MỞ ĐẦU
Vấn đề Nhà nước và đấu tranh giai cấp đã được nhiều nhà tư tưởng bàn
tới nhưng ở các thế kỷ trước các nhà tư tưởng chỉ nhắc tới một phần nhỏ trong
vấn đề nhà nước như là giai cấp thống trị, lợi ích nhà nước….Chỉ đến những
năm đầu thế kỷ XIX, từ những thành tựu khoa học của nhân loại và thực tiễn
đấu tranh của giai cấp công nhân, Ăngghen mới tìm thấy chìa khoá để mở cánh
cửa giải phóng con người là giai cấp công nhân phải giành lấy chính quyền, xây
dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ăngghen phân tích một cách khoa học về
những giai đoạn phát triển sớm nhất của lịch sử nhân loại, về quá trình tan rã của
chế độ công xã nguyên thuỷ, về quá trình hình thành, những đặc trưng của các
xã hội có giai cấp dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và giải
thích những đặc điểm của sự phát triển của các quan hệ gia đình trong các hình
thái kinh tế - xã hội khác nhau. Đặc biệt, Ăngghen luận chứng nhiều vấn đề lý
luận và thực tiễn xung quanh vấn đề nhà nước như nguồn gốc và bản chất, đặc
trưng và chức năng của nhà nước; đồng thời, chứng minh sự tất yếu diệt vong
của nhà nước khi xã hội cộng sản văn minh hoàn toàn thắng lợi.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa thì việc đẩy
mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày càng trở nên quan trọng và
có ý nghĩa quyết định tới sự thành công và chiều hướng phát triển của đất nước.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là điều kiện để phát huy tính sáng tạo và quyền dân
chủ của mỗi con người, là điều kiện đi lên chủ nghĩa xã hội.
Do vậy, em lựa chọn đề tài: “Tư tưởng Ăngghen về nhà nước và sự vận
dụng của Đảng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam” làm tiểu luận kết thúc môn học Quan điểm Mác – Ăngghen về Xây dựng
đảng và chính quyền nhà nước.
Tiểu luận ngoài phần mở bài và kết luận, gồm có hai chương và tám tiết.
1
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: TƯ TƯỞNG CỦA ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1. Ăngghen đưa ra tư tưởng của mình về nhà nước.
Ăngghen đã đưa quan điểm của mình về Nhà nước từ việc xác định quan
điểm xuất phát trong nghiên cứu về Nhà nước, ông đã đi tới những quan điểm cụ
thể về Nhà nước, trong đó việc xác định nội hàm căn bản của Nhà nước và vạch
ra tính chất, đặc trưng của Nhà nước. “Nhà nước” như là sự phản ánh của quá
trình chuyển hóa biện chứng khách quan giữa bộ máy Nhà nước và xã hội. Mác
cho rằng: “Gia đình và xã hội công dân là bộ phận hiện thực của Nhà nước, là
những tồn tại tinh thần hiện thực của ý chí, là những phương thức tồn tại của
Nhà nước. Gia đình và xã hội công dân tự chúng cấu thành Nhà nước. Chúng
chính là động lực”1.
Theo Ăngghen, Nhà nước luôn là hiện thân cho lợi ích chung và tương ứng
với nó là một quyền lực công, song trên thực tế lại luôn nhân danh lợi ích chung vì
một lợi ích riêng nào đó và sử dụng quyền lực công cho một bộ phận tư nào đó trong
xã hội. Mác và Ăngghen đã luận giải:“Chính do mâu thuẫn đó giữa lợi ích chung
với danh nghĩa là nhà nước, mang một hình thức độc lập, tách rời khỏi những lợi
ích thực tế của cá nhân và của tập thể, đồng thời cũng mang hình thức của một cộng
đồng hư ảo. Song điều đó luôn luôn diễn ra trên hình thức của Nhà nước của những
mối liên hệ tồn tại trong mỗi tập đoàn bộ lạc - như những mối liên hệ dòng máu,
ngôn ngữ, phân công lao động trên quy mô lớn và những lợi ích của các giai cấp
khác; những giai cấp này - tách ra là do kết quả của phân công lao động - đang tự
tách ra trong mỗi tập đoàn những người như vậy và trong các giai cấp đó, một giai
cấp thống trị tất cả các giai cấp khác”2.
1
2
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 1, Trang 314.
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 5, Trang 47 - 48
2
2
Như vậy, Nhà nước thực chất là hiện thân của mâu thuẫn. Đó là lợi ích
chung tự mâu thuẫn với chính mình, lợi ích chung mâu thuẫn với nhân dân lợi
ích riêng gắn với một bộ phận của xã hội.
