Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Bạo hành gia đình đối với trẻ đầu vị thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.23 KB, 25 trang )

Phần 1: Phần mở đầu
1.1 Lý do chọn đề tài
1.2 Đối tượng nghiên cứu
1.3 Mục đích nghiên cứu
1.4 Nhiệm vụ nghiên cứu
Phần 2: Nội dung
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu vẩn đề
2.1.1: Nghiên cứu về bạo hành gia đình
2.1.1.1: Trên thế giới
2.1.1.2: Ỏ Việt Nam
2.1.2: Nghiên cứu về bạo hành gia đình đối với trẻ em
2.1.2.1: Trên thế giới
2.1.2.2: Ỏ Việt Nam
Chương 2: Giải thích những khái niệm liên quan
2.2.1: Khái niệm trẻ tuối vị thành niên
2.2.1.1: Các giai đoạn phát triển của trẻ tuổi vị thành niên
2.2.1.2: Sự phát triển tâm- sinh lý của trẻ đầu tuổi vị thành niên
2.2.2: Khái niệm Bạo hành và bạo hành gia đình
2.2.2.1: Khái niệm bạo hành
2.2.2.2: Khái niệm bạo hành gia đình
2.2.3: Bạo hành gia đình đối với trẻ đầu tuổi vị thành niên


PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài
Gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng những giá trị tinh thần và vật
chất đối với các thành viên trong gia đình. Đối với trẻ em, đây là nơi nương tựa vững
chắc và êm ái nhất trong những năm đầu đời. Trẻ em là mầm non, là tương lai của đất
nước, được sống trong tình yêu thương, chăm sóc và giáo dục đầy đủ của người thân,
ruột thịt là quyền lợi của mỗi đứa trẻ. Nhưng không phải đứa trẻ nào cũng được sống
trong môi trường như vậy, trong nhiều hoàn cảnh những mâu thuẫn nội bộ đã biến gia


đình thành “một ung nhọt” gây ra những hiện tượng bệnh lý về thể chất cũng như tinh
thần đối với trẻ. Hàng triệu trẻ em đã phải chứng kiến, nghe thấy và bị bạo hành gia
đình.
Những năm gần đây, hiện tượng bạo hành trong gia đình đối với trẻ em và phụ nữ
ngày càng gia tăng với mức độ thương tích nghiêm trọng hơn rất nhiều. Nếu như phụ nữ
chỉ là nạn nhân của nam giới thì trẻ em không những là nạn nhân của nam giới mà còn
là nạn nhân của nhiều phụ nữ. Vậy, nguyên nhân do đâu mà trẻ em lại bị bạo hành, và
những bạo hành đó có những ảnh hưởng như thế nào đối với trẻ, đó chính là điều mà tôi
muốn tìm hiểu để có những nhận thức rõ hơn về tình trạng bạo hành này.
1.2 Đối tượng nghiên cứu
Bạo hành gia đình đối với trẻ em
1.3 Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu những ảnh hưởng của bạo lực gia đình đối với thể chất, tinh thần và nhân cách
của trẻ đầu tuổi vị thành niên
1.4 Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Tìm hiểu những nghiên cứu trong và ngoài nước phù hợp với đề tài
Làm rõ một số khái niệm có liên quan như: trẻ vị thành niên, bạo lực, bạo lực
gia đình...
-

Tìm hiểu một số nguyên nhân và những ảnh hưởng của bạo hành gia

đình đối với trẻ.


PHẦN 2: PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Lịch sử nghiên cứu
2.1.1: Nghiên cứu về bạo hành gia đình

2.1.1.1: Trên thế giới
Rất nhiều nghiên cứu về bạo hành gia đình trên thế giới đã chỉ ra rằng: bạo hành
gia đình là một hiện tuợng có tính chất toàn thế giới. Tại Mỹ, một nghiên cứu của
Muraay A.Straus và Richard J.Gelles(1986), có đến hơn một triệu ruỡi nguời phụ nữ bị
chồng hoặc bạn đời đánh đập hàng năm, nguời ta cũng uớc tính cứ trung bình 15 giây
lại có một phụ nữ bị chồng nguợc đãi. Một nghiên cứu gần đây của Singapore cho thấy
trong khoảng từ 1995-1997, số luợng các vụ bạo hành trong gia đình do Toà án gia đình
xử đã tăng hàng năm khoảng 40% (tăng từ 978 vụ năm 1995 lên 2019 vụ năm 1997. số
liệu thống kê của chính phủ Trung Quốc chỉ ra rằng bạo lực gia đình xảy ra ở 30% gia
đình, mặc dù con số này còn duới sự thật. Nhật Bản một tỷ lệ rất cao về bạo lực gia đình
đã đuợc báo cáo trong rất nhiều nghiên cứu. Trong một số nghiên cứu cho thấy 60% phụ
nữ đã trải qua bạo hành gia đình.
Qua các số liệu thống kê trên, ta có thể thấy tình trạng bạo hành gia đình trên thế
giới đang ở mức báo động và nó cần đuợc mọi nguời lên án mạnh mẽ và có những hình
thức trừng phạt thích đáng với những kẻ bạo hành. Và chúng ta cũng biết đuợc những
con số điều tra trên cũng chỉ một phần nào nói lên tình trạng bạo lực gia đình, còn trong
thực tế thì có lẽ con số này còn tăng lên rất nhiều. Bởi mọi nguời thuờng nói bạo hành
gia đình thuờng diễn ra trong bối cảnh riêng tu ở nhà riêng, và cả nguời bị hại lẫn xã hội
do nhiều nguyên nhân khác nhau cũng không muốn nói cho nguời khác biết. Vậy làm
thế nào để giảm đuợc bạo hành trong gia đình? Đây là một câu hỏi rất khó hiện tại đang
đuợc nhiều nuớc, nhiều tổ chức quốc tế quan tâm nghiên cứu giải đáp.
2.1.1.2: Ở Việt Nam
Tình hình về bạo lực gia đình ở các nước trên thế giới trong một mức độ nhất
định sẽ phản ánh ở Việt Nam. Thực tiễn đã cho thấy nếu mỗi người trong chúng ta
không ý thức rõ tác hại của nó và tìm cách khắc phục thì việc tìm ra được giải pháp hữu
hiệu để ngăn chặn bạo lực gia đình là một vấn đề hết sức khó khăn. Bạo lực gia đình


