Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tiểu luận cao học, quản lý hành chính nhà nước, cơ cấu tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân huyện thủy nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (92.62 KB, 24 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đánh giá về thực trạng cơ quan tư pháp, tại Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02-06-2005 Bộ Chính trị nêu rõ “Tổ chức bộ máy, chức năng nhiêm vụ,
cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của
một bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất
đạo đức và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều
tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của cơ
quan tư pháp còn thiếu thốn, lạc hậu”.
Xuất phát từ những yêu cầu cấp thiết nêu trên Nhà nước ta đã có những
phương hướng và những biện pháp cụ thể, nhằm khắc phục những mặt còn
hạn chế trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp.
Tư pháp là cơ quan giữ vai trò vô cùng quan trọng trong việc chuyển tải
quyền lực nhà nước, trực tiếp đưa luật vào đời sống nhân dân. Thông qua việc
áp dụng pháp luật để giải quyết các vụ việc cụ thể. Trong các cơ quan tư pháp
Tòa án nhân dân giữ vị trí trung tâm, tất cả các cơ quan khác như: Điều tra,
truy tố, bổ trợ tư pháp... Đều phục vụ cho hoạt động xét xử của tòa án. Tòa án
còn là nơi biểu hiện tập trung tính dân chủ và công khai trong hoạt động bảo
vệ pháp luật.
Bởi vậy, xuất phát từ tính thực tiễn của vấn đề và vai trò đặc biệt quan
trọng của Tòa án nhân dân nên tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu . Ở đây
tôi chỉ đi sâu nghiên cứu về cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
cấp huyện, mà cụ thể là “cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
huyện Thủy Nguyên”. Để qua đó thấy được những mặt phù hợp trong chiến
lược đổi mới về hệ thống cơ quan tư pháp mà Nhà nước đề ra trong: Nghị
quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến
2020, đồng thời nhận thấy những mặt chưa phù hợp của Tòa án nhân dân cấp


địa phương nói chung và Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên nói riêng. Qua


đó, đưa ra những phương hướng giải quyết nhằm khắc phục những yêu cầu
nêu trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Trong thời gian gần đây, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động cuả
các cơ quan tư pháp không chỉ có Nhà nước quan tâm; mà còn được nhiều
người chú ý. Trong đó có những bài viết tiêu biểu là bài “Nghiên cứu lập pháp
số 6(143) tháng 3/2009, Vũ Hà Thanh, Vụ Pháp luật và Cải Cách tư pháp,
Văn phòng Trung ương Đảng” và bài “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa
án nhân dân, Phạm Quý Tị ngày 15-10-2005”. Đặc biệt, Nhà nước ta với
“Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” ,có vai trò quan trọng trong việc kiện toàn cơ chế tổ chức và
hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nhân dân các cấp nói
riêng. Đề tài mà tôi nghiên cứu “ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án
nhân dân huyện Thủy Nguyên” là đề tài mới chưa có những bài viết đi sâu về
đề tài này.
Tuy vậy, tôi vẫn muốn tìm hiểu và đi sâu vào nghiên cứu đề tài này.
Nhằm tạo thêm hiểu biết cho bản thân và đóng góp một phần công sức nghiên
cứu nhỏ bé của mình vào công cuộc đổi mới của đất nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là: cơ cấu tổ chức và hoạt động của
Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài được giới hạn trong nhiệm kì của Tòa án nhân dân huyện Thủy
Nguyên ( 2008-2012). Đặc biệt, khi có Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2002 quy định một cách đầy đủ rõ nét cơ cấu tổ chức, hoạt động và vai trò của
Tòa án nhân dân cấp địa phương. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu
đề tài được đi đúng hướng và có trọng tâm.



Đồng thời việc giới hạn đề tài như trên, sẽ giúp tôi có điều kiện đi sâu
vào nghiên cứu đề tài nhằm rút ra những nhận xét, đánh giá sát đáng về những
đổi mới trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Đây chính là
mục đích cuối cùng mà đề tài cần đạt đến.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Khi nghiên cứu về đề tài này phương pháp mà tôi lựa chọn gồm:
Phương pháp luận: Chủ nghĩa Mác-Lênin và những quan điểm của
Đảng và Nhà nước trong quá trình đổi mới.
Phương pháp cụ thể: phương pháp lôgic, phương pháp so sánh, phương
pháp xác minh, phương pháp tổng hợp, phương pháp phân tích, phương pháp
đánh giá.
Dựa vào các nguồn tư liệu đã thu thập được, đặc biệt là tài liệu có liên
quan đến phạm vi của đề tài và việc áp dụng bài bản những phương pháp
nghiên cứu nêu trên, nên công việc mà tôi thực hiện đề tài này, không phải là
việc lắp ghép một cách máy móc, sao chép các nguồn tư liệu sẵn có mà là sự
suy ngẫm, khái quát hoá, phát hiện và tìm hiểu thêm những nét riêng, đặc
biệt, biến nó thành sản phẩm của riêng mình. Những nguồn tài liệu cùng
những phương pháp nghiên cứu nêu trên đó chính là cơ sở để tôi nghiên cứu
đề tài này.
5. Bố cục đề tài.
Đề tài được chia gồm 4 phần:
Phần 1: Mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân


Chương 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
huyện Thủy Nguyên
Phần 3: Kết luận
Phần 4: Tài liệu tham khảo

B. NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
1.Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vị trí, vai trò của Tòa án
nhân dân
1.1 Chức năng và nhiệm vụ của Tòa án nhân dân.
Chức năng của Tòa án nhân dân được quy định tại điều 127 Hiến pháp
năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001: “Tòa án nhân dân tối cao, các
Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự và các Tòa án khác do luật
quy định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam...’’. Nhiệm vụ của Tòa án nhân dân được quy định tại (điều 1/ Luật tổ
chức Tòa án nhân dân năm 2002). Vậy Tòa án nhân dân có những nhiệm vụ
và chức năng cơ bản sau:
Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự bao gồm: những tranh chấp
về dân sự; những tranh chấp về hôn nhân gia đình; những tranh chấp về kinh
doanh, thương mại, những tranh chấp về lao động, giải quyết yêu cầu tuyên
bố phá sản doanh nghiệp, xem xét và kết luận cuộc đình công hợp pháp hay
không hợp pháp và những vụ án về hành chính.
Ngoài ra, Tòa án còn giải quyết những việc khác theo quy định của
pháp luật: quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình
giải quyết tranh chấp thương mại, ra quyết định thi hành án hình sự, hoãn
hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, ra quyết định miễn chấp hành hình
phạt hoặc giảm mức hình phạt đã tuyên, ra quyết định xóa án tích...


