánh” trong công tác cán
bộ. Tệ này phát sinh từ bệnh bè phái, ai hợp với mình thì thì dù người xấu cũng cho
là tốt, việc dở cũng cho là hay, rồi che đậy cho nhau, ủng hộ lẫn nhau; ai không hợp
với mình thì người tốt cũng cho là người xấu, việc hay cũng cho là dở, rồi tìm cách
dèm pha, nói xấu, tìm cách dìm người đó xuống. Khuyết điểm này, như Hồ Chí
Minh chỉ ra, nó rất tai hại, nó làm Đảng bớt mất nhân tài và không thực hành được

đầy đủ chính sách của mình, làm hại sự thống nhất, nó làm mất sự thân ái, đoàn kết
đồng chí, gây ra những mối nghi ngờ…
Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm toàn diện khi xem xét để đề bạt, bổ nhiệm
cán bộ: Khi cất nhắc một cán bộ, cần phải xét rõ người đó có gần gụi quần chúng,
có được quần chúng tin cậy và mến phục không. Lại phải xem người ấy xứng với
việc gì. Nếu người có tài mà dùng không đúng tài của họ, cũng không được việc.
Nếu cất nhắc không cẩn thận, không khỏi đem người bô lô ba la, chỉ nói mà không
biết làm, vào những địa vị lãnh đạo, như thế rất có hại.
Hồ Chí Minh phê phán những bệnh sau đây: 1. Ham dùng người bà con, anh
em quen biết, bầu bạn, vì cho họ tốt hơn người bên ngoài; 2. Ham dùng những kẻ
khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính trực; 3. Ham dùng những
người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính tình không hợp với mình.
Hồ Chí Minh đưa ra quan điểm dùng cán bộ đúng với 5 nội dung:
- Phải có độ lượng vĩ đại thì mới có thể có thái độ và tinh thần chí công vô
tư đối với cán bộ, không có thành kiến, khiến cán bộ không bị bỏ rơi.

9

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 278 – 279

14


- Phải có tinh thần rộng rãi mới có thể gần gụi với những người mà mình
không ưa.
- Phải có tính chịu khó dạy bảo mới có thể nâng đỡ những cán bộ còn kém,
giúp cho họ tiến bộ.
- Phải sáng suốt mới khỏi bị bọn vu vơ bao vây mà cách xa cán bộ tốt.
- Phải có thái độ vui vẻ, thân mật, cán bộ mới vui lòng gần gụi mình.
- Phải chống chủ nghĩa biệt phái, cục bộ, địa phương, hẹp hòi. Hồ Chí Minh

hay nhấn mạnh đến việc chống cánh hẩu, họ hàng, thân quen trong công tác cán bộ
nói chung cũng như trong chính sách cán bộ nói riêng. Người phê bình một cách
nghiêm khắc việc ưa kẻ nịnh người làm công tác cán bộ, tìm cách lợi dụng chức
quyền để đưa anh em, họ hàng, bạn bè thân quen vào chức này chức nọ. Hồ Chí
Minh chỉ rõ tác hại của bệnh hẹp hòi, bệnh địa phương cục bộ. Theo Người, những
bệnh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa bản vị, chủ nghĩa cá nhân, khuynh hướng
tham danh vọng, tham địa vị, dìm người giỏi, v.v. đều do bệnh hẹp hòi mà ra.
Trong vấn đề này, Hồ Chí Minh cũng đề cập việc kết hợp cán bộ tại chỗ với
cán bộ do cấp trên điều về. Người phê bình do hẹp hòi mà cán bộ cấp trên phái đến
và cán bộ địa phương không đoàn kết chặt chẽ. Hồ Chí Minh cho rằng, phải chữa
cho “tiệt nọc” bệnh hẹp hòi, khắc phục kèn cựa, mất đoàn kết giữa cán bộ trên điều
về và cán bộ tại chỗ. Người viết: “Phải biết rằng: chỉ có hai hạng cán bộ đó đoàn
kết chặt chẽ và chỉ có cán bộ địa phương ngày càng thêm nhiều, thì nền tảng của
Đảng mới phát triển vững vàng. Cán bộ phái đến, trình độ thường cao hơn, kinh
nghiệm nhiều hơn. Nhưng cán bộ địa phương lại biết rõ nhân dân, quen thuộc công
việc hơn. Hai hạng cán bộ phải giúp đỡ nhau, bồi đắp nhau, thì công việc mới
chạy”10. Theo quan điểm của Người, tốt nhất là kiếm cán bộ tại chỗ, đào tạo, bồi
dưỡng, đề bạt, sử dụng cán bộ tại chỗ; song nếu không có hoặc thiếu thì điều động
cán bộ ở nơi khác về. Chúng ta thấy rằng, đây chính là thực hiện quan điểm coi
Đảng ta là một cơ thể sống, đội ngũ cán bộ là một đội ngũ thống nhất, cán bộ có thể
và cần phải được bố trí công tác ở bất cứ địa bàn nào miễn là người cán bộ đó có đủ
đức và tài, có tính đến đặc điểm, yêu cầu của từng vùng, từng lĩnh vực.