cũng được nhiều báo chí truyền tải và đề cập đến. Nghiên cứu của trung tâm, nghiên
cứu thế giới, gia đình và môi trường trong phát triển thống kê được riêng năm 1999 đã

có khoảng 3000 bài báo đề cập đến chủ đề bạo hành gia đình. Trong đó, bạo hành gia
đình được đăng nhiều nhất trên các báo An ninh Thủ Đô, Thanh niên, Đại đoàn kết, An
ninh thành phố Hồ Chí Minh, Sài Gòn giải phóng, báo Lao động,... các tạp chí như khoa
học về Phụ nữ, Xã hội học...
Các nghiên cứu của Đặng Phương Kiệt và Đinh Văn Lượng thuộc trung tâm nghiên cứu
giới, gia đình và môi trường trong phát triển tại đại bàn huyện Xuân Trường (Nam
Định) đã thu được kết quả như sau:
Năm 1989-1993: tại bệnh viện Giao Thuỷ (Nam Định) với số dân 150.000 người
đã có 42 người bệnh đến cấp cứu ngộ độc (thuốc bảo vệ thực vật, thuốc an thần...) vì lý
do tự tử, tất cả đều là nạn nhân cảu bạo hành gia đình, 45% trong số đó là vị thành niên
(12-21 tuổi) bị bố sỉ nhục và đánh đập. số còn lại là nạn nhân chồng ngược đãi vợ hoặc
mẹ chồng ngược đãi nàng dâu.
Năm 1994: Tại bệnh viện Huế trong 3 năm (1992-1993) có 435 người đến cấp
cứu vì có hành vi tự sát, 16% tử vong, 10% trong số này là vị thành niên, hầu hết đều là
nạn nhân của bạo lực gia đình.
Năm 1997-1999: Tại bệnh viện Vĩnh Phúc, trong số 341 ca ngộ độc vào cấp cứu
thì có 114 ca có động cơ tử tự để phản ứng lại với những hành vi bạo hành trong gia
đình
Báo cáo của Lê Thị Quý-trung tâm nghiên cứu gia đình và phụ nữ cho biết, năm 1993
trở về trước có 14-15% trong tổng số vụ án giết người là do bạo hành gia đình. Từ năm
1994-1997 con số này đã tăng lên 17-20%.
Theo một vài nghiên cứu gần đây cho thấy có 20 đến 25% các gia đình xảy ra
nạn bạo lực dựa trên cơ sở giới. Còn theo nghiên cứu của hội liên hiệp phụ nữ thì 66%
các vụ ly hôn ở Việt Nam liên quan đến bạo hành gia đình. Trong 5 năm từ 2000 - 2005,
có 186.954 vụ ly hôn do bạo lực gia đình, hành vi đánh đập, nguợc đãi chiếm 53,1%
trong các nguyên nhân dẫn tới ly hôn
Năm 2005, có tới hơn 39.7 nghìn vụ ly hôn có nguyên nhân từ bạo hành trong tổng số
gần 65 nghìn vụ án về hôn nhân và gia đình, chiếm tỷ lệ 60,3%, cũng theo nghiên cứu



đó thì: 25% gia đình có hành vi bạo lực tinh thần, 30% cặp vợ chồng xảy ra hiện tuợng
ép buộc quan hệ tình dục
Ỏ đồng bằng sông Cửu Long có 1.319 ca nhập viện do bạo hành gia đình, trong
đó khoảng 1.000 ca tự tử, và 30 truờng hợp tử vong. Tuy nhiên, bài báo này không đăng
số liệu cho các vùng khác.
5% phụ nữ thuờng xuyên bị chồng đánh đập
82% hộ dân nông thôn và 80% hộ ở thành phố có xảy ra bạo lực
9-10% truờng hợp nạn nhân của bạo lực gia đình là nam giới và thủ phạm chính là
nguời vợ.
Qua một số nghiên cứu trên về bạo hành gia đình, ta thấy rằng nạn bạo hành gia
đình đang là một vấn đề cần đuợc nhà nuớc, pháp luật ngăn cấm và có những giải pháp
hữu hiệu để nhằm bảo vệ đuợc nguời phụ nữ và trẻ em duới sức mạnh của những nguời
chồng, nguời cha có hành vi bạo lực.