Khi nói về mâu thuẫn nội tại của Nhà nước thể hiện trước hết ở chỗ, trong
xã hội tồn tại mâu thuẫn lợi ích chung và lợi ích riêng nên Nhà nước nào cũng
mang bản chất giai cấp. Đó là vì Nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế
những sự đối lập giai cấp, Nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung
đột của giai cấp ấy, cho nên Nhà nước là “Nhà nước của giai cấp có thế lực
nhất, của các giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có Nhà nước mà trở thành
giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện
mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”3
Quan niệm về bản chất giai cấp của Nhà nước thể hiện ra như là công cụ
để giai cấp thống trị đàn áp các giai cấp bị áp bức, bóc lột nhằm thực hiện lợi ích
kinh tế của mình trong xã hội phân chia thành các giai cấp - chủ thể của các lợi
ích riêng đối lập nhau là một quan điểm căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Quan điểm này được Ăngghen nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong những luận
bàn về vấn đề Nhà nước.“Các lực lượng cố kết xã hội văn minh là Nhà nước,
Nhà nước này trong tất cả các thời kỳ điển hình, vẫn chỉ là Nhà nước của giai
cấp thống trị, trong mọi trường hợp thực chất vẫn chỉ là bộ máy dùng để đàn áp
giai cấp bị áp bức, bị bóc lột”4 và “Chính quyền Nhà nước chẳng qua là một tổ
chức mà các giai cấp thống trị lập nên cho mình để bảo vệ đặc quyền xã hội
của mình”5.
Mặc dù mang bản chất như vậy, song Nhà nước luôn thể hiện là đại diện
cho lợi ích chung, lợi ích phổ biến và luôn luôn tuyên bố mình được sự thừa
nhận chung của toàn thể xã hội. Theo quan điểm của Mác và Ăngghen, Nhà
nước ngay từ khi ra đời đã là một thiết chế không những bảo vệ những của cải
mà các cá nhân vừa cóm được, chống lại những truyền thống cộng sản của chế
3
4
5
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 21, Trang 225
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 21, Trang 261
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1997, Tập 33, Trang 525
3
3
độ thị tộc, một thiết chế không những thần thánh hoá sở hữu tư nhân rất bị khinh bỉ
trước đây, và tuyên bố sự thần thánh hoá đó là mục đích tối cao của mọi xã hội loài
người, mà còn in dấu ấn của sự công nhận của xã hội nói chung lên những hình
thức mới, phát triển nối tiếp nhau của việc kiếm được tài sản; nói một cách khác là
của việc tích luỹ của cải ngày càng nhanh; một thiết chế không những có thể kéo
dài mãi mãi sự phân chia xã hội thành giai cấp, một sự phân chia mới chớm nở mà
còn kéo dài mãi quyền của giai cấp có của được bóc lột giai cấp không có của, và
quyền thống trị của giai cấp có của đối với giai cấp không có của.
Hai ông cũng vạch ra tính chất lịch sử của hiện tượng Nhà nước, đó là
Nhà nước không phải là sự xuất hiện và tồn tại mãi mãi với xã hội loài người.
Đã từng có những xã hội không cần đến Nhà nước, không có một khái niệm nào
về Nhà nước và chính quyền Nhà nước cả. Đến một giai đoạn kinh tế phát triển
nhất định, giai đoạn tất nhiên phải gắn liền với sự phân chia xã hội thành giai
cấp thì sự phân chia đó làm cho Nhà nước trở thành một tất yếu. Hai ông khẳng
định rằng: “Xã hội loài người đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát
triển sản xuất, trong đó sự tồn tại của những giai cấp không những không còn là
một sự tất yếu nữa, mà còn trở thành một trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Các
giai cấp sẽ không tránh khỏi biến mất, cũng như xưa kia, chúng không tránh
khỏi xuất hiện. Giai cấp tiêu vong thì Nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong
theo xã hội sẽ tổ chức lại nền sản xuất trên cơ sở liên hợp tự do và bình đẳng
giữa những người sản xuất, sẽ đem lại toàn thể bộ máy Nhà nước xếp vào các vị
trí thực sự của nó lúc bấy giờ”6.