10

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 236

15



Vấn đề giải quyết mối quan hệ giữa cán bộ mới và cán bộ cũ cũng được Hồ
Chí Minh đề cập không ít trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng. Hồ
Chí Minh chỉ rõ tính tất yếu, tự nhiên, hợp quy luật của vấn đề này, khi cho rằng:
“Số cán bộ cũ có ít, không đủ cho Đảng dùng. Đồng thời, theo luật tự nhiên, già thì
phải yếu, yếu thì phải chết. Nếu không có cán bộ mới thế vào, thì ai gánh vác công
việc của Đảng”11. Hồ Chí Minh phân tích rằng, cán bộ mới “vì công tác chưa lâu,
kinh nghiệm còn ít, có nhiều khuyết điểm. Nhưng họ lại có những ưu điểm hơn cán
bộ cũ: họ nhanh nhẹn hơn, thường giàu sáng kiến hơn” 12. Do đó, Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Cán bộ cũ phải hoan nghênh, dạy bảo, dìu dắt, yêu mến cán bộ mới…Hai bên
phải tôn trọng nhau, giúp đỡ nhau, học lẫn nhau, đoàn kết chặt chẽ với nhau…Cán
bộ cũ thường giữ địa vị lãnh đạo. Vì vâỵ, nếu từ nay, quan hệ giữa hai hạng cán bộ
ấy không ổn thoả, thì cán bộ cũ phải chịu trách nhiệm nhiều hơn. Như thế mới chữa
khỏi bệnh hẹp hòi”13.
- Phải chú trọng đến công tác đề bạt cán bộ. Hồ Chí Minh lưu ý việc phải
xem xét thật kỹ trước khi đề bạt cán bộ, sau khi đã đề bạt rồi thì phải theo dõi, giúp
đỡ, kiểm tra người cán bộ đó; nếu không như thế thì hỏng việc. Hồ Chí Minh viết
rõ: cất nhắc cán bộ không nên làm theo lối giã gạo, nghĩa là trước khi cất nhắc
không xem xét kỹ, khi cất nhắc rồi thì không giúp đỡ họ, khi họ sai lầm thì đẩy họ
xuống, chờ lúc họ làm khá lại cất nhắc lên; một cán bộ bị nhắc lên thả xuống ba lần
như thế là hỏng cả đời. Hồ Chí Minh bày tỏ quan điểm quý trọng cán bộ khi cho
rằng: “Đảng phải nuôi dạy cán bộ, như người làm vườn vun trồng những cây cối
quý báu. Phải trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho công
việc chung của chúng ta”14.
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Trong công tác cán bộ, phải chú ý việc đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, mà Hồ Chí Minh cho rằng, đây là công việc gốc của Đảng khi
đặt trong mối quan hệ với nội dung vai trò của cán bộ. Công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ là một công việc quan trọng, phải được tiến hành thường xuyên. Ở đây, có
mấy điểm đáng chú ý mà Hồ Chí Minh đã nêu:
11


Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 237
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 237
13
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 237
14
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 273
12

