Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.7 KB, 32 trang )

HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC TẠI NGÂN
HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
I. MỘT VÀI NÉT VỀ NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.Giới thiệu chung
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn thành phố Hà Nội được
thành lập vào ngày 27/ 07/ 1988. Tên viết tắt là NHNo&PTNT HN. Trụ sở đặt
tại số 77 phố Lạc Trung quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. NHNo&PTNT HN gồm có 7
chi nhánh ngân hàng quận và một ngân hàng cấp 4. Trong cơ quan có 8 phòng
ban, mỗi phòng ban giữ một nhiệm vụ riêng nhưng có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau hợp thành bộ máy hoàn chỉnh và hoạt động ngày càng có hiệu quả
trong NHNN&PTNT HN.
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của NHNo&PTNT HN
Thực hiện Nghị định số 53/ HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng bộ
trưởng, hệ thống ngân hàng 1 cấp chuyển thành ngân hàng 2 cấp, Ngân hàng
Nhà nước là cơ quan quản lý nhà nước và các ngân hàng thương mại chuyên
doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng.
Đây là bước ngoặt quan trọng và đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ
trong hoạt động ngân hàng nói chung và Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn nói riêng.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn thành phố Hà Nội được
thành lập ngày 27/07/1988 và chính thức đi vào hoạt động ngày 05/08/1988
với chức năng nhiệm vụ là huy động vốn và cho vay các thành phần kinh tế sản
xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, chế biến, công nghiệp thực phẩm
và tất cả các thành phần kinh tế khác trên địa bàn Hà Nội.
NHNo&PTNT HN được tách ra từ Ngân hàng Nhà nước của thành phố
Hà Nội. Lúc này NHNo&PTNT HN gồm có 12 chi nhánh của các ngân hàng
huyện thuộc Hà Nội và một trung tâm giao dịch là NHNo&PTNT HN hiện nay,
thực hiện 2 nhiệm vụ chính là quản lý các NHNo&PTNT cấp huyện và trung
tâm cấp giao dịch thực hiện kinh doanh trên địa bàn Hà Nội.
Đến tháng 10/1994, các ngân hàng tách tỉnh bàn giao một ngân hàng về


Vĩnh Phú và 6 chi nhánh ngân hàng huyện là Ba Vì, Sơn Tây, Thạch Thất, Phú
Thọ, Hoài Đức, Đan Phượng về Ngân hàng tỉnh Hà Tây. Còn lại 5 ngân hàng
Ban Giám đốc
Phòng hành chính nhân sựPhòng kế hoạchPhòng thanh toán quốc tếPhòng kiểm soátPhòng kinh doanhPhòngkế toán Phòng ngân quỹ
huyện trên địa bàn là Từ Liêm, Thanh Trì, Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông Anh và một
trung tâm giao dịch chịu sự quản lý từ NHNo&PTNT HN.
Tháng 10/1997 NHNo&PTNT HN bàn giao sự quản lý 5 ngân hàng
huyện về Ngân hàng Trung ương và chỉ còn lại NHNo&PTNT HN trên địa bàn.
Sau đó, NHNo&PTNT HN thành lập các ngân hàng cấp quận.
Nhìn chung, được thành lập trong giai đoạn chuyển biến quan trọng của
nền kinh tế Việt Nam, trải qua hơn 10 năm hoạt động và trưởng thành,
NHNo&PTNT HN đã vượt qua rất nhiều khó khăn của chính mình góp phần
tích cực vào sự thành công của công cuộc đổi mới kinh tế đất nước, dần đưa
Việt Nam hội nhập với nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới.
1.2 Cơ cấu tổ chức
NHNo&PTNT HN chịu sự chỉ đạo trực tiếp từ NHNo&PTNT Việt Nam và
đã thực hiện mở chi nhánh ngân hàng tại 7 quận trên địa bàn Hà Nội:
NHNo&PTNT quận Cầu Giấy
NHNo&PTNT quận Hai Bà Trưng
NHNo&PTNT quận Hoàn Kiếm
NHNo&PTNT quận Tây Hồ
NHNo&PTNT quận Thanh Xuân
NHNo&PTNT quận Ba Đình
NHNo&PTNT quận Đống Đa
Và NHNo&PTNT HN (là trung tâm giao dịch). Ngoài ra, NHNo&PTNT HN
còn có một ngân hàng cấp 4, đó là Ngân hàng khu vực Tam Trinh.
Sơ đồ mô hình tổ chức của NHNo&PTNT HN:
1.3 Nhiệm vụ
NHNo&PTNT HN là một DNNN kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ
ngân hàng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước

và nước ngoài, thực hiện uỷ thác các nguồn vốn ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn của Chính phủ, các tổ chức kinh tế-xã hội, cá nhân trong nước và nước
ngoài, thực hiện tín dụng tài trợ chủ yếu cho nông nghiệp và nông thôn.
Tháng 9/1995 thực hiện chủ trương của nhà nước xoá bỏ cầu cấp
NHNo&PTNT HN bỏ phần chỉ đạo ngân hàng cấp huyện, tập trung vào kinh
doanh. Lúc này, NHNo&PTNT HN là một đơn vị kinh doanh thực sự phục vụ các
đơn vị kinh doanh nông nghiệp, vật tư nông nghiệp và các đơn vị kinh doanh
lương thực, các đơn vị chế biến thực phẩm.
Vốn của Ngân hàng Nông nghiệp đã thực sự góp phần thúc đẩy các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phát triển và đứng vững trong cơ chế thị
trường, đầu tư cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nông, lâm, ngư,
diêm nghiệp và chế biến nông sản, NHNo&PTNT HN còn đẩy mạnh đầu tư cho
các hộ sản xuất nông nghiệp ở các huyện ngoại thành nhằm giúp các hộ có vốn
phát triển sản xuất kinh doanh mở mang ngành nghề truyền thống, thay đổi
giống cây trồng vật nuôi, chuyển dịch giống cây trồng. Ngoài ra cùng với các tổ
chức đoàn thể, NHNo&PTNTTPHN đã góp phần thực hiện tốt chính sách xoá
đói giảm nghèo của Đảng nhà nước và thành phố đề ra.
NHNo&PTNT HN đã tập trung vốn cho các hộ nghèo với lãi suất ưu đãi
mang lại hiệu quả thiết thực và tạo điều kiện cho các hộ nghèo có vốn, tạo công
ăn việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống.
Mặt khác, NHNo&PTNT HN huy động vốn và cho vay nội - ngoại tệ, cho
vay các chương trình quốc tế, chương trình EC, cho vay tiêu dùng, làm các dịch
vụ chuyển tiền nhanh, cho vay cầm đồ...
2. Thực trạng hoạt động kinh doanh tại NHNo&PTNT HN
NHNo&PTNT HN là một chi nhánh hạch toán phụ thuộc nên các loại vốn
như vốn pháp định, lợi nhuận, các quỹ chuyên dùng, quỹ dự trữ, quỹ tài trợ và
các loại vốn khác đều được hạch toán và quản lý tại NHNo&PTNT Việt Nam.
Ngay từ khi mới thành lập, cùng với sự tăng trưởng kinh tế của cả nước
nói chung và tăng trưởng kinh tế của Hà Nội nói riêng, hoạt động tín dụng của
NHNo&PTNT HN cũng tăng trưởng không ngừng. Sự hoạt động có hiệu quả

của NHNo&PTNT HN đã góp phần tích cực thúc đẩy nền kinh tế Hà Nội phát
triển.
2.1 Hoạt động huy động vốn
Nhận thức được huy động vốn là hoạt động quan trọng có tính chất mở
đường cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng, NHNo&PTNT HN đã chú
trọng nhiều đến hoạt động huy động vốn và làm cho nó trở thành thế mạnh
của mình. NHNo&PTNT HN luôn là kênh huy động vốn lớn nhất, là chi nhánh
dẫn đầu trong hệ thống NHNo&PTNT tại Hà Nội về hoạt động huy động vốn
với nguồn vốn huy động dồi dào. Sau đây ta sẽ xem xét cơ cấu huy động vốn
theo loại khách hàng của NHNo&PTNT HN trong giai đoạn 1999-2001.
Bảng 1- Cơ cấu huy động vốn của NHNo&PTNT HN trong giai
đoạn 1999-2001
CHỈ TIÊU
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ trọng
(%)
1.Tiền gửi của
các tổ chức ktế
496037 36,7 295700 15,2 649769
31,9