Mác và Ăngghen cũng rút ra kết luận về sự khác nhau giữa Nhà nước dân
chủ với các chế độ Nhà nước khác.“Sự khác biệt giữa Nhà nước với những Nhà
nước ấy, tức là những Nhà nước có sự thống nhất thực thể giữa nhân dân và
Nhà nước không phải là chỗ những yếu tố khác nhau của chế độ Nhà nước đã
phát triển tới mức hiện thực đặc thù là ở chỗ bản thân chế độ Nhà nước đã phát
triển cùng với đời sống của nhân dân, hiện thực tới mức tính hiện thực đặc thù
6
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập 21, Trang 257 - 258
4
4
là ở chỗ Nhà nước chính trị đã trở thành chế độ của tất cả các mặt khác của
Nhà nước”7 hay nói cách khác “Tất cả những kết cấu Nhà nước khác đều là
những hình thức Nhà nước đặc thù cụ thể, nhất định. Còn trong chế độ dân chủ,
nguyên tắc hình thức đồng thời cũng là nguyên tắc vật chất. Vì thế chỉ có chế độ
dân chủ mới là sự thống nhất chân chính giữa cái phổ biến và cái đặc thù”8.
Có thể thấy rằng, Mác và Ăngghen đã để lại cho chúng ta những chỉ dẫn hết
sức quan trọng khi nghiên cứu về vấn đề Nhà nước. Sự phân tích của Mác và
Ăngghen về Nhà nước cho thấy mẫu mực việc vận dụng quan điểm duy vật lịch sử
và phương pháp biện chứng duy vật. Mác và Ăngghen đã phân tích một cách toàn
diện vấn đề Nhà nước cả trên hai phương diện lôgic tức là vạch ra quy luật khách
quan của sự hình thành, phát triển và tiêu vong của Nhà nước, ở một trình độ khái
quát cao về lý luận và trên phương diện lịch sử. Đặc biệt hai ông đã chỉ ra các cấp
độ bản chất của Nhà nước giữa sự chuyển hoá giữa các hình thái tồn tại của nó, hai
ông đã để lại một kho tàng lý luận cho sự phát triển của nhân loại.
1.2. Ăngghen luận giải về nguồn gốc và bản chất của nhà nước
Từ những khảo cứu thực tế lịch sử, dựa trên lập trường duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, Ăngghen đã luận chứng một cách khoa học nguồn
gốc, bản chất, quy luật hình thành và phát triển của nhà nước như một tất yếu
khách quan trong quá trình phát triển của xã hội loài người. Nhà nước, theo đó,
không phải là một thực thể quyền lực từ bên ngoài áp đặt vào xã hội, mà là sản
phẩm của một xã hội đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, là bằng chứng
của những mâu thuẫn, của những phân chia xã hội thành các lực lượng đối lập
nhau mà tự chúng không thể giải quyết được. Để những mặt đối lập và những
giai cấp có quyền lợi mâu thuẫn nhau ấy không đi đến tiêu diệt lẫn nhau và tiêu
diệt cả xã hội, thì cần phải có một lực lượng tựa hồ như đứng trên xã hội, có
nhiệm vụ làm dịu xung đột và giữ cho xung đột trong vòng trật tự, lực lượng ấy
là nhà nước.
7
8
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 1, Trang 354
C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập 1, Trang 351
5
5
Những tiền đề kinh tế và xã hội của sự xuất hiện nhà nước, theo
Ăngghen, là sự ra đời của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và xã hội phân chia
thành giai cấp. Nhà nước là sản phẩm của xã hội đã phân chia giai cấp, là kết
quả của những mâu thuẫn giữa các giai cấp không thể điều hoà được, là sản
phẩm của sự phát triển xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ chưa cần có
một quyền lực công cộng tách khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân,
thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém là tình trạng chưa phân hoá giai cấp, là
những thị tộc, bộ lạc và đứng đầu các tổ chức này là các tộc trưởng do nhân dân
bầu ra. Quyền lực của những tộc trưởng này dựa vào sức mạnh đạo đức và uy
tín, quyền hành và chức năng của cơ quan quản lý xã hội chưa mang tính chính
trị. Các thủ lĩnh, trong đó có thủ lĩnh quân sự, do nhân dân bầu ra không phải là
người cai trị, họ chỉ thực hiện ý chí của nhân dân và không có đặc quyền, đặc
lợi.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội đã đưa
lại năng suất lao động ngày một cao và xuất hiện của cải dư thừa. Đây là điều
kiện khách quan làm xuất hiện sự chiếm đoạt của cải ở một số người có quyền
lực và sự phân hoá xã hội thành những giai cấp đối kháng. Sau lần phân công
lao động xã hội thứ ba, đã có sự tích tụ của cải về một số ít người và sự bần
cùng hoá một số đông người. Sự ra đời của chế độ tư hữu và phân chia xã hội
thành giai cấp như vậy đã làm cho chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã.