2.1.2: Nghiên cứu về bạo hành gia đình đối với trẻ em
2.1.2.1: Trên thế giới
Theo một nghiên cứu toàn cầu mới đây của Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc
(UNICEF), những hình ảnh bạo lực gia đình mà trẻ em phải chứng kiến, cho dù chúng
không phải là nạn nhân trực tiếp, cũng có thể in sâu vĩnh viễn và gây nên những tác
động nặng nề trong suốt thời thơ ấu cũng nhu trong cuộc sống sau này. Nghiên cứu trên
cho biết hiện có khoảng 275 triệu trẻ em đang sống trong cảnh bạo lực gia đình, phải
chịu đựng sự bóc lột về thể chất, tinh thần và cả tình dục của cha mẹ cũng như người
giám hộ. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng cho thấy số liệu này thấp hơn so với thực tế do
những sai lệch trong báo cáo và thống kê không đầy đủ của một số nước. Theo
UNICEF, trẻ càng nhỏ càng có xu hướng bị tác động của nạn bạo lực nặng nề. Chúng bị
suy yếu nghiêm trọng về tinh thần và tình cảm trong giai đoạn phát triển quan trọng này.
Khi lớn lên, trẻ có thể gặp những rắc rối ở trường học, bộc lộ hạn chế về những kỹ năng
xã hội thông thường, hay chán nản, lo lắng và có nhiều vấn đề tâm lý khác. Những đứa
trẻ này thuộc nhóm đối tượng có nguy cơ cao về các hành vi phung phí tiền của, mang
thai ở tuổi vị thành niên, phạm pháp và tiếp tục sa vào vòng tròn bạo lực gia đình, trở



thành kẻ thủ phạm hoặc nạn nhân.
Báo cáo nghiên cứu đã kêu gọi các Chính phủ và toàn xã hội cần quan tâm hơn
nữa tới nhu cầu của những trẻ em đang sống trong cảnh bạo lực gia đình thông qua việc
tiến hành những chiến dịch giáo dục truyền thông, ban hành và thực thi luật về trừng
phạt tội bạo lực cũng như luật về bảo vệ trẻ em. Các chính phủ cũng cần tăng cường
hơn nữa các dịch vụ xã hội để giải quyết hậu quả của nạn bạo lực đối với trẻ em
2.1.2.2: Ở Việt Nam
Bạo lực với Trẻ em, một vấn đề đang ngày càng phức tạp ở Việt Nam, phát biểu
của Quỹ Nhi đồng Liên Hợp và Uỷ ban Dân số Gia đình Trẻ em tại Diễn đàn Trẻ em.
Hà Nội, Ngày 03 tháng 06 năm 2005: Các đại biểu tham dự Diễn đàn Trẻ em nói về Bạo
lực với Trẻ em đã lắng nghe những thông tin về các trường hợp lạm dụng và bạo lực với
trẻ em đang diễn ra ngày càng phức tạp, cũng như hiện tượng trẻ em chứng kiến bạo lực
gia đình đang gia tăng.
- 46 trẻ em (26 trẻ em trai và 20 trẻ em gái) từ 11 đến 18 tuổi đến từ Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh, Quảng Ngãi, Huế, Ninh Bình đã cùng nhau tham gia vào Diễn
đàn do Uỷ ban Dân số Gia đình Trẻ em Việt Nam (UBDSGĐTE) và
UNICEF tổ chức cùng với Quỹ Cứu trợ Trẻ em Thụy Điển và tổ chức Plan
International. Trẻ em tham gia Diễn đàn bao gồm trẻ em đuờng phố, trẻ em vi phạm
pháp luật cùng với các em hoe sinh phổ thông. Các đại biểu tham dự Diễn đàn đã lắng
nghe những kinh nghiệm của trẻ. Có một câu chuyện về một em đã bị nguời cha nghiện
ruợu đánh đập nhu thế nào vì em không kiếm đủ tiền. Em đã bỏ nhà đi và sống lang
thang trên đuờng phố và sau đó em đã có hành vi vi phạm pháp luật và bị công an phát
hiện và xử lý. Một em khác kể một câu chuyện về việc một nguời bạn thân của em bị
cuỡng bức quan hệ tình dục với một nguời lớn bằng tuổi cha của em. Các em đã sẵp xếp
các hình thức lạm dụng theo thứ tụ phổ biến nhất, và hình thức phổ biến nhất là lạm
dụng thân thể, tiếp đến là lạm dung tình cảm, bắt nạt và lạm dụng tình dục và làm việc
trong điều kiện nguy hiểm. Các em còn sắp xếp các địa điểm bạo lực thuờng xảy ra nhất
và đó là ở nhà, tiếp đến là ở truờng học và ở nơi làm việc.