2.Tiền gửi dân

459098 33,9 695744 35,7 667683
32,8
3.Tiền gửi các
tổ chức tín
dụng
175359 13,0 764072 39,3 171429
8,4
4. Tiền gửi
khác
222581
16,4
191164 9,8
546738 6,7
Tổng cộng 135307
5
100
194668
2
100
203561
9
100
(Nguồn; Bảng CĐTK tổng hợp năm 1999-2000-2001 của NHNo&PTNT HN )
Đến 31/12/2001 NHNo&PTNT HN có tổng nguồn huy động là 2035619
triệu đồng tăng 4,6% tổng huy động so với năm 2000 và thường xuyên vượt kế
hoạch mà NHNo&PTNT VN giao trong đó:
 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế là 649769 triệu đồng chiếm 31,9%
tổng nguồn huy động vào năm 2001, tăng 354069 triệu đồng so với năm 2000

tăng 153868 triệu đồng so với năm 1999.
 Tiền gửi dân cư 667683 triệu đồng chiếm 32,8% so với tổng huy
động, bằng 96% tiền gửi dân cư năm 2000, tăng 45,4% so với năm 1999.
 Tiền gửi của các tổ chức tín dụng là 171429 triệu đồng chiếm 8,4%
tổng huy động, giảm 592643 triệu đồng, giảm 77,6% so với năm 2000, giảm
3930 triệu đồng, giảm 2,2% so với năm 1999.
Nhìn chung, huy động vốn của NHNo&PTNT HN đều tăng tuyệt đối trong
cả giai đoạn từ năm 1999 đến 2001. Với lượng vốn dồi dào này cùng với các
khoản vay ưu đãi lớn từ nước ngoài lên tới hàng chục tỷ đồng, NHNo&PTNT
HN mỗi năm thừa một lượng vốn lớn: năm 1999 là 142 tỷ đồng, năm 2000 là
336 tỷ đồng và năm 2001 là 355 tỷ đồng đã được điều chuyển đi.
2.2 Hoạt động cho vay
Căn cứ vào nội dung quyết định số 198/QĐ_Ngân hàng ngày
17/09/1996 của Thống đốc NHNN về việc ban hành thể lệ tín dụng ngắn hạn
đối với các tổ chức kinh tế, quyết định số 367/QĐ_NH ngày 21/12/1997 về việc
phát hành thể lệ tín dụng trung và dài hạn, văn bản số 1533/NHNo_KH ngày
16/12/1996 của NHNo&PTNT VN quy định về kinh doanh dịch vụ cầm cố và
văn bản mới nhất là quyết định 324 của Thống đốc NHNN VN về việc ban hành
qui chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng và quyết định 180 của
hội đồng quản trị NHNo&PTNT VN ngày 15/12/2000 về việc ban hành qui
định cho vay đối với khách hàng đã kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong
quá trình cho vay, tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng tín dụng kích thích sản
xuất kinh doanh.
Là một ngân hàng mới ra đời và hoạt động, có những bước đi vững
vàng, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, NHNo&PTNT HN đã
thể hiện sự tiến bộ không ngừng của mình trong hoạt động tín dụng. Điều này
được thể hiện rõ trong bảng cơ cấu tín dụng của NHNo&PTNT HN giai đoạn
1999-2001.
Bảng 2- Cơ cấu dư nợ tín dụng của NHNo&PTNT HN
giai đoạn 1999-2001


CHỈ TIÊU
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ trọng
(%)
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ trọng
(%)
1. Dư nợ ngắn
hạn
2. Dư nợ T&D hạn
Tổng dư nợ
Trong đó:
Nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn
920019
111225
103124
4
59520
5,8%
89,2
10,8

100
81350
5
14458
8
95809
3
78651
8,2%
84,9
15,1
100
77706
6
20791
9
98498
5
45915
4,7%
78,9
21,1
100
(Nguồn: Bảng CĐTK tổng hợp năm 1999 – 2000 – 2001 của NHNo&PTNT HN )
Qua số liệu trên ta thấy, cho vay ngắn hạn giảm dần cả về giá trị tuyệt
đối lẫn tương đối. Năm 2001 cho vay ngắn hạn là 777066 triệu đồng, giảm
36439 triệu đồng, bằng 95,5% cho vay ngắn hạn năm 2000 và giảm 142953
triệu đồng so với dư nợ ngắn hạn năm 1999, bằng 84,5% dư nợ ngắn hạn năm
1999.
Cho vay trung và dài hạn lại có xu hướng tăng lên: năm 2001 đạt