Mặt khác, chiến tranh cướp bóc và tranh giành lãnh thổ giữa các thị tộc,
bộ lạc đã làm tăng quyền lực cho thủ lĩnh quân sự. Cùng với chế độ phụ quyền,
quyền thừa kế chức vụ thủ lĩnh quân sự ngày càng làm cho họ giàu có, địa vị
thống trị của họ được củng cố. Họ bóc lột nhân dân ngày càng thậm tệ và trở
thành lực lượng đối lập với nhân dân. Cơ quan tổ chức của thị tộc, bộ lạc dần
dần tách khỏi gốc rễ của nó trong nhân dân, từ chỗ là công cụ của nhân dân trở
thành cơ quan thống trị và áp bức nhân dân. Cuộc đấu tranh giữa hai giai cấp
đối kháng lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử xã hội, chủ nô và nô lệ, dẫn tới
nguy cơ các giai cấp đó tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội. Các tổ
6
6
chức thị tộc, bộ lạc mất đi khả năng tự điều tiết, quản lý và một cơ quan quyền
lực đặc biệt là nhà nước ra đời. Quá trình hình thành nhà nước gồm nhiều giai
đoạn, trong đó có giai đoạn cơ quan quản lý dưới chế độ cộng sản nguyên thuỷ
chuyển hoá thành cơ quan nhà nước. Đồng thời, do các đặc điểm về kinh tế - xã
hội và lịch sử khác nhau nên có nhiều phương thức hình thành nhà nước khác
nhau, như các phương thức Aten, Rôma, Giécmanh hay phương Đông v.v. chẳng
hạn.
Về bản chất, nhà nước là bộ máy của một giai cấp này dùng để trấn áp
một giai cấp khác. Nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp thống trị về kinh tế
nhằm bảo vệ trật tự hiện hành và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác.
Nhà nước chỉ là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không có và không thể
có nhà nước đứng trên giai cấp và nhà nước của mọi giai cấp. Đối với đông đảo
người sống trên một lãnh thổ rất rộng lớn, thì nhà nước là mối liên hệ chủ yếu
nhất liên kết họ lại với nhau, nhưng nhà nước ngày càng trở thành kẻ áp bức và
bóc lột đối với họ. Nhà nước ra đời không những không thủ tiêu bóc lột mà còn
biến bóc lột thành một chế độ.
1.3.Ăngghen luận giải về những đặc trưng cơ bản của nhà nước
Bất cứ nhà nước nào, theo Ăngghen, cũng có những đặc trưng cơ bản sau
đây:
Thứ nhất, nhà nước là cơ quan phân chia và quản lý dân cư theo địa vực.
Địa vực thì ổn định còn dân cư thì ngày càng di động, nên người ta phải lấy sự
phân chia địa vực cư trú làm nơi cho dân chúng thực hiện những quyền và nghĩa
vụ của mình, không kể họ thuộc về thị tộc hay bộ lạc nào. Cách tổ chức dân cư
theo địa vực cư trú ngày càng được thừa nhận trong tất cả các quốc gia và làm
nên sự khác biệt giữa nhà nước với thị tộc, bộ lạc trước đây. Các thị tộc, bộ lạc
được hình thành dựa trên cơ sở những quan hệ huyết thống còn nhà nước được
hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa vực cư trú và quyền lực nhà
nước có hiệu lực đối với mọi cư dân sống trên địa vực ấy.
7
7
Thứ hai, nhà nước là một cơ quan quyền lực có tính chuyên nghiệp và
cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội, quyền lực này không còn ăn
khớp với dân cư tự tổ chức thành lực lượng vũ trang nữa. Trước đây những
người đứng đầu thị tộc, bộ lạc quản lý xã hội bằng đạo đức và uy tín, còn giờ
đây những người đại diện cho nhà nước thực hiện quyền lực bằng sự cưỡng bức
của pháp luật. Hơn nữa, nhà nước không phải chỉ gồm những người được vũ
trang mà có cả công cụ vật chất phụ thêm nữa, như nhà tù và các loại cơ quan
cưỡng bức mà xã hội thị tộc, bộ lạc không hề biết đến.
Thứ ba, để duy trì nhà nước cần phải có những sự đóng góp của cư dân là
thuế. Thuế là các khoản bắt buộc phải nộp cho nhà nước, là nguồn thu chính để
nuôi sống bộ máy nhà nước. Việc thu thuế dựa trên cơ sở quyền lực nhà nước
với sự hậu thuẫn của các cơ quan và phương tiện cưỡng chế.