-

Từ năm 2003, UNICEF cùng với UBDSGĐTE, Quỹ Cứu trợ Trẻ em Thụy


Điển và Plan International đã và đang tiến hành một số nghiên cứu nhằm đánh giá mức
độ bạo lực và lạm dụng trẻ em ở Việt Nam. Một nghiên cứu tiến hành trên 2.800 nguời
tham gia (chủ yếu là trẻ em) ở ba tỉnh An Giang, Lao Cai và Hà Nội vào năm 2003 cho
thấy trừng phạt thân thể (đánh đập) là hình thức bạo lực phổ biến ở gia đình và truờng
học, các hình thức bạo lực khác nhu lạm dụng từ ngữ, bắt nạt và chứng kiến bạo lực gia
đình cũng khá phổ biến.
-

Trong 3 năm từ năm 2005 đến năm 2007, số vụ xâm hại và bạo lực đối với trẻ

em trong gia đình tăng gấp ba lần so với truớc đó. Trung bình mỗi năm, Việt Nam có
114 trẻ chết do bạo hành. Theo thống kê của ngành y tế, số trẻ tử vong do nguyên nhân
này chỉ đứng sau tử vong do tai nạn giao thông và đuối nuớc. Tại thành phố Hồ Chí
Minh, kết quả khảo sát của ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em (truớc đây) cho thấy,
58% trẻ đã từng bị nguời lớn quát mắng, sỉ nhục, tát... khi mắc lỗi. Chỉ riêng khoa Chấn
thuơng chỉnh hình Bệnh viện Nhi Đồng 2 trong năm nay đã tiếp nhận 30 ca bị bạo hành
đến mức phải nhập viện.

Chương 2: Giải thích những khái niệm liên quan
2.2.1: Khái niệm trẻ tuổi vị thành niên
2.2.1.1: Các giai đoạn phát triển của trẻ tuổi vị thành niên
Thời kì vị thành niên là giai đoạn phát triển chuyển tiếp từ lứa tuổi thơ ấu đến
tuổi truởng thành (nguời lớn). Thuật ngữ vị thành niên ám chỉ nhiều hơn đến các đặc
điểm tâm sinh lý, tâm lý-xã hội và nhân cách của thanh thiếu niên, bao gồm cả giới nam
và giới nữ. về mặt sinh lý, vị thành niên là giai đoạn đang lớn, dậy thì có sự truởng

thành về mặt tính dục. về mặt tâm lý-xã hội, trẻ em lứa tuổi này có những biến đổi nội
tâm phức tạp, muốn tự khẳng định mình.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) lứa tuổi 10-19 tuổi là độ tuổi vị thành niên.
Thanh niên trẻ là lứa tuổi 19-24 tuổi. Chuơng trình Sức khỏe sinh sản/Sức khỏe tình dục
vị thành niên-thanh niên của khối Liên minh châu Âu (EU) và Quỹ Dân số Liên Hiệp
Quốc (UNFPA) lấy độ tuổi 15-24 tuổi. Trên thế giới, các nuớc cũng có quy định về độ
tuổi thanh niên khác nhau:nhiều nuớc quy định từ 18 đến 24 tuổi hoặc 15-24 tuổi, một
số nuớc quy định từ 15 - 30 tuổi, có nuớc quy định tuổi "trần" của thanh niên là 29 tuổi
(Trung Quốc) hoặc 35 tuổi (Bangladesh), thậm chí tới 40 tuổi (Malaysia) Nhu vậy có


thể thấy rằng độ tuổi thanh niên còn đuợc quy định rất khác nhau giữa các nuớc trên thế
giới. Ỏ Việt Nam vị thành niên là lứa tuổi từ 10 đến 18 tuổi. Thanh niên là từ 16 - 24
tuổi. Trẻ em đuợc luật pháp bảo vệ chăm sóc giáo dục là duới 16 tuổi, về mặt luật pháp
vị thành niên là duới 18 tuổi.
Trẻ em buớc vào tuổi vị thành niên bằng những dấu hiệu của tuổi dậy thì. Tuổi dậy thì
đối với nữ đuợc tính từ khi xuất hiện kinh nguyệt lần đầu tiên (khoảng 13 - 14 tuỏi), còn
đối với nam kể từ khi xuất tinh lần đầu tiên (khoảng 14-15 tuổi). Tuổi dậy thì còn tuỳ
thuộc vào dân tộc (châu Á sớm hơn châu Âu), nơi sinh sống (thành thị sớm hơn nông
thôn), mức sống (bây giờ sớm hơn truớc đây). Các nhà Dân số học cho biết, ngày nay
đối với toàn thế giới tuổi dậy thì đến sớm hơn nhiều: nữ lên 10, nam 12 - 13, trường hợp
cá biệt có thể đến sớm hơn hoặc muộn hơn bình thường.
Tuổi dậy thì là tuổi có khả năng sinh sản, nhưng cơ thể các em vẫn ở vào tuổi vị thành
niên nghĩa là chưa chín muồi về sinh dục, chưa ổn định về mặt tâm sinh lý và chưa thể
làm cha, làm mẹ được. Vì vậy, chúng ta phải giáo dục sức khoẻ sinh sản, tạo điều kiện
cho các em vị thành niên qua được giai đoạn khủng hoảng của tuổi dậy thì để trở thành
người lớn thực sự.
Các nhà nghiên cứu sinh lý, tâm lý chia lứa tuổi này thành 3 giai đoạn:
-