207919 triệu đồng tăng 63331 triệu đồng so với dư nợ trung và dài hạn năm
2000, bằng 143,8% dư nợ trung và dài hạn năm 2000 và tăng 96694 triệu
đồng so với dư nợ trung và dài hạn năm 1999, bằng 186,9% dư nợ trung và
dài hạn năm 1999. Tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn so với tổng dư nợ các năm
1999, 2000, 2001 cũng có xu hướng tăng dần tương ứng là 10,8%; 15,1%;
21,1%.
Tốc độ dư nợ năm 1999 tăng nhanh trên 100% trong khi Trung ương
quy định tốc độ tăng trưởng là 25%. Dư nợ năm 2000 lại giảm 7% so với năm
1999 do sự biến động của tỷ giá ngoại tệ đã đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá để trả
nợ làm cho dư nợ giảm 73151 triệu đồng. Sang năm 2001 dư nợ tín dụng đã
tăng thêm 26892 triệu đồng, tăng 2,8% so với năm 2000. Đây là kết quả của sự
nỗ lực rất cao của toàn bộ cán bộ công nhân viên Ngân hàng và hứa hẹn một
quy mô tín dụng của NHNo&PTNT HN sẽ được mở rộng khi mức tăng trưởng
của nền kinh tế trở lại bình thường.
Nợ quá hạn năm 1999 giảm đáng kể so với tỷ lệ này ở đầu năm nhưng
sang năm 2000 tỷ lệ nợ quá hạn lại tăng lên tới 8,2%, đây là tỷ lệ khá cao so
với tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống Ngân hàng. Năm 2001 nợ quá hạn giảm khá
mạnh từ 78651 triệu đồng xuống còn 45915 triệu đồng giảm 41,6% so với năm
2000 và giảm 22,8% so với năm 1999. Nếu NHNo&PTNT HN tiếp tục phát huy
theo xu hướng này sẽ nhanh chóng giảm được nợ quá hạn, nâng cao hiệu quả
hoạt động kinh doanh của mình.
2.3 Hoạt động khác của NHNo&PTNT HN:
2.3.1 Về hoạt động đối ngoại và dịch vụ ngân hàng
Hoạt động đối ngoại tại NHNo&PTNT HN tuy mới bắt đầu thực hiện từ
khi phòng thanh toán quốc tế được thành lập 1997 nhưng hoạt động này đã
mang lại kết quả đáng mừng nhất là trong năm 2000: NHNo&PTNT HN đã mở
484 L/C nhập khẩu trị giá 107 triệu USD tăng trên 60% so với năm 1999 và
bằng 160% so với năm 2001. Đã thanh toán 545 món trị giá 89 triệu USD tăng
118% so với năm 1999 và bằng 131% năm 2001. Thanh toán TTR 364 món trị
giá 61 triệu USD tăng 95% so với năm 1999 và bằng 109% năm 2001. Thanh