1.4 Ăngghen luận giải về những chức năng của nhà nước
Trước hết, theo Ăngghen, nhà nước có hai chức năng là chức năng thống
trị của giai cấp và chức năng xã hội. Chức năng thống trị của giai cấp nói lên
rằng bất cứ nhà nước nào cũng là công cụ chuyên chính của một giai cấp, sẵn
sàng sử dụng mọi công cụ, biện pháp có thể để bảo vệ sự thống trị của giai cấp
đó. Chức năng xã hội của nhà nước nói lên rằng bất cứ nhà nước nào cũng phải
thực hiện việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội. Hai chức
năng này có mối quan hệ qua lại với nhau, chức năng xã hội là cơ sở của sự
thống trị chính trị và sự thống trị chính trị còn kéo dài chừng nào nhà nước còn
thực hiện chức năng xã hội của nó.
Đồng thời, nhà nước với tư cách là đại biểu cho chủ quyền của một quốc
gia còn thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại. Chức năng đối nội của nhà
nước là duy trì trật tự xã hội theo lợi ích của giai cấp cầm quyền. Nhà nước xây
dựng và thực thi các chính sách, sử dụng quân đội, cảnh sát, bộ máy tuyên
truyền và các công cụ khác nhằm duy trì và phát triển xã hội theo những nguyên
tắc và chuẩn mực nhất định. Nhà nước thực hiện chức năng đối nội là chủ yếu,
vì nó ra đời và tồn tại trước hết trên phạm vi quốc gia - dân tộc. Chức năng đối
8
8
ngoại của nhà nước là bảo vệ lãnh thổ quốc gia, trong một số trường hợp là mở
mang lãnh thổ quốc gia và quan hệ với các nước khác vì lợi ích của giai cấp
thống trị cũng như lợi ích quốc gia. Chức năng đối nội và đối ngoại của nhà
nước đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị.
1.5. Ăngghen luận giải về vấn đề nhà nước tiêu vong
Theo Ăngghen, nhà nước tiêu vong cũng là một tất yếu như sự xuất hiện
của nó trong điều kiện xã hội nhất định. Nhà nước không tồn tại, cũng như từ xa
xưa xã hội đã có thời kỳ không cần đến nhà nước, thậm chí không có một khái
niệm nào về nhà nước. Đến một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội, giai
đoạn đương nhiên phải gắn liền với sự phát triển của kinh tế và phân chia xă hội
thành giai cấp thh́ sự xuất hiện của nhà nước trở thành một tất yếu. Nhưng sẽ đến
thời kỳ sự tồn tại của những giai cấp nói trên không còn là một tất yếu nữa, hơn
nữa sự tồn tại của các giai cấp còn là trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Khi giai
cấp không còn thì nhà nước cũng không tránh khỏi tiêu vong.
Giai cấp vô sản giành lấy nhà nước và biến những tư liệu sản xuất thành sở
hữu của xã hội, từng bước tự xoá bỏ mình với tư cách một giai cấp, xoá bỏ sự
khác biệt giai cấp và mọi sự đối lập giai cấp, đồng thời xoá bỏ cả nhà nước. Khi
nhà nước đã trở thành đại diện của toàn thể xã hội, không còn giai cấp nào bị áp
bức nữa, không còn đấu tranh sinh tồn cá nhân nữa, vai trò của nhà nước sẽ mất
dần đi. Nhà nước sẽ đi đến chỗ tự tiêu vong cũng là một tất yếu khách quan khi
nó đã hoàn thành vai trò lịch sử của mình, khi chủ nghĩa cộng sản văn minh được
hoàn thành.