Giai đoạn đầu vị thành niên: tương đương với tuổi thiếu niên, nam từ 12- 14

tuổi, nữ từ 11-12 tuổi, giai đoạn này ngoài những biến đổi về sinh học còn có những
biến đổi đặc trưng về tâm lí
-

Giai đoạn giữa tuổi vị thành niên: tương đương với tuổi thiếu niên nam 15-17

tuổi, nữ 13-16 tuổi, giai đoạn này, đa số các em đang học trong các trường phổ thông
trung học trong cả nước
-

Giai đoạn cuối vị thành niên: tương đương với lứa tuổi đầu thanh niên. Nam

từ 17-18 tuổi, nữ từ 16-18 tuổi. Đây là giai đoạn sau dậy thì, các em đã trở nên giống
với người lớn hơn về nhiều phương diện
Thông qua sự phân chia trên, tôi tán thành quan điểm và xác định lứa tuổi vị thành niên
là độ tuổi từ 11-18 tuổi. Nhưng trong bài niên luận này, tôi sẽ chỉ dừng lại nghiên cứu về
giai đoạn đầu tuổi vị thành niên tức là độ tuổi 11-14 tuổi.


2.2.1.2: Sự phát triển tâm- sinh lỷ của trẻ đầu tuổi vị thành niên
Giai đoạn đầu tuổi vị thành niên tức là ở độ tuổi 11-14 tuổi. Ỏ độ tuổi này, các em đang
là học sinh lớp 5,6,7,8.
* Những đặc điểm về mặt sinh lý:
Ỏ giai đoạn này, trẻ có một sự thay đổi về mặt cơ thể, đó là hiện tượng dậy thì.
Dậy thì gồm 2 giai đoạn là tiền dậy thì và dậy thì đầy đủ. Trẻ em ở lứa tuổi đầu tuổi vị
thành niên là lứa tuổi mới bước vào giai đoạn tiền dậy thì. Trong sự phát triển về thể
chất và phát dục, các em gái sớm hơn các em trai 1-2 năm nên ở giai đoạn đầu, một số
em gái cao hơn, đầy đặn hơn em trai. Thân hình thấp lúc 12- 13 tuổi thuờng gây cho các

em trai cảm giác khó chịu, đó là cảm giác thua kém bạn bè, còn các em nữ thì đôi khi vì
chua quen với sự thay đổi của bản thân nên các em cũng luôn cảm giác ngại ngùng, khó
khăn, nhất là những em có chiều cao, thân hình vuợt hẳn so với các bạn cùng tuổi. Lúc
này, hệ thần kinh của trẻ phát triển khá hoàn chỉnh về chất luợng nhung các quá trình
hung phấn thuờng mạnh hơn các quá trình ức chế nên trẻ dễ bị kích động, khó kiềm chế
hành động và tình cảm của bản thân.
Ỏ đầu tuổi vị thành niên, các quá trình thần kinh hung phấn của vỏ não mạnh và
chiếm uu thế, nên nhiều khi thiếu niên không làm chủ đuợc bản thân, không kiềm chế
đuợc cảm xúc mạnh. Sự cải tổ của các cơ quan nội tiết với mối tuơng quan của hệ thần
kinh là cơ sở gây ra tính mất cân bằng chung, tính dễ bị kích thích, dễ nổi nóng, gây gổ,
tính hiếu động, tính uể oải, và thờ ơ có chu kỳ ở tuổi đầu vị thành niên. Điều này do
những yếu tố của tuổi dậy thì chi phối, nó sẽ gây ra sự mất cân bằng tạm thời và một số
khó khăn trong hoạt động của trẻ.
* Những đặc điểm về mặt tâm lý:
So với sự phát triển về mặt sinh học thì sự phát triển về tâm lý-xã hội chậm hơn
một buớc. Đặc biệt là trong kinh tế xã hội hiện nay: số con trong mỗi gia đình ít, đời
sống kinh tế khá giả hơn, các em đuợc bố mẹ và nguời thân lo cho đầy đủ, thời gian học
tập nhiều hơn, tuổi lao động chậm lại...nên sự phát triển tâm lý ngày càng chậm. Tuy
nhiên, cái “tôi” của các em phát triển thêm một buớc, tuơng đối hoàn thiện. Ở tuổi
này,các em có xu huớng tách ra, ít phụ thuộc vào cha mẹ. Các em có tâm lý “muốn làm
nguời lớn, coi mình là nguời lớn”. Các em không còn đòi đi chung với cha mẹ, muốn tự


chọn bạn, muốn đuợc ăn mặc theo ý thích, muốn đuợc thức khuya. Các em cảm thấy
hình nhu cha mẹ chua nhận thấy mình “đã lớn”và không hiểu đuợc tâm tu tình cảm của
mình. Các em không còn hay tâm sự với cha mẹ, muốn độc lập trong suy nghĩ và hành
động nên nhiều khi chống đối lại cha mẹ và chuyển từ sinh hoạt gia đình sang sinh hoạt
bạn bè, nguỡng mộ thần tuợng. Nhu cầu tự khẳng định mình của các em rất cao, lòng tự
trọng và danh dự bản thân dễ bị tổn thương. Một đặc điểm nổi bật của lứa tuổi này là
hoạt động hoạc tập và giao tiếp với bạn bè cùng độ tuổi là chủ đạo.