toán nhờ thu 74 món trị giá 3 triệu USD tăng 214% so với năm 1999 và bằng
158% năm 2001.
Về hàng xuất:
Thông báo 7 L/C trị giá 3 triệu USD, đòi tiền 21 món trị giá 6 triệu USD
và thanh toán 21 món tương đương trị giá 6 triệu USD
Phí dịch vụ thu được 122614 USD tăng 82% so với năm 1999 và bằng
136% thu phí dịch vụ 2001.
Về kinh doanh ngoại tệ:
Đa số các khách hàng vay vốn ngoại tệ để nhập khẩu đều tiêu thụ trong
nước thu bằng VND nên nhu cầu ngoại tệ khi đến hạn trả nợ đều phải trông
chờ vào ngân hàng, NHNo&PTNT HN lấy việc phục vụ khách hàng là chính, do
vậy NHNo&PTNT HN luôn tìm bạn hàng, thị trường để thu gom ngoại tệ cân
đối cho doanh nghiệp.
Năm 1999 NHNo&PTNT HN đã vay NHNo&PTNT VN 53 triệu USD để cho
các đơn vị vay (vay nhiều nhất là tổng công ty vật tư nông nghiệp trên 40 triệu
USD). Doanh số bán 42 triệu USD tăng 12,2 triệu so với đầu năm. Doanh số
mua 44 triệu USD tăng 20,7 triệu USD so với đầu năm. Trong năm 2000 đã
mua 134 triệu USD bán 155 triệu USD tăng 116% so với 1999. Nhiều khách
hàng khi đến hạn trả nợ ngoại tệ đều được NHNo&PTNT HN cân đối kịp thời
không phải gia hạn nợ đã tạo giữ được chữ tín với khách hàng, vừa tăng được
vòng quay tín dụng. Năm 2001 doanh số mua là 72,5 triệu USD, doanh số bán
73,5 triệu USD góp phần đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh mua bán ngoại tệ, NHNo&PTNT HN chấp
hành nghiêm túc quy định về tỷ giá mua bán, không ép giá, không đầu cơ để
gây rối loạn không đáng có trên thị trường ngoại tệ.
2.3.2 Về kho quỹ và kế toán thanh toán:
Do tổ chức tốt hoạt động thu và cung ứng tiền mặt, ngân phiếu thanh
toán từ nhiều năm nay nên doanh số thu chi tiền mặt và ngân phiếu thanh toán
khá cao.
Năm 2000 doanh số thu 3086 tỷ tăng 52% so với 1999, bằng 118% năm

2001. Chi trong năm 2000 là 2310 tỷ tăng 15% so với năm 1999, bằng 88%
năm 2001.
Đảm bảo an toàn quỹ nghiệp vụ trong quá trình giao dịch và vận chuyển,
mọi nhu cầu thu chi tiền mặt hoặc ngân phiếu thanh toán của các doanh
nghiệp đều được thoả mãn kịp thời, đầy đủ, tạo sự bình đẳng và thuận lợi cho
khách hàng.
Thanh toán qua liên mạng lưới liên ngân hàng và thanh toán bù trừ đã
được NHNo&PTNT HN chú ý xử lý trong nhiều năm nay nên việc luân chuyển
vốn của các DN qua NHNo&PTNT HN luôn được thông suốt. Tổng doanh số
thanh toán liên hàng và thanh toán bù trừ năm 2000 là 7846 tỷ tăng 178% so
với năm 1999. Năm 2001 thanh toán 26132 món với số tiền 10067 tỷ tăng
102,4% so với năm 2000. Ngoài ra NHNo&PTNT HN còn thực hiện 25138 lượt
chuyển tiền với giá trị 10000 tỷ đồng tăng 111,5% so với năm 2000.
NHNo&PTNT HN luôn thực hiện tốt phương châm của mình: an toàn, kịp thời,
uy tín.
2.4 Kết quả hoạt động kinh doanh của NHNo&PTNT HN giai đoạn 1999-2001:
Năm 1999 tổng doanh thu của NHNo&PTNT HN đạt 87 tỷ đồng trong đó
thu lãi là 49 tỷ đồng. Chênh lệch thu chi là 5572 triệu đồng. Quỹ thu nhập cả
năm là 3570 triệu đồng và trích quỹ rủi ro 531 triệu đồng. Năm 1999 kinh
doanh có hiệu quả. Đảm bảo được đời sống cho cán bộ công nhân viên ổn định.
Làm nghĩa vụ với cấp trên và ngân sách đầy đủ.
Năm 2000 tổng thu nhập đạt 106 tỷ tăng 112% so với năm 1999. Tổng
chi phí 96 tỷ tăng 38% so với năm 1999. Năm 2000 NHNo&PTNT HN đã tận
dụng các nguồn thu nên mặc dù dư nợ giảm 7% nhưng thu lãi cho vay năm
2000 tăng 95% so với năm 1999 mặc dù lãi suất cho vay tăng 20% so với năm
trước. Với tình hình thu chi như vậy nên sau khi hạch toán 4589 triệu đồng quỹ
rủi ro, NHNo&PTNT HN vẫn đảm bảo đủ quỹ thu nhập, đủ chi lương và ăn ca
theo chế độ khoán tài chính và chi lương của NHN&PTNT Việt Nam quy định.
Năm 2001 tổng thu nhập là 259 tỷ đồng trong đó thu lãi cho vay là 51 tỷ
đồng. Tổng chi phí là 355 tỷ đồng trong đó chi trả lãi là 157 tỷ đồng. Quỹ thu