Mỗi cơ quan Nhà nước có chức năng, nhiệm vụ nhất định. Đối với Tòa
án có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập
thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Đặc biệt bằng hoạt động của mình Tòa án còn góp phần giáo dục công dân
trung thành với Tổ quốc, chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những

nguyên tắc của cuộc sống xã hội, ý thức đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm và các vi phạm pháp luật khác.
Trong giai đoạn hiện nay nhằm tạo điều kiện cho hoạt động xét xử của
Tòa án nhân dân có hiệu quả, Nhà nước ta cần phải hoàn thiện các văn bản
pháp luật, có liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân.
1.2 Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong việc đổi mới tổ chức và
hoạt động của bộ máy nhà nước.
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân là yêu cầu bức thiết
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án. Có thể nói, trong nhiều giai
đoạn lịch sử của Nhà nước ta Toà án nhân dân đã trải qua những cuộc cải cách
và đổi mới về tổ chức cũng như phương thức hoạt động để đáp ứng nhiệm vụ
ngày càng nặng nề của nền tư pháp, nhất là trong giai đoạn xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức
và hoạt động của Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới thể hiện ngay từ các
văn kiện ban hành sau Đại hội VII. Quan điểm này được thể hiện ở nhiều văn
kiện, trong đó có các văn kiện tiêu biểu như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 và
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Chỉ
thị số 29-CT/TW ngày 8-11-1993 của Ban Bí thư về “Tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật”, Chỉ thị số 34 - TC/TW ngày
18-3-1994 của Ban Bí thư về “Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn,
bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp”,


Chỉ thị số 53 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về “Một số công việc
cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000”.
Kết quả phát triển và lớn mạnh của Toà án nhân dân ngày nay, thể hiện
đậm nét sự vận dụng đường lối lãnh đạo của Đảng đối với tổ chức và hoạt
động của Toà án nhân dân. Nghiên cứu những chủ trương, quan điểm của
Đảng về đổi mới tổ chức, hoạt động của Toà án nhân dân trong các văn kiện
nêu trên, có thể nhận thấy, đường lối lãnh đạo của Đảng đối với Toà án nhân

dân trong thời kỳ đổi mới là hoàn toàn nhất quán, có sự kế thừa và phát triển
từng bước. Đảng luôn quan tâm chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ Toà án
nhân dân. Đó là cho ý kiến về tổ chức của Toà án nhân dân, giới thiệu những
cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất chính trị vững
vàng cho ngành Toà án, phát hiện và xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những
cán bộ, Đảng viên có sai phạm công tác trong ngành Toà án. Đồng thời, Đảng
lãnh đạo thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật. Thông qua
việc thường xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình hình công tác của Toà án nhân
dân, Đảng có cơ sở để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với hoạt động
xét xử của Toà án. Đảng luôn xác định cải cách Toà án nhân dân là thể hiện
tập trung của cải cách tư pháp. Trong đó, Đảng nhấn mạnh việc sắp xếp lại hệ
thống Toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp
huyện.
Việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân không chỉ tác
động đến ngành Toà án mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp khác, như cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; liên quan đến việc
sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hiện hành và có thể phải sửa đổi cả
Hiến pháp, vì vậy cần phải có bước đi thích hợp nhằm đảm bảo sự thống nhất
trong hoạt động của cả hệ thống các cơ quan nhà nước. Điều rất đáng lưu ý, là
để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc cải cách tư pháp, ngày 0201-2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”. Nghị quyết số 08 - NQ/TW


đã đề cập một cách toàn diện vấn đề cải cách tư pháp, trong đó đưa ra cả
những quan điểm chung và chủ trương, giải pháp cụ thể đối với từng cơ quan
tư pháp. Đối với Toà án, Nghị quyết 08-NQ/TW nhấn mạnh: Cần phân định
thẩm quyền của các Toà án các cấp theo hướng Toà án nhân dân tối cao làm
nhiệm vụ tổng kết xét xử, hướng dẫn áp dụng pháp luật và giám đốc xem xét
các quyết định, bản án đã có hiệu lực pháp luật. Toà án nhân dân cấp tỉnh,
thành phố chủ yếu thực hiện công tác xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân cấp

huyện, quận, thị xã xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, dân sự, kinh tế, lao
động.
Đối với nước ta, bộ máy Nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung quyền lực có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà
nước, trong việc thực hiên ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trong vấn
đề đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước chính là đổi mới trong
cơ cấu và hoạt động của ba cơ quan ấy. Vì vậy, ta thấy vai trò của cơ quan tư
pháp là vô cùng quan trọng. Thực hiện quyền tư pháp mà cụ thể là quyền xét
xử một trong những chức năng chủ yếu được giao cho Tòa án nhân dân. Do
vậy trong quá trình đổi mới bộ máy Nhà nước thì Tòa án luôn giữ vai trò đặc
biệt quan trọng. Nếu “lực” được thể hiện đầy đủ đúng đắn qua hoạt động lập
pháp, nhưng hệ thống truyền “lực” qua hoạt động tư pháp không tốt thì bộ
máy Nhà nước sẽ kém hiệu lực, kém hiệu quả.
Sau khi Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được triển khai trên
thực tế được gần 4 năm, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số
49-NQ/TW “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”. Nghị quyết đề ra
phương hướng: “Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư pháp
hợp lý, khoa học, hiện đại về cơ cầu tổ chức và điều kiện, phương tiện làm
việc, trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động trọng
tâm, xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp”. Nghị quyết xác định
nhiệm vụ của Tòa án các cấp như sau: “Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm
quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm


khu vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện, Toà án
phúc thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số
vụ án, Toà thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc
thẩm, Toà án nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử,
hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc
thẩm, tái thẩm”. Tuy nhiên, Nghị quyết cũng nhấn mạnh: “Việc thành lập Toà

án chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu
vực. Đổi mới tổ chức Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn, với đội
ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm
trong ngành”.
Trong các cơ quan tư pháp, Tòa án giữ vị trí trung tâm. Tất cả các cơ
quan tư pháp khác như: điều tra, truy tố, bổ trợ tư pháp... đều phục vụ cho
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Khẳng định ấy đúng theo tinh thần của
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020” đã khẳng định “Tổ chức các cơ quan tư pháp
và các chế đình bổ trợ tư pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức
và điều kiện, phương tiện làm việc, trong đó xác định Tòa án có vị trí trung
tâm và xét xử là hoạt động trọng tâm”, trong hệ thống Toà án nhân dân các
cấp đã thành lập thêm một Toà chuyên trách để kịp thời giải quyết các loại
tranh chấp mới phát sinh, đã bỏ thẩm quyền xét xử sơ thẩm và chung thẩm,
chú ý đến chất lượng tranh tụng tại phiên toà. Đặc biệt Tòa án nhân dân có vai
trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo
môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Không chỉ vậy Tòa án nhân dân còn là chỗ dựa của nhân dân trong việc
bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp
luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loai tội
phạm.


Những quan điểm và phương hướng nêu trên về cải cách tổ chức và
hoạt động của Toà án có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt
động cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay. Với vị trí và vai trò
quan trọng nêu trên thì Tòa án có ảnh hưởng rất lớn trong việc đổi mới tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, nó có đóng góp tích cực trong quá

trình đổi mới và xây dựng đất nước
2. Tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
2.1 Tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trong cơ cấu tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp, bên cạnh
Tòa án nhân dân tối cao còn có Tòa án nhân dân cấp địa phương. Trong đó
Tòa án nhân dân huyện thuộc chế định của Tòa án nhân dân cấp địa phương;
theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, tại điều 32 quy định về cơ cấu
tổ chức của Tòa án nhân dân cấp huyện như sau:
“ 1. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có
Chánh án, một hoặc hai Phó Chánh án, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư kí
Tòa án.
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có bộ máy
giúp việc.
2. Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có thẩm
quyền sơ thẩm những vụ án theo quy định của pháp luật tố tụng” .
Vậy theo tinh thần trên ta thấy tổ chức Tòa án nhân dân cấp huyện bao
gồm: chánh án một hoặc hai phó chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, thư
kí, và có bổ sung thành phần giúp việc.
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm
2001 và Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (tại khoản 4, điều 40) thì
chánh án, phó chánh án các Tòa án nhân dân địa phương do chánh án Tòa án


nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với
thường trực hội đồng nhân dân địa phương.
Về chế độ Thẩm phán, là lực lượng chủ yếu của Tòa án nhân dân địa
phương nói riêng và Tòa án các cấp nói chung. Vì vậy, thẩm phán phải hội tụ
được nhiều tiêu chuẩn cần thiết quy định tại (khoản 1/ điều 5, điều 20, Pháp
lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002), thẩm phán phải trung
thành với Tổ quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

trung thành với lý tưởng xã hội chủ nghĩa. Vì công tác xét xử của Tòa án cũng
là một công tác chính trị, phục vụ nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước,
bảo vệ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đăc biệt, Nhà
nước ta đang tiến hàng cải cách ngành tư pháp theo hướng thâm phán độc lập
trong xét xử và chỉ tuân theo luật. Nếu thẩm phán xét xử sai, thì chiu trách
nhiệm trước pháp luật đó là hướng đi đúng đắn và tích cực. Đồng thời thẩm
phán phải thông qua Hội đồng tuyển chọn thẩm phán do Chủ tịch hoặc Phó
Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh làm chủ tịch hội đồng. Hội đồng này có
trách nhiệm tuyển chọn cả Thẩm phán cấp tỉnh và Thẩm phán cấp huyện
trong phạm vi tỉnh mình trước khi trình Chánh án toà án tối cao ký quyết định
bổ nhiệm. Nhiệm kỳ của Thẩm phán được quy định là năm năm, sau năm
năm, Thẩm phán được xem xét để tái bổ nhiệm.
Theo quy định tại Điều 41, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002 thì
Hội thẩm nhân dân được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra theo nhiệm kỳ
của Hội đồng nhân dân, và phải đáp ứng các điều kiện quy định (tại khoản
2/điều 5, điều 37, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002).
Hội thẩm nhân dân huyện làm nhiệm vụ, theo sự phân công của Chánh án Tòa
án nhân dân huyện đó.
Thư kí có số đông trong tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các
cấp nói chung và Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng, thư kí được bổ nhiệm
theo quy định của pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về trình độ


chuyên môn nghiệp vụ tốt, bằng cấp là Cử nhân Luật, phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp cao...
2.2 Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện
Trong vấn đề hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện do Chánh án
lãnh đạo và chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Hội đồng nhân dân
được quy định tại Điều 135 Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2001) “... Chánh án Tòa án nhân dân địa phương chịu trách nhiệm và báo

cáo công tác trước hội đồng nhân dân”, thể hiện nguyên tắc hoạt động của Toà
án phải chịu sự giám sát của nhân dân, thông qua cơ quan đại diện cho họ là
Hội đồng nhân dân các cấp. Hiện nay, Toà án được tổ chức theo các đơn vị
hành chính, tương ứng với các cấp chính quyền từ cấp huyện trở lên đều có
một Toà án nhân dân. Các Toà án nhân dân ở mỗi cấp chịu trách nhiệm và báo
cáo công tác trước Hội đồng nhân dân cấp đó. Chánh án Tòa án nhân dân
huyện, có nhiệm vụ và quyền hạn tổ chức công tác xét xử và các công tác
khác theo quy định của pháp luật, và có trách nhiệm báo cáo công tác với Tòa
án nhân dân cấp trên trực tiếp lãnh đạo và báo cáo với hội đồng nhân cùng
cấp.
Hoạt động của Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền sơ thẩm
những vụ án hình sự mà Bộ luật hình sự quy định khung hình phạt từ 15 năm
tù trở xuống, trừ những tội sau:các tội đặc biệt nguy hiểm xâm phạm đến an
ninh chủ quyền quốc gia, các tội quy định trong Bộ luật hình sự tại các điều:
89, 90, 91, 92, 93, 101(khoản 3), 102, 179, 231, 232. Tòa án nhân dân huyện
còn có thẩm quyền và hoạt động xét xử sơ thẩm những vụ án dân sự, vụ án
hôn nhân và gia đình, vụ án kinh tế, vụ án lao động, vụ án hành chính theo
quy định của pháp luật. Trừ một số việc phức tạp hoặc có liên quan đến yếu tố
nước ngoài, các tranh chấp về sở hữu công nghiệp ...những vấn đề nêu trên
chính là hoạt động chủ yếu của Toà án nhân dân huyện.