2.2.2: Khái niệm Bạo hành
2.2.2.1: Khái niệm bạo hành
Bạo hành hay bạo lực là từ được dịch ra từ tiếng nước ngoài (violence), vì vậy
cũng chưa có văn bản nào thống nhất cách gọi.
Khái niệm bạo hành(bạo lực) vẫn thường được hiểu theo nghĩa hẹp của chuyên ngành
chính trị học. Với cách định nghĩa như vậy thì bạo lực vẫn thường được hiểu với tính
chất của một phương thức vận động chính trị “bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp lật
đổ”(Từ điển Tiếng Việt, 2003).”Bạo lực là sức mạnh dùng để trấn áp, chống lại lực
lượng đối lập hay lật đổ chính quyền”(Đại Từ điển Tiếng Việt, 1998). Tuy nhiên không
phải mọi hình thức trong xã hội đều mang tính chính trị, đều hướng vào việc lật đổ các
đảng phái chính trị. Người ta có thể dùng bạo lực để hành xử với nhau trong cuộc sống
hàng ngày vì rất nhiều lí do như: để giải quyết một sự bất hoà trong quan hệ xã hội, một
sự tranh chấp quyền lợi giữa hai người hàng xóm, một vụ va chạm giao thông, mâu
thuẫn về tình cảm...Bạo lực là một hiện tượng xã hội, nó là phương thức hành xử trong
các mối quan hệ xã hội và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử.
Như vậy, khái niệm bạo hành có thể hiểu như sau:
Bạo hành là việc đe doạ hay dùng sức mạnh thể chất, quyền lực đối với người
khác hoặc một nhóm người, một cộng đồng gây ra hoặc làm tăng khả năng gây tổn
thương, tử vong, tổn hại về tâm lý, ảnh hưởng đến sự phát triển gây ra sự mất mát. Hình
thức bạo hành phổ biến nhất mà chúng ta thấy là bạo hành gia đình.


2.2.2.2: Khái niệm bạo hành gia đình
Theo tác giả Hoàng Bá Thịnh thì bạo hành gia đình là các hành vi bạo hành xảy
ra trong phạm vi gia đình, đó là sự xâm phạm và ngược đãi về thân thể, tinh thần hay
tình cảm giữa các thành viên trong gia đình. Bạo hành trong gia đình là sự lạm dụng
quyền lực một hành động nhằm hăm doạ hoặc đánh đập một người thân trong gia đình
để điều khiển hay kiểm soát người đó
Bạo hành trong gia đình là một hình thức thu nhỏ và đặc biệt của bạo hành xã

hội: sự khác biệt giữa bạo hành gia đình với các dạng thức của bạo hành xã hội là ở chỗ
bạo hành gia đình lại diễn ra giữa những người thân, những người cùng huyết thống,
dưới mái che và ngọn lửa nồng nàn của một gia đình- được coi là tổ ấm của hạnh phúc
và sự yêu thương trìu mến
Bạo hành gia đình dù chỉ diễn ra trong phạm vi gia đình nhưng không dễ dàng
xoá bỏ. Thực tế cho thấy có nhiều dạng thức và các kiểu bạo hành gia đình như bạo
hành của chồng đối với vợ, bạo hành của vợ đối với chồng, bạo hành của bố mẹ đối với
con cái, bạo hành của anh chị em trong gia đình, bạo hành và mối quan hệ mẹ chồng
nàng dâu, bạo hành và mối quan hệ mẹ kế con chồng. Các dạng bạo hành có thể xảy ra
đối với bất cứ thành viên nào trong gia đình, cơ bản có 2 dạng đó là bạo hành thế hệ và
bạo hành giới:
-

Bạo hành thế hệ: Đây là dạng bạo hành phản ánh lại việc xử lý các mối quan

hệ và mâu thuẫn thế hệ trong quá trình thực hiện các chức năng của gia đình. Nó thường
biểu hiện trong những quan niệm và hành vi của ông bà, cha mẹ đối với con cháu và
ngược lại. Về phương diện này thì bạo hành thường diễn ra dạng cha mẹ đánh đập,
trừng phạt, ngược đãi hoặc giết chết con cái, bỏ rơi, đối xử tàn bạo, đánh đập, giết hại
cha mẹ ông bà.
-