16


- Học phải thiết thực, “lấy tự học làm cốt. Do thảo luận và chỉ đạo giúp
vào”15.
- Học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn với thực tế.
- Sắp xếp thời gian và bài học phải hợp lý.
- Tuyệt đối chống bệnh chủ quan, hẹp hòi, ba hoa.
- Các tài liệu huấn luyện phải do cơ quan lãnh đạo xét kỹ.
- Những giờ học tập đều tính như những giờ làm việc.
- Khi cất nhắc cán bộ, phải xem kết quả học tập cũng như kết quả công tác
khác mà định.
- Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ.
- Những người lãnh đạo phải tham gia giảng dạy các lớp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ của Đảng.
- Đầu tư cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải có kinh phí tương
xứng với yêu cầu, “không nên bủn xỉn về các khoản chi tiêu trong việc huấn
luyện”16
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ có ý nghĩa và thực tiễn
sâu sắc. Đó là những quan điểm cơ bản chỉ đạo chung vào công tác đổi mới và
chỉnh đốn Đảng trong tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, đặc biệt trong thời kỳ

cách mạng hiện nay, thời kỳ Đảng tiếp tục cầm quyền lãnh đạo sự nghiệp phát triển
đất nước vì những mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

15
16

Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 273
Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, Tập 5, tr. 273

17


B. CƠ SỞ THỰC TIỄN
I. Quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ trong tác phẩm “Sửa

đổi lối làm việc”
Cả cuộc đời của Hồ Chí Minh - kể từ khi bước chân ra đi tìm đường
cứu nước tới khi viết những dòng Di chúc cuối cùng – tất cả đều toát lên một
tư tưởng vĩ đại: vì nhân dân. Nhân dân trong tâm hồn Bác như một nỗi
thương cảm, nỗi day dứt, như mục tiêu sống của mình. Nhân dân Việt Nam
có lịch sử lâu dài nghìn năm, trong đó có thời gian dài với thân phận đau khổ
và “lép vế”. Bác đã thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ đau, sự bất hạnh và thân phận
“lép vế” của một dân tộc bị “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm” hoành hành.
Cuộc cách mạng mà Bác và Đảng lãnh đạo chính là vì độc lập tự do cho Tổ
quốc, vì dân chủ và hạnh phúc cho nhân dân. Xuất phát từ tình cảm đó mà
trong “Sửa đổi lối làm việc” Bác đặt vấn đề cho những người phục vụ nhân
dân, “người lãnh đạo là người đầy tớ của nhân dân” phải có phẩm chất và
đạo đức cách mạng. Bác yêu cầu những cán bộ cách mạng phải trung thành
tuyệt đối với lý tưởng và mục tiêu của Đảng là suốt đời rèn luyện đạo đức
cách mạng để phục vụ nhân dân. Chính vì nỗi lo lắng ấy, nên Bác đã đặt ra

vấn đề rèn luyện đạo đức đối với các đồng chí của mình.
Bằng tác phẩm này, Bác trang bị cho các đồng chí của mình các công
cụ và tiêu chuẩn đạo đức nhằm hai mục đích rất rõ ràng :Thứ nhất là, thu hút
sự ủng hộ của nhân dân để tiến hành một cách thuận lợi cuộc kháng chiến; và
thứ hai là, để cán bộ cách mạng sửa chữa những thói hư, tật xấu thường có
trong mỗi người để rèn luyện và nêu cao đạo đức cách mạng, nhất là trong
điều kiện Đảng cầm quyền. Bác quan niệm: Cán bộ cách mạng là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ, giải thích cho dân chúng
hiểu rõ và thi hành. Đồng thời báo cáo tình hình của dân cho Chính phủ rõ, để
đặt chính sách cho đúng. Từ định hướng đó, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã từng
18


nêu những tư tưởng của mình về vai trò của con người và cán bộ trong cách
mạng. Người nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”;“công việc thành
công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”.
1 . Những thiếu sót của cán bộ
Người đã chỉ ra và phê phán gay gắt những căn bệnh đã ăn sâu vào tác
phong làm việc của cán bộ ta như sau:
-Bệnh ba hoa;
- Bệnh địa phương;
- Bệnh ham danh vị;
- Bệnh thiếu kỷ luật( Gặp sao hay vậy);
- Bệnh xa quần chúng;
- Bệnh chủ quan;
- Bệnh hình thức;
- Bệnh ích kỷ; bệnh hủ hoá
- Bệnh thiếu ngăn nắp;Bệnh lười biếng .
Nó thể hiện cụ thể qua việc làm của cán bộ như : hám dùng người bà
con, anh em quen biết, hám dùng người nịnh hót, ghét người chính trực, hám