Chương 2: Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân
huyện Thủy Nguyên
1. Khái quát về vị trí địa lý và điều kiện kinh tế xã hội huyện Thủy
Nguyên
Thuỷ Nguyên là một huyện thuộc thành phố Hải Phòng, nằm bên dòng
sông Bạch Đằng lịch sử. Phía Bắc, Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh, phía Tây
Nam giáp huyện An Dương và nội thành Hải Phòng; phía Đông Nam là cửa
biển Nam Triệu. Địa hình Thuỷ Nguyên khá đa dạng, dốc từ phía Tây Bắc

xuống Đông Nam, vừa có núi đất, núi đá vôi, vừa có đồng bằng và hệ thống
sông hồ dày đặc. Đây chính là những điều kiện tự nhiên thuận lợi để huyện
Thuỷ Nguyên phát triển một nền kinh tế đa dạng về ngành nghề, bao gồm: cả
nông nghiệp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thuỷ sản và du lịch.
Vị trí địa lý: Nằm ở cửa ngõ phía Bắc thành phố Hải Phòng Diện tích
tự nhiên là: 242 km2, Dân số: 29 vạn người. Đơn vị hành chính gồm: 2 thị
trấn: Thị trấn Núi Đèo, Thị trấn Minh Đức và 34 xã, trong đó có 6 xã miền
núi.
Nhờ có những điều kiện tự nhiên thuận lợi, cùng những chính sách phát
triển kinh tế của Nhà nước theo xu hướng mở, nên trong những năm gần đây
huyện Thủy Nguyên đã đạt được những thành tựu to lớn, đặc biệt là trong lĩnh
vực kinh tế như: Nhiều công trình công nghiệp, dân dụng mọc lên san sát,
ngành công nghiệp đóng tàu phát triển mạnh, đường sá được nâng cấp, mở
rộng, đời sống nhân dân ngày một cải thiện, mở ra một hướng phát triển mới,
một diện mạo mới với vị thế của một trong những trung tâm đô thị hành chính
của thành phố Cảng trong tương lai không xa, theo quy hoạch điều chỉnh của
thành phố Hải Phòng đến năm 2020, Tận dụng tối đa các thế mạnh của một
vùng đất giàu tiềm năng kinh tế, đa dạng về ngành nghề, Thuỷ Nguyên đã
nắm bắt thời cơ, khai thác tối đa những tiềm năng sẵn có. Trên cơ sở đó,
nhanh chóng xác định các ngành kinh tế mũi nhọn để đầu tư phát triển, tích
cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại


hoá nông thôn. Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá bước đầu đã thu được những kết quả tốt đẹp.
Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế; nông nghiệp cũng có những bước tiến
nhất định. Đặc biệt là trong giai đoạn 2008 việc chuyển một phần diện tích đất
nông nghiệp để sang nuôi trồng thuỷ sản, thay đổi cơ cấu trà lúa theo hướng
tăng diện tích cấy lúa xuân muộn, mùa trung từ 28% lên 33%, đạt năng suất
lúa 45,5 tạ/ha/vụ, đảm bảo diện tích trên 2.000 ha rau màu, trong đó diện tích

rau đạt 1.320 ha với sản lượng 22.586 tấn. Công tác chuyển dịch cơ cấu nông
nghiệp bước đầu có những kết quả đáng ghi nhận. Năm 2009, huyện chú
trọng quy hoạch, xây dựng vùng cấy trồng lúa cao sản, xây dựng trang trại
chăn nuôi gắn với chế biến, chuyển đổi cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá dịch vụ
phù hợp với quỹ đất sau khi các dự án triển khai trên địa bàn, tổ chức đào tạo
và chuyển đổi nghề cho lao động các vùng có dự án lấy đất nông nghiệp
Ngoài ra, chăn nuôi gia súc, gia cầm được chú trọng, đàn lợn, gia cầm
tăng theo hướng sản xuất hàng hoá, phát triển mạnh về số lượng và quy mô.
Trong đó huyện đã tiến hành quy hoạch các vùng nuôi trồng thuỷ sản, lập các
dự án nuôi tập trung theo phương pháp bán thâm canh và công nghiệp, đã gặt
hái được kết quả cao.
Những năm gần đây, Thuỷ Nguyên nhộn nhịp như đại công trường xây
dựng với 3 khu công nghiệp Minh Đức- Bến Rừng, Nam Cầu Kiền; Lưu
Kiếm- Gia Minh và hàng trăm dự án ngoài các khu công nghiệp này. Hiện
trên địa bàn Thuỷ Nguyên có 39 dự án đã và đang triển khai, trong đó có 30
dự án mới với tổng diện tích đất thu hồi 964,6 ha, khoản tiền bồi thường cho
hơn 10 nghìn hộ dân lên tới 1323 tỷ đồng. 32 dự án có quyết định thu hồi đất
của UBND thành phố với 599 ha, 7611 hộ dân liên quan phải di dời, trong đó
có 317 hộ cần tái định cư và bố trí giãn dân.
Góp phần cùng thành phố cải thiện môi trường đầu tư, tạo thuận lợi cho
doanh nghiệp triển khai dự án. Các dự án mang lại hiệu quả thiết thực, đóng
góp lớn cho ngân sách và thúc đẩy tăng trưởng GDP trên địa bàn, tạo việc làm


cho số lượng lớn lao động, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế Thuỷ Nguyên
theo hướng công nghiệp-xây dựng chiếm chủ yếu (42,1%), dịch vụ 28,9%,
nông nghiệp- thuỷ sản 29%.
Năm 2008, tổng giá trị sản xuất các ngành của Thuỷ Nguyên đạt hơn
2100 tỷ đồng tăng 16,9% so với năm 2007, tốc độ tăng trưởng ngành nông
nghiệp thuỷ sản, công nghiệp xây dựng, dịch vụ đạt khá. GDP đạt 980 tỷ