Bạo hành giới: là mối quan hệ giữa nữ giới và nam giới trong gia đình mà

trung tâm là mối quan hệ vợ chồng. Nhìn chung bạo hành giới trong gia đình thường
diễn ra dưới dạng vợ chồng dùng sức mạnh và bạo hành trong việc xử lý các mối quan
hệ giữa họ với nhau.
Còn theo tác giả Lê Thị Quý thì bạo hành gia đình có thể phân chia ra làm các dạng
khác



-

Bạo hành thân thể: là những hành vi ngược đãi, đánh đập hoặc sỉ nhục của một

hay nhiều thành viên trong gia đình làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khoẻ tâm thần,
tính mạng của một hay nhiều thành viên khác.
-

Bạo hành tâm lí (bạo hành về tinh thần): là những lời nói, thái độ, hành vi

ngược đãi hoặc sỉ nhục của một hoặc nhiều thành viên làm tổn thương tới nhân phẩm,
sức khoẻ, tâm thần của một hay nhiều thành viên khác. Bạo hành tâm lý cũng còn là sự
áp đặt, chỉ đạo hoặc xâm phạm tới nguyện vọng, ý thức thị hiếu riêng của mỗi người.
-

Bạo hành lao động hoặc kinh tế: là việc dùng sức mạnh để đe doạ, áp đặt hoặc

lừa mị bóc lột lao động, chiếm giữ và kiểm soát tài chính của một hoặc một nhóm người
khác trong gia đình
-

Bạo hành tình dục: là những hành vi cưỡng ép hoặc dùng bạo lực để thoả mãn

tình dục của một người hay một nhóm người đối với một người hoặc một nhóm người
khác. Hành vi này có thể diễn ra một lần hoặc lặp lại nhiều lần.
2.2.3: Bạo hành gia đình đối vói trẻ đầu tuổi vị thành niên
2.2.3.1: Định nghĩa bạo hành trẻ em trong gia đình
Bác sĩ Nguyễn Khắc Viện đã viết trong cuốn từ điển tâm lý: “Gia đình gồm bố,
mẹ, con và có hay không một số người khác ở chung một nhà”. Tính chất của gia đình

thay đổi tuỳ theo biến động của xã hội. Phương thức sản xuất và các thể chế kỷ cương
xã hội chi phối mạnh mẽ tâm lý của các thành viên trong gia đình. Trước đây, gia đình
gắn liền với một cấu trúc xã hội chặt chẽ, sự bền vững của gia đình ít tuỳ thuộc vào tình
tình hay ý muốn chủ quan của từng cá nhân. Còn sự bền vững gia đình ngày nay tuỳ
thuộc chủ yếu vào tính tình và ý muốn chủ quan của từng thành viên, đặc biệt là của hai
bố mẹ. Dù sao, xưa và nay, gia đình vẫn là nơi để cho mỗi thành viên có thể từ tấm bé
bồi dưỡng về vật chất và tinh thần, là chỗ dựa khi cuộc sống ngoài xã hội gặp khó khăn,
gia đình vẫn là “tổ ấm”. Nhưng trong nhiều hoàn cảnh xảy ra, gia đình không còn là tổ
ấm nữa mà mâu thuẫn nội bộ biến gia đình thành “một ung nhọt” gây ra những hiện
tượng bệnh lý về thể chất cũng như tinh thần.
Đe trở thành một con người có nhân cách độc lập trong xã hội, trẻ em phải được
phát triển về cả 3 phương diện: thể chất, trí tuệ và tình cảm, sự phát triển của 3 mặt này
có quan hệ khăng khít và hỗ trợ thúc đẩy nhau. Chính vì vậy, trẻ cần được chăm sóc,


bảo vệ và giáo dục trong một môi trường an toàn, lành mạnh, gia đình là tổ chức xã hội
đầu tiên có khả năng nhất trong việc chăm lo sự phát triển cả 3 phương diện của trẻ. Thế
nhưng, hiện nay có không ít trẻ em phải sống trong sự sợ hãi, lo lắng ngay trong chính
gia đình của mình, đó là bạo hành gia đình và các em có thể là nạn nhân trực tiếp hay
gián tiếp của nó. Nhiều gia đình có những biện pháp giáo dục thô bạo và những hành vi
trừng phạt trẻ diễn ra có thể để lại những hậu quả lâu dài theo suốt cuộc đời của trẻ nhỏ.
Bạo hành trẻ em trong gia đình là những hành vi bạo hành thể chất, tinh thần do
một thành viên lớn tuổi trong gia đình thực hiện mà nạn nhân là trẻ em.
2.23.2: Các hình thức của bạo hành gia đình đối với trẻ đầu vị thành niên
Đối với trẻ em, có hai hình thức bạo hành chính đó là bạo hành về thể xác và về
tinh thần.
* Bạo hành thể xác:
Bạo hành thể xác là những hành vi ngược đãi, đánh đập hoặc sỉ nhục của một
hay nhiều thành viên trong gia đình làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khoẻ tinh thần,
tính mạng của một hay nhiều thành viên khác.