nhập năm 2001 đạt 11270 triệu đồng tăng 113,3% so với năm 2000. Mặc dù
năm 2001 NHNo&PTNT HN gặp rất nhiều khó khăn, hoạt động đối ngoại giảm
mạnh so với năm 2000 về số lượng và quy mô các món giao dịch nhưng bằng
sự nỗ lực hết mình cùng với các biện pháp kết hợp kịp thời như tăng nguồn
vốn, mở rộng dư nợ tín dụng nên vẫn có thể đảm bảo hiệu quả tín dụng, công
ăn việc làm và thu nhập.
II. HIỆU QUẢ TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNN TẠI NHNO&PTNT HN
1. Một vài nét về DNNN - khách hàng của NHN&PTNT HN
NHNo&PTNT HN được thành lập với nhiệm vụ là huy động vốn và cho
vay các thành phần kinh tế sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, diêm nghiệp, chế
biến và công nghiệp thực phẩm cùng tất cả các thành phần kinh tế khác trên
địa bàn Hà Nội, vì vậy lượng khách hàng chủ yếu của NHNo&PTNT HN vẫn
luôn là các DNNN. Các DNNN này nằm trong hệ thống DNNN, đóng vai trò chủ
yếu trong sản xuất, cung ứng cho xã hội nhiều loại sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ. Do đó các DNNN giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Điều này
được quy định tại điều 1 Luật DNNN ban hành ngày 30/4/1997: “DNNN là tổ
chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động
kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã
hội do Nhà nước giao”
Số lượng khách hàng là DNNN tại NHNo&PTNT HN hiện nay là hơn 70
đơn vị. Một số doanh nghiệp trong số này là thành viên của các Tổng công ty
90 (Công ty được thành lập theo Quyết định 90TTg của Thủ tướng Chính phủ)
và các Tổng công ty 91 (Công ty được thành lập theo Quyết định 91TTg của
Thủ tướng Chính phủ). Đây là các DNNN nắm các ngành kinh tế chủ chốt như
điện, than, xi măng, thép, đá quý, dầu khí, bưu chính viễn thông, hàng hải, dệt
may, thuốc lá, giấy, cao su, cà phê, lương thực ...
Để hiểu rõ hơn về các doanh nghiệp này, ta hãy xem xét ưu điểm và
nhược điểm của các DNNN về mặt tài chính, tổ chức, nhân sự...
1.1 Ưu điểm:
- Các DNNN đủ sức can thiệp vào thị trường, khắc phục những khuyết

tật của nền kinh tế thị trường. DNNN chính là công cụ của Nhà nước để Nhà
nước can thiệp vào nền kinh tế. DNNN là thành phần kinh tế chiếm tỷ trọng
chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân, nắm giữ những ngành then chốt, lĩnh vực
then chốt của nền kinh tế.
- Các DNNN có thể tham gia vào các ngành, các lĩnh vực kinh doanh
không có lợi nhuận hoặc ít lợi nhuận. Điều này doanh nghiệp khác khó có thể
thực hiện được vì trong nền kinh tế thị trường mục tiêu của các doanh nghiệp
là lợi nhuận.
- DNNN có thể tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh đòi hỏi vốn lớn mà
các thành phần kinh tế khác không đủ sức đầu tư.
- Đội ngũ cán bộ công nhân thuộc khu vực này được đào tạo, rèn luyện
thấm nhuần chủ nghĩa Mác Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ đảm bảo cho
nền kinh tế Việt Nam không bị chệch hướng mà đi đúng theo con đường XHCN
đã lựa chọn.
1.2 Nhược điểm:
 Về máy móc công nghệ: thiết bị máy móc dùng cho sản xuất còn thiếu,
công nghệ còn lạc hậu. Do đó hàng hoá sản xuất ra chất lượng kém, mẫu mã
không phù hợp, không đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng,
khả năng cạnh tranh không cao.
 Vốn tự có ít, hiệu quả sử dụng vốn của DNNN còn thấp.
 Sản phẩm sản xuất ra của các DNNN thường có giá thành cao hơn so
với hàng hoá nhập lậu.
 Dễ nảy sinh hiện tượng tham nhũng, tiêu cực do cơ chế quản lý giám
sát lỏng lẻo, kém hiệu lực, việc phân định chức năng quản lý chưa được xác
định rõ ràng.
 Một số DNNN còn mang nặng tư tưởng “cấp-phát”, “xin-cho” của
thời kỳ bao cấp nên chưa thực sự chủ động trong kinh doanh mà còn trong chờ
vào ưu đãi của Nhà nước.
 Lao động thuộc khu vực này tuy đông đảo nhưng ở một số DNNN thì
người lao động làm việc chưa hết năng lực, trách nhiệm công việc chưa cao,