đồng, tăng 16,6% so với năm 2007.
Bên cạnh đó, phát huy lợi thế của vùng ven đô giáp hải cảng, Thuỷ
Nguyên có điều kiện phát triển du lịch, thương mại và dịch vụ với nhiều thắng
cảnh đẹp như: hồ Sông Giá, hang Lương, hang Vua, khu vực núi Tràng
Kênh... và nhiều công trình kiến trúc độc đáo, đền thờ, miếu mạo đã được
Nhà nước công nhận và xếp hạng cùng với những lễ hội truyền thống độc
đáo, đậm đà bản sắc dân tộc.
Xuất phát từ những thành tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế, thì đời
sống nhân dân ngày được nâng cao về: văn hóa - xã hội, giáo dục, y tế, thể
dục - thể thao... Đã được chính quyền địa phương huyện Thủy Nguyên chú ý
quan tâm, từ đó tạo nên đời sống tinh thần ngày càng phong phú phục vụ tích
cực vào công cuộc đổi mới đất nước. Đặc biệt kinh tế phát triển đã góp phần
không nhỏ vào việc củng cố và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của cơ quan
quản lý huyện Thủy Nguyên.
2. Thực trạng tổ chức và hoạt động cuả Tòa án nhân dân huyện Thủy
Nguyên
2.1 Thực trạng về tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
Tổ chức Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tuân thủ theo luật định
(tại khoản 1, điều 32, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002), thành phần
cán bộ của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên bao gồm: Chánh án, phó
chánh án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân, Thư kí và bộ phận giúp việc. Tính
đến thời điểm hiện tại thì đội ngũ cán bộ của Tòa án nhân dân huyện Thủy


Nguyên gồm có cán bộ công chức biên chế chính quy, một nhân viên văn
phòng. Để tìm hiểu cụ thể về tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy
Nguyên, tôi xin giới thiệu về những cán bộ đương nhiệm trong ban lãnh đạo
như sau:
Giữ vai trò lãnh đạo, đứng đầu Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên là
Chánh án bà Lê Thị Cúc (kiêm thẩm phán), bà nhận nhiêm kì mới từ năm

(2008-2012). Trước khi được bổ nhiệm làm Chánh án, bà đã từng là phó
chánh án Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên hai nhiệm kì (2000-2004) và
(2004-2008). Với trình độ nghề nghiệp cao, thời gian công tác lâu năm trong
ngành đã đạt nhiều thành tích và có đóng góp tích cực cho quá trình hoạt
động, phát triển của Tòa án nhân dân huyện Thủy nguyên… Bà đáp ứng đầy
đủ các điều kiện luật định tại (khoản 1/ điều 5, điều 20, Pháp lệnh Thẩm phản
và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002), để đảm nhiệm chức vụ Chánh án Tòa án
nhân dân huyện và trong nhiệm kì (2008-2012) bà được chánh án Tòa án nhân
dân tối cao bổ nhiêm làm chánh án Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
(khoản 4, điều 40, Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002) . Với vị trí đứng
đầu của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên bà Lê Thị Cúc có nhiệm vụ đặc
biệt quan trọng, là người tổ chức công tác xét xử các vụ án trong địa bàn
huyện, báo cáo công tác của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên cho hội
đồng nhân dân cùng cấp và Chánh án Tòa án nhân dân trực tiếp lãnh đạonhân
dân tỉnh, gồm những công việc khác theo quy định của pháp luật.
Nhiệm kì (2004-2008) Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có hai phó
chánh án, nhưng đến thời điểm hiện, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên có
một phó chánh án là ông Trịnh Khắc Thịnh, ông đã từng giữ chức vụ thẩm
phán Toà án nhân dân huyện Thủy Nguyên hai nhiệm kì (2000-2004) và
(2004-2008), với việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện của một phó chánh án
Toà án nhân dân huyện nên đến nhiệm kì (2008-2012) ông đã được Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm làm phó chánh án Tòa án nhân dân huyện
Thủy Nguyên (kiêm thẩm phán).


Tiếp đến là cơ cấu thẩm phán, Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
gồm có bảy thẩm phán: bà Lê Thị Cúc (kiêm chánh án), ông Trịnh Khắc
Thịnh (kiêm phó chánh án); bà Nguyễn Thị Nhã, bà Nguyễn Thị Thủy, ông Lê
Anh Sơn, ông Vũ Đình Thi, ông Nguyễn Phong Thu. Tất cả đều đáp ứng đầy
đủ các điều kiện quy định tại điều 37,38, 39 của Luật tổ chức Tòa án nhân dân

năm 2002, và những quy định mới trong việc tuyển chọn thẩm phán đã góp
phần lựa chọn đúng đắn hơn những người đủ năng lực để đảm nhiệm công
việc được giao.
Hội thẩm nhân dân, là bộ phận không thể thiếu trong cơ cấu tổ chức
của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên nói riêng, và Tòa án nhân dân các
cấp nói chung, cho đến thời điểm hiện tại thì Hội thẩm nhân dân của huyện
Thủy Nguyên là hai mươi cán bộ, với tiêu chuẩn đáp ứng đầy đủ theo quy
định (tại khoản 2, điều 5, Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân
2002). Và hoạt động theo sự chỉ đạo của Chánh án là bà Lê Thị Cúc.
Thư kí của Tòa án nhân dân (TAND) huyện Thủy Nguyên gồm 11 thư
kí, có trình độ cao đáp ứng tốt nhu cầu công việc: tốt nghiêp Cử nhân Luật, có
phẩm chất đạo đức tốt… trong đó có một nhân viên phụ trách công việc văn
phòng: đánh máy, văn thư…
Năng lực đội ngũ cán bộ của TAND huyện Thủy Nguyên đúng tiêu
chuẩn luật định, hầu hết đã tốt nghiệp và có bằng Cử nhân Luật hệ chính quy.
Chỉ một vài cán bộ tốt nghiệp hệ tại chức về ngành Luật, nhưng đã được cơ
quan tạo điều kiện học thêm nghiệp về nghiệp vụ. Với phẩm chất đạo đức tốt:
100% cán bộ là đối tượng Đảng, luôn ý thức cao trách nhiệm nghề nghiệp .
Nhờ có chính sách đổi mới về tổ chức và hoạt động của Tòa án, trong
Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020”, nên trong những năm gần đây, cơ sở hạ tầng của TAND
huyện Thủy Nguyên được nâng cao, với hệ thống nhà cao tầng khang trang,
trong đó mỗi cán bộ đã có một máy tính, một máy in riêng, có mạng internet
và phần mềm thống kê nội bộ ngành, thuận lợi trong việc tổng kết hoạt động,