dùng những người hợp tính với mình, tránh những người không hợp ý mình.
“Lúc dùng cán bộ, nhiều người phạm vào những chứng bệnh sau đây:
-Ham dùng người bà con, anh em quen biết, bầu bạn, cho họ là chắc chắn hơn
người ngoài.
- Ham dùng những kẻ khéo nịnh hót mình mà chán ghét những người chính
trực.
- Ham dùng những người tính tình hợp với mình mà tránh những người tính
tình không hợp với mình.
Vì những căn bệnh đó, kết quả là những người kia làm bậy mình cũng
cứ bao dung, che chở, bảo vệ, khiến cho chúng ngày càng hư hỏng. Đối với
những người chính trực thì bới lông tìm vết để trả thù. Thời gian gần đây
19


những bệnh này đã phát triển thành bệnh tham nhũng, bệnh quan liêu, bệnh
xa hoa lãng phí, bệnh vô cảm trước nỗi khổ của dân Thời gian gần đây những
bệnh này đã phát triển thành bệnh tham nhũng, bệnh quan liêu, bệnh xa hoa
lãng phí, bệnh vô cảm trước nỗi khổ của dân . Nhiều loại hình tổ chức cơ sở
đảng còn lúng túng trong hoạt động. Không ít cơ sở đảng sinh hoạt đảng và
quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê
bình yếu, xuê xoa, dĩ hoà vi quý, thậm chí tê liệt, mất sức chiến đấu.
Những khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ đã tồn tại từ lâu
chậm được khắc phục, nhất là việc giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng,
đạo đức, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác. Tư tưởng
cá nhân, cục bộ, nể nang, né tránh trong công tác cán bộ còn nặng ở không ít
cấp uỷ; chậm khắc phục những biểu hiện mất dân chủ, độc đoán, cơ hội, hẫng
hụt cán bộ ở nhiều lĩnh vực, địa bàn, vị trí trọng yếu.
Tình trạng suy thoái, biến chất ở một bộ phận cán bộ, đảng viên đã ảnh
hưởng lớn đến uy tín, thanh danh của Đảng. Đây thực sự là nguy cơ “tự diễn
biến" không thể coi thường.

2. Những giải pháp Người đưa ra.
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người phê bình những khuyết
điểm, yếu kém trong công tác cán bộ, đồng thời đề ra những quan điểm và
giải pháp về vấn đề cán bộ, trong đó việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ trở thành những người có văn hóa, có tri thức và nghiệp vụ. Điều đó được
thể hiện:
2.1
. Về việc đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ.
Vì cán bộ là cái "gốc" của mọi công việc, do đó, huấn luyện cán bộ là
công việc "gốc" của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ huấn luyện nghề
nghiệp cho cán bộ là khâu đầu tiên. Vì rằng, cán bộ làm nghề nào, ngành nào
cũng phải học cho thành thạo công việc ở ngành, nghề ấy. Đồng thời, phải
20


nghiên cứu những chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Chính phủ; học
tập những kinh nghiệm thành công và thất bại; học tập lịch sử truyền thống
cách mạng và sự phát triển trong từng thời kỳ... Theo đó, việc huấn luyện
phải sắp xếp cách dạy và học, kiểm tra kết quả, sao cho cán bộ dần dần đi đến
thành thạo công việc; huấn luyện chính trị, môn nào cũng phải có; cần coi
trọng nâng cao kiến thức văn hóa.
2.3.

Về bồi dưỡng và sử dụng cán bộ.
Mục tiêu cơ bản của đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng và

hình thành thái độ cần thiết để làm việc; theo yêu cầu của công việc chứ
không chỉ là để đáp ứng tiêu chuẩn do cơ quan quản lý đặt ra. Tiêu chuẩn, về
cơ bản là định hướng cho “đầu vào”, chứ không nên là cơ sở để đào tạo, bồi
dưỡng. Về mặt nguyên tắc, cơ quan quản lý, sử dụng chỉ tuyển dụng hoặc bổ