Trong tác phẩm này Ăngghen còn bàn về các hình thức nhà nước và cho
rằng hình thức cộng hoà dân chủ là hình thức nhà nước ngày càng trở nên tất
yếu đối với chúng ta, vì hình thức nhà nước đó không chính thức thừa nhận sự
chênh lệch về của cải nữa mà của cải chỉ có thể phát huy quyền lực của nó một
cách gián tiếp. Chừng nào giai cấp vô sản chưa trưởng thành đến mức có thể tự
giải phóng, thì phần lớn họ sẽ xem chế độ hiện tồn như một chế độ duy nhất có
thể có được về mặt chính trị. Nhưng khi giai cấp vô sản đã trưởng thành thì nó
9
9
tự tổ chức thành một đảng riêng biệt và cái ngày mà cái nhiệt kế đầu phiếu phổ
thông chỉ điểm sôi trong những người công nhân, thì họ cũng như các nhà tư
bản sẽ biết phải làm gì.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG ĂNGGHEN VÀO
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
2.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và công cuộc xây dựng
Nhà nước Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trên cơ sở thế giới khách quan và phương pháp luận biện chứng duy vật
của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng đắn bản chất của
chủ nghĩa tư bản, của chế độ thực dân, nhận thức đúng xu thế vận động phát
triển của dân tộc và thời đại, đánh giá một cách khoa học các di sản tư tưởng,
văn hoá của dân tộc và nhân loại. Người đã trở thành “anh hùng giải phóng dân
tộc và là một nhà văn hoá lớn. Một trong những đóng góp to lớn của Hồ Chí
Minh đó là lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân
và vì dân của Việt Nam. Tư tưởng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân của Hồ Chí Minh là sự kết tinh của các giá trị tư tưởng văn
hoá chính trị của phương Đông và phương Tây trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lênin. Đây là sự biểu hiện của một thành quả vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa Mác - Lênin, của hệ thống quan điểm Mác - Lênin về Nhà nước vào
điều kiện cụ thể của nước ta, là một bộ phận cấu thành cơ sở lý luận của việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Suốt cuộc đời cách mạng, Hồ Chí Minh luôn khẳng định vai trò kim chỉ
nam của chủ nghĩa Mác - Lênin đối với Đảng Cộng sản Việt Nam - lực lượng
lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng Nhà nước Việt Nam
10
10
mới. Năm 1925, Hồ Chí Minh đã nói: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa
nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là
chủ nghĩa Mác - Lênin”9
Hồ Chí Minh đã có những quan điểm sáng tạo lớn liên quan đến vấn đề
xây dựng Nhà nước, Người đã chỉ ra rằng ở Đông Dương cuộc đấu tranh không
diễn ra giống như là ở phương Tây. Từ nhận thức ấy, khi cùng với Đảng ta và
nhân dân ta bắt tay vào xây dựng sự nghiệp xây dựng chế độ mới, Nhà nước
mới. Quan điểm cơ bản mà Hồ Chí Minh xác lập là:“Không chủ trương đấu
trang giai cấp”10
Từ rất sớm Hồ Chí Minh đã luôn chủ trương xây dựng một Nhà nước
pháp quyền dân chủ, Người chủ trương xây dựng Nhà nước của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Nếu dân là chủ thì Nhà nước, cán bộ Nhà nước là
công bộc của dân. Hồ Chí Minh căn dặn các cán bộ Nhà nước phải luôn ghi
nhớ rằng các cơ quan của chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là
“công bộc của dân”.
Ngoài ra, Người cũng bàn đến dân chủ, trọng tâm tư tưởng Hồ Chí
Minh được đặt vào dân chủ. Người viết: “Dân chủ là cửa quý báu nhất của
nhân dân, chân chính là cái khoá, cái cửa là phòng kẻ phá hoại, nếu hòm
không có khoá, Nhà nước không có cửa thì sẽ mất cắp hết. Cho nên cửa phải
có khoá, có nhà phải có cửa. Thế thì dân chủ cũng cần phải có chuyên chính
để giữ gìn lấy dân chủ” 11
Và Người còn nói rõ thêm rằng: “Tính chất của một Nhà nước là: Trong
Nhà nước ấy giai cấp nào thống trị, giai cấp nào bị thống trị. Nhà nước ấy bảo
vệ lợi ích của giai cấp nào, đàn áp giai cấp nào” 12. Và “Nhà nước ta cũng là
Nhà nước của đại đa số nhân dân, để thống trị thiểu số phản động, để giữ vai
trò lợi ích của nhân dân, bằng cách dân chủ chuyên chính của nhân dân”13
9 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 2, trang 268
10 Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của
dân, do dân và vì dân: Lý luận và thực tiễn. Nxb CTQG, Hà Nội, 2008, Trang 169.
11 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 8, trang 280.