báo cáo công tác, và tìm tài liệu phục vụ công tác... Cùng đó là những tiêu
chuẩn mới trong việc tuyển cán bộ, đã thực sự nâng cao chất lượng trong bộ
máy TAND huyện Thủy Nguyên, bởi vậy trong quá trình hoạt động đã thu
được kết quả cao, có thể nói là bước đầu đánh dấu sự thành công trong chiến

lược cải cách TAND huyên Thủy Nguyên mà Đảng và Nhà nước đề ra.
Cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên, tuân thủ theo
những nguyên tắc luật định, đảm bảo cho việc hoạt động có hiệu quả cao, đi
theo đúng hướng của Nhà nước trong việc đổi mới hoạt động của Tòa án nhân
dân cấp huyện và công cuộc cải cách nền tư pháp.
2.2: Thực trạng về hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên
Tòa án nhân dân huyện có hoạt động chủ yếu là xét xử và Tòa án nhân
dân huyện Thủy nguyên cũng không ngoại lệ. Trong đó bao gồm các vụ án:
hình sự (với khung hình phạt dưới 15 năm tù), sơ thẩm các vụ án dân sự, án
kinh tế, án lao động, án hành chính…theo quy định của pháp luật.
Trong năm 2008, lượng án mà TAND huyện Thủy Nguyên giải quyết là
tương đối nhiều. Trong đó, những vụ án phải giải quyết nhiều nhất là án hình
sự với 289 vụ và 525 bị cáo, có những vụ án nghiêm trọng như: vụ “mua bán
trái phép chất ma túy” của bị cáo Vũ Ngọc Điện, xã Kênh Giang, trong vụ này
TAND huyện Thủy Nguyên đã thống nhất xử lưu động, tại Ủy ban nhân dân
xã Kênh Giang là 10 năm tù nhằm mục đích, tuyên chuyền, giáo dục ý thức
chấp hành pháp luật của người dân.
Đặc biệt trong đầu năm 2009 (09-1-2009) TAND huyện Thủy Nguyên
đã xét xử “vụ 3 vụ tàng chữ, buôn bán pháo nổ”. Vụ thứ nhất với bị cáo
Nguyễn Thị Đông, sinh 1957, ở thôn Phù Lưu, xã Phù Ninh, huyện Thuỷ
Nguyên về tội buôn bán hàng cấm và Hội đồng xét xử đã tuyên phạt Nguyễn
Thị Đông 36 tháng tù giam về tội buôn bán hàng cấm và nộp phạt 3.000.000
đồng.


Tiếp đó, ngày 12-1, TAND huyện Thuỷ Nguyên tiến hành xét xử lưu
động tại xã An Lư, huyện Thuỷ Nguyên 2 vụ án về pháo khác. Vụ thứ nhất
xét xử bị cáo Phạm Hồng Quân, sinh 1979, ở xã Yên Bình, huyện Ý Yên, tỉnh
Nam Định tội buôn bán hàng cấm. 22h30' ngày 14-12-2008, tại quốc lộ 10
qua xã Thuỷ Sơn, huyện Thuỷ Nguyên. Tại phiên toà, xét thấy hoàn cảnh khó

khăn của gia đình cũng như thái độ thành khẩn khai báo của Quân nên Hội
đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Phạm Hồng Quân 18 tháng tù giam về tội
buôn bán hàng cấm.
Vụ án tiếp theo xử Lê Thị Chính, sinh 1975, ở thôn Cây Đa, xã An Lư,
huyện Thuỷ Nguyên về tội tàng trữ hàng cấm, Tại phiên toà, Lê Thị Chính đã
nhận thức được hành vi tàng trữ pháo nổ của mình là sai trái và thành khẩn
khai báo toàn bộ sự việc. Tòa đã tuyên bị cáo án phạt 18 tháng tù giam và nộp
phạt 3.000.000 đồng.
Qua số liệu tổng kết và một số vụ án nêu trên, cho thấy hoạt động của
TAND huyện Thủy Nguyên là hiệu quả, trong việc áp dụng hình thức xử lưu
động, đã trực tiếp đưa luật đến với đời sống nhân dân, mang tính chất giáo
dục, tuyên truyền pháp luật để nhân dân hiểu luật và tuân thủ luật. Không chỉ
trong án hình sự mà các vụ án dân sự cũng xảy ra tương đối nhiều (năm 2008
có 79 vụ). Chủ yếu là liên quan đến : thừa kế, đất đai… có nhiều vụ rắc rối
gây khó khăn trong công tác xét xử, tuy nhiên hầu hết đã được giải quyết
song, chỉ còn một số vụ đang trong thời gian giải quyết.
Trong các vụ án về hôn nhân gia đình chủ yếu là giải quyết vấn đề: ly
hôn, chia tài sản khi ly hôn… (trong năm 2008 có 215 vụ án) về lĩnh vực này,
nhìn chung các vụ án trong lĩnh vực này tương đối nhỏ, không phức tạp nên
quá trình giải quyết nhanh và hiệu quả, đảm bảo tính khách quan, công bằng
của pháp luật.
Về các vụ án lao động, thì tương đối ít và nhỏ nên quá trình giải quyết
nhanh (năm 2008 có 12 vụ về lĩnh vực này). Còn những vụ về kinh doanh,
thương mại có số lượng rất ít, gồm 4 vụ nhưng đều là những vụ nhỏ, không