nhiệm những người đã đủ tiêu chuẩn quy định vào những vị trí, công việc đã
định. Việc “huấn luyện nghề nghiệp” cơ bản cần tập trung vào việc trang bị
những kiến thức, kỹ năng và thái độ mà chính vị trí công việc ấy đòi hỏi để
“thạo việc”, để làm việc tốt hơn, hiệu quả.
Đảng luôn nuôi dạy cán bộ như người làm vườn vun trồng những cây
cối quý báu; trọng nhân tài, trọng cán bộ, trọng mỗi một người có ích cho
công việc chung của chúng ta.
Theo tư tưởng của Người, Đảng phải biết rõ cán bộ;… xem xét lại
nhân tài và tìm nhân tài mới. Phải cất nhắc cán bộ cho đúng; cán bộ phải
được tập thể tin cậy, lại bố trí đúng ngành nghề đào tạo, huấn luyện. Một
trong những vấn đề Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm, đó là đặt đúng người vào
đúng công việc thích hợp: Phải khéo dùng cán bộ. Chúng ta phải biết tùy tài
mà dùng người. Phải phân phối cán bộ cho đúng. Phải dùng người đúng chỗ,
đúng việc.

21


Khi đã đặt cán bộ thích hợp với công việc, cần tiếp tục giúp họ có điều
kiện hoàn thành công việc một cách có hiệu quả: luôn luôn dùng lòng thân ái
mà giúp đỡ, giúp họ sửa chữa những chỗ sai lầm; khen ngợi họ lúc làm được
việc tốt, và phải luôn kiểm soát cán bộ, giữ gìn cán bộ. Người nhấn mạnh, đối
với công tác cán bộ của Đảng ta, việc xây dựng quy hoạch, đào tạo, bồi
dưỡng, cất nhắc và kiểm tra cán bộ là một quy trình liên hoàn và liên tục, yêu
cầu thực hiện nghiêm túc, triệt để. Cán bộ được đề bạt phải dựa vào cả quá
trình tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu. Sau khi nhận chức trách, lại tiếp tục
được tổ chức quan tâm theo dõi, giúp đỡ, kiểm tra. Có như vậy, công tác cán
bộ của Đảng mới đem lại hiệu quả thiết thực cho sự nghiệp cách mạng.
2.3. Xây dựng cơ chế làm việc cho cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra có năm cách:

- Thứ nhất là chỉ đạo - tạo điều kiện cho họ làm, thử cho họ phụ trách,
dù sai lầm chút ít cũng không sợ. Nhưng phải luôn luôn tùy hoàn cảnh mà
hướng dẫn cho họ phương hướng, cách thức công tác để phát triển năng lực
và sáng kiến.
- Thứ hai là luôn bồi dưỡng cán bộ, nâng cao tư tưởng, trình độ lý luận và
cách làm việc cho họ. Việc đào tạo và sử dụng hợp lý đối với cán bộ có khéo,
có đúng thì mới thực hiện được nguyên tắc vấn đề cán bộ quyết định mọi
công việc.
- Thứ ba là thường xuyên kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa
khuyết điểm, phát triển ưu điểm.
- Thứ tư là khi họ sai lầm thì dùng cách thuyết phục giúp họ sửa chữa, cải tạo.
- Thứ năm là giúp đỡ họ điều kiện sinh sống đầy đủ để làm việc.
Tùy hoàn cảnh mà giúp họ khi ốm đau, khi gia đình họ gặp khó khăn. Những
điều đó quan hệ rất lớn tới tinh thần của cán bộ, và sự thân ái đoàn kết trong
Đảng. Nghĩa là phải quan tâm đầy đủ cả vật chất lẫn tinh thần của người cán
bộ để họ có đủ điều kiện hoạt động và phục vụ cách mạng.

22


2.4.

Về chính sách cán bộ.
Bác chỉ ra cần phải hiểu biết cán bộ. Vấn đề nhận xét và đánh giá cán

bộ là vấn đề không đơn giản. Biết người cố nhiên là khó, tự biết mình cũng
không dễ. Nếu không biết sự phải trái ở mình, thì chắc không thể nhận rõ
người cán bộ tốt hay xấu. Người còn chỉ rõ các chứng bệnh của cán bộ ta
như: tự cao tự đại; ưa người ta nịnh mình; do lòng yêu, ghét của mình mà đối
với người khác thiếu khách quan. Không thể đem một cái khuôn khổ nhất