12 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 7, trang 217
13 Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 7, trang 216 - 217
11
11
Có thể nói rằng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vì nhân dân là bản chất của
dân chủ. Theo người: “Nhà nước ta phát huy dân chủ đến cao độ, đó là do tính
chất của Nhà nước ta là Nhà nước của nhân dân. Có phát huy dân chủ đến cao
độ thì mới động viên được mọi lực lượng của nhân dân đưa cách mạng tiến
lên. Đồng thời phải thống nhất đến cao độ để thống nhất lãnh đạo nhân dân
xây dựng chủ nghĩa xã hội” 14 và nhân dân sử dụng Nhà nước như là một công
cụ để thực hiện lợi ích của mình: “Đối với nhân dân, thì công cụ của Nhà
nước dân chủ mới (chính phủ, pháp luật, công an, quân đội) - để giữ gìn quyền
lợi của nhân dân”15
Khi bàn về Nhà nước, Người cũng đưa ra quan điểm về nhân dân quản lý
Nhà nước. Đây là một bước làm rõ thêm vấn đề trách nhiệm của nhân dân với
Nhà nước. Điều đáng lưu ý ở đây là, việc Nhà nước tiến hành các hoạt động
nhằm mục đích phục vụ lợi ích nhân dân, thì đồng thời đó chính là nhằm tạo
điều kiện để nhân dân có thể tham gia quản lý Nhà nước. Người viết: “Chỉ có
chế độ chúng ta mới thực sự phục vụ lợi ích của nhân dân, trước hết là nhân
dân lao động, bảo đảm mọi quyền lợi của nhân dân, mở rộng dân chủ để nhân
dân thực sự tham gia quản lý Nhà nước. Vì vậy nhân dân ta đưa hết khả năng
làm trọn nhiệm vụ của chủ nước nhà để xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho
nước ta mạnh, dân ta giàu”16
Ngoài ra theo Hồ Chí Minh để đất nước có thể phát triển được thì cần
phải có luật pháp. Người chỉ rõ: “Luật pháp là ý chí của một giai cấp thống trị,
dùng để trừng trị giai cấp chống lại mình. Luật pháp của chúng ta hiện nay là ý
chí của giai cấp công nhân lao động cách mạng” 17, và “Trong một nước thưởng
phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi,
kiến quốc mới thành công”18
14
15
16
17
18
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 9, trang 592
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 7, trang 220
Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 9, trang 593
Hồ Chí Minh: Nhà nước và Pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985, Trang 185
12
12
Như vậy, có thể nói rằng trên cơ sở vận dụng những quan điểm của
Ăngghen về Nhà nước vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đưa
ra một hệ thống những quan điểm về Nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Đây thực
sự là những chỉ dẫn quý báu đối với công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền
ở nước ta hiện nay.
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Nhà nước của Ăngghen
trong công tác Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Nhà nước pháp quyền là một phạm trù vừa mang tính phổ biến, vừa mang
tính đặc thù; vừa là giá trị chung của nhân loại, vừa là giá trị riêng của mỗi dân
tộc, quốc gia. Do vậy, không thể có một nhà nước pháp quyền như một mô hình
chung, thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc
vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây
dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.
2.2.1. Quá trình nhận thức của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc cũng như xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo việc củng
cố, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta hết sức coi trọng việc cải cách bộ máy nhà
nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với điều kiện mới.
Đặc biệt, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994), Đảng
ta đã khẳng định phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Phương hướng đó được cụ thể hóa một
bước tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tám, khóa VII đầu năm
1995. Tại Hội nghị này, 5 quan điểm cơ bản để tiến hành cải cách bộ máy nhà
nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền được xác định. Tiếp đến,
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta một lần nữa khẳng định 5
quan điểm cơ bản nêu trên.
13
13
2.2.2 Các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Trong quá trình xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước cách mạng
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cho đến nay Nhà
nước ta đã ban hành 5 bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ. Đó là Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, Hiến
pháp 2013 (sửa đổi và bổ sung) trong đó quy định về chế độ chính trị, chế độ
kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng; quy định về quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân; quy định về tổ chức bộ máy nhà nước phù hợp với thực tiễn
các giai đoạn phát triển của cách mạng nước ta.
Từ thực tiễn này, các nội dung đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân và vì dân ngày càng được định hình:
Một là: Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hai là: Xác định quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành
mạch và sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc
cải cách bộ máy nhà nước.
Ba là: Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các
quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bốn là: Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công
dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân
chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.
Năm là: Nhà nước tôn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Sáu là: Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, sự giám sát của nhân dân và sự phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
14
14
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn có những đặc trưng riêng
thể hiện rõ nét bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là:
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước mà ở đó
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp; không tam quyền phân lập; mọi cách thức tổ chức và hoạt động của Nhà
nước đều có mục đích chung là vì lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia, dân tộc và lấy
việc phục vụ nhân dân làm mục đích duy nhất và tối cao.
- Việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được thực hiện trong điều kiện một đảng cầm quyền duy nhất là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
2.2.3 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, việc tiếp tục xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cần tập trung vào một số
việc sau đây:
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều
kiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế
quốc tế, Nhà nước phải luôn luôn chú trọng kết hợp thực hiện tốt chức năng xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc, hoạch định chính sách, xây dựng pháp luật, tổ chức
thực hiện pháp luật và chính sách đó; phải luôn luôn gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ
phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải dựa
vào lực lượng nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; phải xuất phát từ
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân và dựa trên nguyên tắc tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức và phân
công quyền lực nhà nước thực sự khoa học, phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu
quả quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước thực
15
15
hiện ba quyền thống nhất có sự phân công rành mạch, trong đó, đề cao trách
nhiệm, tính chủ động và sự phối hợp hoạt động của các cơ quan trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; thực hiện sự phân cấp hợp lý
quyền lực nhà nước giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương;
xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, bảo đảm thực hiện có hiệu quả
chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng việc định hướng về
tổ chức bộ máy nhà nước, lựa chọn, giới thiệu cán bộ để giữ các vị trí chủ chốt
trong bộ máy nhà nước, lãnh đạo cơ quan nhà nước thể chế hóa chủ trương, nghị
quyết của Đảng thành pháp luật; tăng cường quản lý và kiểm tra tổ chức đảng,
cán bộ, đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước, vừa bảo đảm sự lãnh đạo
của Đảng, vừa phát huy được tính chủ động, năng động và tự chịu trách nhiệm
của những người đứng đầu của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Như
vậy, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa là một quá trình tương đối lâu dài với những bước đi vững chắc
gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh,
phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị.
Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền
bỉ của Nhà nước và nhân dân ta, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện
thực ở Việt Nam.
16
16
KẾT BÀI
Ăngghen đã trả lời một cách khoa học câu hỏi nhà nước là gì, nó xuất
hiện như thế nào và trên cơ sở nào, tại sao trong các thời kỳ lịch sử khác nhau,
nhà nước lại có các hình thức và vai trò khác nhau. Chỉ ở đâu có giai cấp, mâu
thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp thì mới có nhà nước. Nhà nước xuất hiện là
do những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà. Nhà nước là cơ quan thống trị
của một giai cấp này đối với một số giai cấp khác, nhà nước có bản chất giai cấp
của nó. Từ việc chỉ ra nguồn gốc xuất hiện nhà nước, bản chất giai cấp của nhà
nước và tính chất bóc lột, áp bức giai cấp của các kiểu nhà nước chủ nô, phong
kiến và tư sản, Ăngghen nêu lên quan điểm về một nhà nước kiểu mới - nhà
nước của giai cấp vô sản khác về chất so với các kiểu nhà nước áp bức, bóc lột
và bác bỏ những quan điểm phản khoa học về vấn đề nhà nước. Đối với sự ra
đời và phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì những tư tưởng của Ănghen đặc biệt là những tư tưởng về
Nhà nước có vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hình thành và phát triển của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước ta theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một quá trình
tương đối lâu dài với những bước đi vững chắc gắn liền với quá trình đổi mới
17
17
kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Chúng ta tin tưởng rằng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, với sự nỗ lực phấn đấu bền bỉ của Nhà nước và nhân dân ta,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
sẽ được tiếp tục xây dựng và trở thành hiện thực ở Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Từ điển triết học, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va., 1986,
2. C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập
3. C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, Tập
4. C. Mác và Ăngghen, Toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 1994, Tập
5. J.Sta-lin: Những cơ sở của chủ nghĩa Lênin, xuất bản lần thứ tư, Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1964
6. Nguyễn Duy Quý, Nguyễn Tất Viễn: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân: Lý luận và thực tiễn. Nxb
CTQG, Hà Nội, 2008
7. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 2
8. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 4
9. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 7
10. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 8
11. Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, Hà Nội, 2002, Tập 9
12. Lý Quang Sán: Giới thiệu “Nhà nước và cách mạng” của Lênin, Nxb Sự
thật, Hà Nội, năm 1965.
18
18
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG:
CHƯƠNG 1:TƯ TƯỞNG CỦA ĂNGGHEN VỀ NHÀ NƯỚC
1.1. Ăngghen đưa ra tư tưởng của mình về nhà nước.
1.2. Ăngghen luận giải về nguồn gốc và bản chất của nhà nước
1.3.Ăngghen luận giải về những đặc trưng cơ bản của nhà nước
1.4 Ăngghen luận giải về những chức năng của nhà nước
1.5. Ăngghen luận giải về vấn đề nhà nước tiêu vong
CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CỦA ĂNGGHEN VÀO
VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA VIỆT NAM.
2.1. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước và công cuộc xây dựng
Nhà nước Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng tư tưởng Nhà nước của Lênin
trong công tác Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước ở Việt Nam hiện
nay
19
19
KẾT LUẬN
20
20