ảnh hưởng đến Nhà nước bởi vậy được Tòa giải quyết nhanh và hiệu quả.
Những vụ án về hành chính thì hầu như không có.
Qua việc tìm hiểu hoạt động của TAND huyện Thủy Nguyên, ta thấy
được diễn biến phức tạp của các tội về hình sự, với số lượng án nhiều, bao

gồm cả những vụ án nguy hiểm, có ảnh hưởng lớn, đặc biệt gây ảnh hưởng
xấu đến đời sống nhân dân. Không chỉ trong các vụ án hình sự, mà các vụ án
dân sự cũng xuất hiện với số lượng nhiều, phức tạp, nhưng nhờ có sự đổi mới
về cơ cấu cũng như hoạt động, TAND huyện Thủy Nguyên đã từng bước giải
quyết các vụ án đúng người, đúng tội. Đặc biêt, việc nhà nước tăng thẩm
quyền cho TAND huyện, cùng đội ngũ cán bộ có chất lượng, nên trong năm
2008 huyện Thủy Nguyên đã không có vụ án nào phải xử lý vượt cấp. Điều
đó đã thực sự tạo được lòng tin trong nhân dân. Góp phần quan trọng, trong
việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật trong quần chúng nhân dân, và đánh
dấu bước đầu sự thành công trong chiến lược đổi mới nền tư pháp nước nhà.
Trong quá trình hoạt động, TAND huyện Thủy Nguyên đã đạt được
những thành tựu nhất định. Trong thời gian qua TAND huyện Thủy Nguyên,
đã được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao cấp bằng khen “tập thể lao động
xuất sắc”. Năm 2008 có hai đồng chí được Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
phong tặng “chiến sĩ thi đua” là đồng chí: Trịnh Khắc Thịnh (hiện là phó
chánh án,kiêm Thẩm phán) và Nguyễn Đình Cử (hiện đã về hưu); và 100%
các cán bộ đạt tiêu chuẩn “cá nhân lao động tiên tiến”. Tuy đã đạt được những
thành tích nhất định, cùng việc hoạt động hiêu quả, nhưng TAND huyện Thủy
Nguyên cũng không tránh khỏi những điểm chưa phù hợp.
3. Những điểm hạn chế cơ bản trong quá trình hoạt động của TAND
huyện Thủy Nguyên
Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã có những chính sách cụ thể nhằm
nâng cao hiệu quả hoạt động của TAND cấp huyện như: Bộ tư pháp đưa ra
chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, và Kế hoạch số 05-KH/CCTP
ngày 22/2/2006 của Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp thực hiện triển khai Nghị


quyết số 49-NQ/TW trong giai đoạn 2006-2010. TAND huyện Thủy Nguyên
là một trong những huyện đi đầu trong công cuộc đổi mới, về tổ chức và hoạt
động của TAND cấp huyện. Tuy đã đạt được những thành tựu nhất định,

nhưng trong quá trình hoạt động không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
Trong chính sách đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, thì yêu
cầu đối với các cán bộ Tòa án không chỉ cần kiến thức chuyên ngành vững
vàng, mà yêu cầu về trình độ tin học, và ngoại ngữ đang là vấn đề được đặt
ra . Về vấn đề này, thì đội ngũ cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng và
TAND cấp huyện nói chung vẫn chưa đáp ứng được theo yêu cầu. Việc bồi
dưỡng thêm về tin học và ngoại ngữ, giúp các cán bộ có thể áp dụng một cách
tối đa những tiến bộ khoa học kĩ thuật, mà Nhà nước đầu tư cho ngành như:
internet…,đồng thời hiện đại hóa trong phương phương thức làm việc. Khi
làm được điều đó, sẽ đem lại hiệu quả tích cực, phục vụ tốt cho yêu cầu công
việc, nhất là đối với nước ta đang trong thời kì hội nhập
Trong đó, vấn đề mà Đảng và Nhà nước ta phải quan tâm là chế độ
“lương” của các cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng, và TAND các
cấp nói chung, còn chưa thực sự phù hợp với công việc phải đảm nhiệm. Đời
sống cán bộ còn chưa thực sự được đáp ứng. Đặc biệt, đây là nơi có nhiều
những vụ án phức tạp, và số lượng án phải giải quyết là tương đối nhiều, với
hàng trăm các vụ án, dẫn đến tình trạng cán bộ chịu nhiều áp lực công việc.
Bởi vậy còn có những vụ án phức tạp vẫn chưa được thụ lý, đồng thời áp lực
công việc, chính là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động của
TAND phần nào khó khăn.
Không chỉ vậy, vấn đề nhân dân hiểu biết pháp luật còn hạn chế dẫn
đến việc, gây nhiều khó khăn cho TAND huyện Thủy Nguyên trong quá trình
xét xử, đây cũng chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
giải quyết các vụ việc khó khăn, mất nhiều thời gian, các cán bộ giải quyết
công việc bị căng thẳng... hiệu quả công việc bị hạn chế.


Đặc biệt, trong các vụ án dân sự có rất nhiều những vụ án phức tạp, xảy
ra thường xuyên, chiếm phần lớn thời gian hoạt động của TAND huyện Thủy
Nguyên.