định, chật hẹp mà lắp vào tất cả mọi người khác nhau. Phạm một trong bốn
bệnh đó “cũng như mắt đã mang kính có màu, không bao giờ thấu rõ cái mặt
thật của những cái mình trông”. Vì vậy, nhận xét cán bộ không nên chỉ xét
ngoài mặt, chỉ xét một lúc, một việc, mà phải xét kỹ cả toàn công việc của
cán bộ. Do đó, nhận xét đánh giá cán bộ phải xuất phát từ hiện thực khách
quan, với quan điểm toàn diện, lịch sử - cụ thể. Qua đó mới biết chỗ tốt và
chỗ xấu của cán bộ. Từ đó mà nâng cao chỗ tốt, sửa chữa chỗ xấu, trong đó
Bác coi trọng nghệ thuật sử dụng cán bộ. Bác đề ra các yêu cầu như sau:
2.4.1. Khéo dùng cán bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Phải cân nhắc cán bộ cho đúng và
phải dùng cán bộ cho khéo”. Người viết: “ Khi cân nhắc cán bộ phải xét rõ
người đó có gần gũi quần chúng, có được quần chúng tin cậy mến phục
không”, nghĩa là phải xem xét uy tín cán bộ trước quần chúng đến mức độ
nào và phải xem người ấy xứng đáng với việc gì. “Nếu người có tài mà dùng
không đúng tài của họ, cũng không được việc”, “nếu cân nhắc không cẩn
thận không khỏi đem người chỉ nói mà không làm vào những địa vị lãnh đạo,
như thế rất có hại”. Người phê phán “thường chúng ta không biết tuỳ tài mà
dùng người”, “thợ rèn thì bảo đi đóng tủ, thợ mộc thì bảo đi rèn dao, thành
thử hai người đều lúng túng”. Người chỉ ra tác dụng của việc bố trí sử dụng
đúng người, đúng việc “nếu biết tùy tài mà dùng người” thì sẽ thành công.
Song song với việc chỉ ra tầm quan trọng của việc sử dụng đúng người, đúng
23


việc, đúng chỗ, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ: Cân nhắc và khéo dùng cán
bộ, dùng đúng cán bộ là trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, bởi vì không đánh
giá, sử dụng đúng cán bộ sẽ dẫn đến sự lãng phí nhân tài là sự lãng phí lớn
nhất của đất nước. “Lãnh đạo khéo thì tài nhỏ có thể hoá ra tài to. Lãnh đạo
không khéo thì tài to hoá ra tài nhỏ”, “ cân nhắc cán bộ, phải vì công tác tài
năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái. Như thế công việc nhất

định chạy”, “ nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể nang nhất định không
ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế có tội với Đảng, có tội
với đồng bào”.
2.4.2. Phải có gan cất nhắc cán bộ.
Phải vì công tác, tài năng, vì cổ động cho đồng chí khác thêm hăng hái.
Như thế, công việc nhất định chạy. Nếu vì lòng yêu ghét, vì thân thích, vì nể
nang, nhất định không ai phục, mà gây nên mối lôi thôi trong Đảng. Như thế
là có tội với Đảng, có tội với đồng bào. Trước khi cất nhắc cán bộ, phải nhận
xét rõ ràng, phải căn cứ vào kết quả công việc họ làm, cách nói, cách viết và
cách sinh hoạt của họ, v.v…
2.4.3. Thương yêu cán bộ.
Đảng phải thương yêu cán bộ nhưng thương yêu không phải là vỗ về,
nuông chiều, phó mặc, mà “thương yêu là giúp họ học tập thêm, tiến bộ
thêm”, là “hễ thấy khuyết điểm là giúp họ sữa chữa ngay để vun trồng cái
thói có gan phụ trách, cả gan làm việc của họ”. Theo Người thương yêu cán
bộ chính là ở thái độ thưởng phạt công minh, có thành tích thì khen, có
khuyết điểm phải phạt. Người nhấn mạnh nhiều lần “Người đời ai cũng có
chỗ tốt và chỗ xấu”, “ai cũng có khuyết điểm”, “ có làm việc thì có sai lầm”.
“Chúng ta không sợ sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu sữa chữa sai
lầm và khuyết điểm”. Chỉ sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng
để giúp cán bộ sữa chữa sai lầm và khuyết điểm. Phải biết cải tạo họ “ không
24