thu nhập của người lao động thường thấp hơn ở một số khu vực khác.
1.3 Mối quan hệ giữa NHNo&PTNT HN và DNNN
NHNo&PTNT HN phục vụ mọi thành phần kinh tế hoạt động sản xuất
kinh doanh trên địa bàn Hà Nội nhưng trong đó chủ yếu vẫn là phục vụ các
doanh nghiệp nông nghiệp Nhà nước bao gồm các đơn vị quốc doanh sản xuất
và dịch vụ nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, thuỷ lợi, các xí nghiệp,
trạm trại, trung tâm sản xuất thực nghiệm nông-lâm-ngư nghiệp do Nhà nước
thành lập, cấp vốn và quản lý với tư cách là chủ sở hữu, hoạt động theo cơ chế
thị trường có định hướng của Nhà nước và thực hiện nguyên tắc hạch toán kế
toán, có trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn.
Một trong những nguyên lý quan trọng của việc quản lý ngân hàng tại
NHNo&PTNT HN là thu thập những thông tin về DNNN – khách hàng của mình
nhờ vào quan hệ khách hàng lâu dài, có uy tín. Thông qua tài khoản tiền gửi và
tiền vay của doanh nghiệp qua một thời gian dài, nhân viên tín dụng có thể
nắm được một số thông tin về khách hàng của mình như lịch sử thanh toán
các khoản vay của khách hàng. Thông qua kiểm tra tình hình thực tế của
doanh nghiệp, cán bộ tín dụng có thể nắm được chu kỳ sản xuất kinh doanh
của từng loại hình doanh nghiệp, để qua đó có thể cho doanh nghiệp vay vốn
một cách kịp thời và sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả nhất. Ngoài ra,
những khách hàng có quan hệ tín dụng sòng phẳng, có uy tín ngân hàng luôn
ưu tiên mức lãi suất hợp lý, có những chính sách ưu đãi đối với khách hàng
này.
Như vậy, NHNo&PTNT HN luôn luôn chú trọng tăng cường và mở rộng
các mối quan hệ khách hàng truyền thống lâu dài bởi điều này làm giảm bớt
rủi ro tiềm ẩn cho ngân hàng, làm giảm chi phí cho vay đối với khách hàng, từ
đó làm tăng lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời tạo thuận lợi cho các DNNN
trong việc vay vốn kinh doanh, nâng cao hiệu quả của đồng vốn tín dụng.
2. Thực trạng hiệu quả tín dụng đối với DNNN tại NHNo&PTNT HN
2.1 Về dư nợ DNNN tại NHNo&PTNT HN
Trong thời gian hơn 10 năm qua kể từ khi NHNo&PTNT HN mới được

thành lập cho đến nay, DNNN luôn luôn là khách hàng lớn của NHNo&PTNT
HN. Mối quan hệ giữa DNNN và ngân hàng là mối quan hệ truyền thống tốt
đẹp. Ngân hàng luôn tập trung vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay để
doanh nghiệp đổi mới thiết bị, hiện đại hóa công nghiệp mở rộng quy mô sản
xuất, kinh doanh có hiệu qủa, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân
góp phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong quá trình tồn tại và phát
triển, kể cả khi Nhà nước có chính sách chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị
trường, mối quan hệ này ngày càng được củng cố, phát triển trên cơ sở bình
đẳng đôi bên cùng có lợi. Để thấy rõ được điều này ta sẽ phân tích dư nợ
DNNN tại NHNo&PTNT HN giai đoạn 1999-2001
Bảng 3. Tình hình cho
vay đối với DNNN
CHỈ TIÊU
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ
trọng(%
)
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ
trọng(%
)
Số tiền
(tr.đ)
Tỷ
trọng(%
)

×