Qua việc nghiên cứu những hạn chế trên, ta thấy đó gần như là những
hạn chế chung của ngành Tòa án, và những hạn chế đó Nhà nước ta hoàn toàn
có thể khắc phục được trong thời gian tới, và để khắc phục Nhà nước ta đã
đưa ra những biện pháp cụ thể.
4. Một số giải pháp nhằm đổi tổ chức và hoạt động của TAND huyện
Thủy Nguyên
Công tác triển khai thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW trong TAND
huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND các cấp nói chung, những năm qua
đã tạo được những chuyển biến tích cực về nhận thức, đạt được yêu cầu, nội
dung của Nghị quyết đề ra đối với hoạt động của ngành, như tổ chức bộ máy,
đội ngũ cán bộ, công chức của ngành được kiện toàn và củng cố, đã có
chuyển biến về tinh thần trách nhiệm trong rèn luyện, nâng cao trình độ, phẩm
chất đạo đức theo tiêu chuẩn hoá cán bộ.
Tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế căn bản nêu trên. Tôi xin nêu một
số giải pháp nhằm tiếp tục tăng cường hiệu quả hoạt động của TAND huyện
Thủy Nguyên và TAND cấp huyện nói chung :
Tòa án là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống bộ máy
Nhà nước ta: trực tiếp bảo vệ pháp luật và đưa pháp luật vào đời sống nhân
dân, bảo vệ quyền lợi của nhân dân… Bởi vậy, xuất phát từ tính chất đặc thù
của ngành, Nhà nước ta cần có những điều chỉnh về “lương” hợp lý hơn đối
với đội ngũ cán bộ TAND huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND các cấp
nói chung và đặc biệt cần chỉ đạo tăng cường, đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, tổ chức học tập, quán triệt nội dung Nghị quyết số 49NQ/TW đến các cơ quan, ban, ngành, các cán bộ, công chức làm công tác tư
pháp cũng như đến đông đảo các tầng lớp nhân dân trên địa bàn huyện Thủy
Nguyên và nhân dân cả nước, đây là vấn đề ngày càng trở nên cần thiết và vô


cùng cấp bách trong giai đoạn hiện nay, nhằm thu hút sự quan tâm và tham
gia của xã hội và nhân dân đối với công tác tư pháp, mà cụ thể là hoạt động
xét xử. Giúp cho hoạt động của TAND được thực hiện nhanh chóng và có

hiệu quả, đồng thời hạn chế việc nhân dân vi pham pháp luật.
Cần tiếp tục quan tâm, tăng cường chỉ đạo đối với công tác thi hành án
dân sự; bởi trong lĩnh vực này không chỉ trên địa bàn huyện Thủy Nguyên mà
hầu hết cả nước ta, đều xảy ra những vụ án nghiêm trọng phức tạp, bởi vậy
cần chú trọng việc giải quyết những vụ việc thi hành án phức tạp, kéo dài, liên
quan đến nhiều ngành, cơ quan, đơn vị; giải quyết cơ bản tình trạng tồn đọng
tránh tình trạng nhân dân khiếu kiện nhiều lần.
Và vấn đề mà Nhà nước ta cần phải hết sức quan tâm, là đẩy mạnh
công tác đào tạo độ ngũ cán bộ, tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ, phổ cập tin
học, ngoại ngữ và các tiến bộ khoa học liên quan, cho không chỉ đội ngũ cán
bộ của TAND huyện Thủy Nguyên, mà còn là yêu cầu đặt ra đối với ngành tư
pháp nói chung, nhằm đáp ứng yêu cầu trong cải cách tư pháp hiện nay. Tiếp
tục phát triển đội ngũ luật sư, giám định viên, công chứng viên, chấp hành
viên có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình
hình mới. Và việc tổ chức phiên toà xét xử cần đổi mới theo hướng xác định
cụ thể quyền hạn, trách nhiệm pháp lý của cả những người tiến hành tố tụng
và những người tham gia tố tụng; bảo đảm nguyên tắc tranh tụng công khai,
dân chủ và nghiêm minh trong xét xử.
Đặc biệt, phải bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với tổ chức
và hoạt động của Toà án trên cơ sở đổi mới sự lãnh đạo của Đảng. Muốn vậy,
cần tăng cường hoạt động kiểm tra của Đảng, công tác cán bộ Đảng, không
ngừng nâng cao phẩm chất đạo đức cho cán bộ, kết hợp với hoạt động giám
sát của nhân dân đối với hoạt động xét xử của Toà án; đồng thời, nâng cao
trách nhiệm của Thẩm phán, của Hội thẩm nhân dân trước nhân dân và trước
Đảng.


C. KẾT LUẬN
Trên đây là một vài trình bày của tôi về vấn đề “cải cách tổ chức và
hoạt động của Tòa án nhân dân huyện Thủy Nguyên” qua đó tôi đưa ra những

vấn đề hạn chế chung trong cơ quan Tòa án nước nhà. Từ đó có những
phương hướng bước đầu, để cải cách tổ chức và hoat động của Tòa án nhân
dân huyện Thủy Nguyên nói riêng và TAND các cấp nói chung. Tất nhiên,
những gì tôi đã trình bày còn hạn chế, chưa bao quát được các mặt trong tổ
chức và hoạt động TAND huyện Thủy Nguyên. Hơn nữa, với kiến thức còn
hạn hẹp thì việc nghiên cứu của tôi cũng chưa thực sự sâu sắc. Tuy nhiên,
những gì đã bàn đã giúp tôi hiểu thêm phần nào về tổ chức Tòa án nhân dân
cấp huyện.
Dù tôi đã rất cố gắng, nỗ lực nhưng không tránh khỏi những thiếu sót,
còn có nhiều vấn đề đòi hỏi phải nghiên cứu thêm và trao đổi nhiều hơn. Tôi
sẽ cố gắng khắc phục những hạn chế ấy, và nếu có điều kiện tôi sẽ nghiên cứu
sâu hơn, vấn đề này nhằm góp một phần công sức nhỏ vào công cuộc đổi mới
đất nước.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
(được sửa đổi năm 2001 - NXB Thống Kê - 2007)
2. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam (NXB Công An nhân dân 2007)
3. Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002 (số 33/2002/QH ngày 0204-2002)
4. Pháp lệnh 02/2002/PL-UBTVQH về thẩm phán và hội thẩm Tòa án
nhân dân do Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành ngày (04/10/2002)
5. Giáo trình “Lý luận Nhà nước và pháp luật” của trường Đại học luật
Hà Nội (NXB Công an nhân dân -2008)
6. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị “về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020”
7. Chỉ thị số 53 - CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về "Một số
công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000".
8. Nghị quyết số 1036/2006/NQ-UBTVQH11 (ngày 27-7-2006)
9. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin (NXB

Đại học Kinh tế quốc dân-2008)
10. Pháp lệnh Thẩm phản và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002
11. Nghị quyết số 08-NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới” (ngày 02 - 01-2002)



×