phải là một sai lầm to lớn, mà đã cho họ là cơ hội chủ nghĩa, đã cảnh cáo, đã
khai trừ. Những cách quá đáng như vậy đều không đúng, phải độ lượng và có
thái độ “thân thiết giúp họ tìm ra cái cớ vì sao sai lầm”. Người viết: “Cố
nhiên cần dùng cách giải quyết thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo… Song không
phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt”. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ nên theo
Người cũng phải xử phạt công minh “cần phải phân tích rõ ràng cái cớ sai

lầm, phải xét kỹ lượng việc nặng hay nhẹ, phải xử phạt cho đúng”.
2.4.4. Phê bình
Vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, mặc dù thời
gian cầm quyền của Đảng ta chưa nhiều nhưng cũng đã bộc lộ những thiếu
sót, khuyết điểm ở một bộ phận đảng viên, cán bộ. Là một đảng viên và trên
cương vị lãnh tụ cao nhất của Đảng, Hồ Chí Minh đã kiên quyết chỉ rõ những
khuyết điểm của Đảng cũng như của đảng viên, cán bộ, đồng thời, đặt vấn đề
phải tiến hành tự phê bình và phê bình trong Đảng.
-Vì sao phải phê bình, tự phê bình?
Trước những ý kiến cho rằng, tiến hành tự phê bình và phê bình là vô hình
trung vạch rõ khuyết điểm của Đảng, của Chính phủ, của mình cũng như
đồng chí mình, và như vậy kẻ địch sẽ lợi dụng để phá hoại Đảng, Hồ Chí
Minh lập luận: làm người khó ai tránh khỏi lỗi lầm, thiếu sót. Đảng ta là một
tổ chức chính trị tiên phong của giai cấp công nhân, tập hợp những chiến sĩ
trung kiên, thông minh, dũng cảm…, nhưng Đảng cũng từ trong xã hội mà ra,
không phải “trên trời rơi xuống” nên không tránh khỏi khuyết điểm, thiếu
sót. Người chỉ ra nhiều lý do khách quan, chủ quan dẫn tới nhiều thiếu sót,
khuyết điểm, thậm chí sai lầm của cán bộ, đảng viên. Điều đó là lẽ bình
thường, quan trọng là thái độ của những người cộng sản ra sao trước những
lỗi lầm mắc phải. Nếu “sợ mất oai tín và thể diện”, không quyết tâm sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm, đó là điều bất bình thường. Người khẳng định:
“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một
Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu
25


mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm
mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh
dạn, chắc chắn, chân chính”. Hồ Chí Minh cho rằng: khuyết điểm cũng như
chứng bệnh. Phê bình thì giống như uống thuốc. Nếu sợ phê bình thì cũng

khác nào là có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Như vậy thì bệnh
tình lại càng nặng thêm, không chết “cũng la lết quả dưa ”. Do vậy, đối với
đảng viên, cán bộ mà “nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa
vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà
không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết
điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho
mình”.
Đối với cán bộ sai lầm, chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm,
chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa sai lầm và khuyết điểm.Và càng sợ,
những người lãnh đạo sẽ không biết tìm đúng cách để giúp cán bộ sửa chữa
sai lầm và khuyết điểm. Sự sửa chữa khuyết điểm, một phần cố nhiên là trách
nhiệm của cán bộ đó, nhưng cũng một phần trách nhiệm của người lãnh đạo.
Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách thuyết phục, giải thích, cảm hóa,
dạy bảo. Song, không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Nếu không xử
phạt, thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy,
phê bình cho đúng, chẳng những không làm giảm uy tín của cán bộ, của
Đảng, mà còn làm cho sự lãnh đạo mạnh mẽ hơn, thiết thực hơn, do đó mà uy
tín và thể diện càng tăng thêm.
II. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong công tác cán bộ trong giai
đoạn hiện nay.
Thực tiễn đời sống chính trị cho thấy, trong cấu trúc của hệ thống quyền
lực, người và tổ chức chính trị càng cao, tác động tích cực hoặc tiêu cực của
nó tới các bậc thấp hơn càng mạnh mẽ, tác động lan toả của nó càng rộng lớn.
Do vậy, trong khi xem cấp cơ sở là nền tảng, cần thấy vai trò quyết định của
26


×