Bạo hành thể xác đối với trẻ em như: đánh đập, gây tổn thương bỏ đói, xâm hại
tình dục hay còn gọi là loạn luân, đầu độc, không chăm sóc về mặt y tế, không đảm bảo
an toàn sinh hoạt nhất là đối với trẻ em dưới 3 tuổi.
Bạo hành về mặt thân thể cũng có nhiều mức độ khác nhau:
- Mức độ nhẹ: Ngắt và/hoặc véo làm cho đau, hậu quả để lại là những vết bầm tím ,
vệt hằn trên da.
- Mức độ vừa: Giật mạnh, kéo, lắc hoặc rứt tóc. Cha mẹ dùng tay, chân (đánh đấm)
hay kết hợp sử dụng các dụng cụ nhỏ như roi, que, thước kẻ, cán chổi...Hậu quả là
làm giảm vận động, trẻ khó hoặc không viết, đi lại bình thường trong một khoảng
thời gian ngắn.
- Mức độ mạnh: cha mẹ sử dụng cụ to như thanh củi, thắt lưng da, thanh sắt...và
gây ra các hậu quả như làm gãy xương và hoặc thương tích bên trong, Làm tàn tật
và hoặc biến dạng vĩnh viễn.
Mức độ cao nhất và cũng để lại hậu quả lớn nhất đó là hành vi giết người


* Bạo hành tỉnh thần
Bạo hành về tinh thần là những lời nói, thái độ, hành vi ngược đãi hoặc sỉ nhục của một
hay nhiều thành viên làm tổn thương tới nhân phẩm, sức khỏe, tâm thần của một hay
nhiều thành viên khác. Bạo hành tâm lý cũng còn là sự áp đặt, chỉ đạo hoặc xâm phạm
tới nguyện vọng, ý thức thị hiếu riêng của mỗi người.
Không giống với bạo hành thể xác, bạo hành tinh thần còn được chia ra thành 2 dạng
nhỏ đó là bạo hành trực tiếp và bạo hành gián tiếp.
-

Bạo hành trực tiếp: có nghĩa là trẻ vị thành niên trực tiếp là nạn nhân bị các

thành viên khác trong gia đình chửi mắng, dùng các từ ngữ thô lỗ, đôi khi phạm đến
nhân cách chỉ trích hành vi sai trái của trẻ. Lăng mạ, sỉ nhục, chửi rủa, ví trẻ như những
con vật hay các hiện tượng xấu xa, ghê tởm.

-

Bạo hành gián tiếp: có nghĩa trẻ không phải là nạn nhân mà chỉ là người chứng

kiến những hành vi bạo hành của thành viên này đối với thành viên khác trong gia đình.
Bất cứ những hành vi bạo lực gia đình nào cũng ảnh hưởng đến sức khỏe và tâm lý của
trẻ. Theo các chuyên gia tâm lý, hành vi bạo lực trong cách cư xử của bố mẹ cũng gây
tác hại to lớn, làm tổn thương tâm thần ở trẻ em, đôi khi kéo dài suốt cả cuộc đời.
Chúng ta có thể không thấu hiểu hết sự đau khổ và nỗi khiếp sợ của những đứa trẻ phải
chứng kiến tình trạng bạo hành gia đình. Hàng trăm đứa trẻ đã nói rằng, chúng chưa
từng có cảm giác sợ hãi điều gì hơn là khi phải chứng kiến những hành vi bạo lực của
cha mẹ.
Một em gái 14 tuổi kể lại: "Từ khi công việc làm ăn sa sút, bổ cháu thường xuyên uổng
rượu say xỉn và quay ra đánh đập, hành hạ mẹ con cháu. Những lúc đó bổ chẳng khác
chi tên côn đồ hung hãn. Bổ nhốt mẹ vào trong nhà mà đánh. Hàng xóm, tổ hoà giải
đến cũng không làm cho bổ thôi hành hạ mẹ. Chúng cháu chẳng thế làm gì được, chỉ
biết khóc và kêu mọi người đến cứu. Hết trận này đến trận khác, biết bao lần mẹ con
cháu phải vắt chân lên cổ mà chạy trốn khỏi cơn giận dữ của bổ. Nhiều đêm bổn mẹ
con phải ngủ ở cái nhà kho bé tí ngột ngạt hoặc cắt lá chuổi nằm ngoài bờ ao. Nếu đêm
nào may mắn được ngủ trong nhà thì giấc ngủ đó cũng không an, bởi nôi ảm ảnh của
những trận đảnh chửi om sòm. Chỉ cần một tiếng động nhỏ là mẹ con cháu tỉnh ngay,
nôi khiếp sợ len lỏi trong từng suy nghĩ, việc làm của chúng cháu. Có gì đảng buồn hơn


khi con cải lại khiếp sợ chỉnh người cha đã đẻ ra mình chứ không phải là ma hay trộm
cướp".
Một em trai khác tâm sự: "Cháu chán sổng lắm rồi, nếu mẹ và em gái cháu không năn
nỉ van xin thì cháu đã bắt tàu ngược lên Lạng Sơn sổng lang thang rồi. Trong gia đình
không phải chỉ có mình cháu bị đánh, cả mẹ và 2 em cháu, cứ trái ý bổ là bị bổ tát, đấm
đá túi bụi. Có lần đứa em út cháu học lớp hai đi mua rượu cho bổ, nó lơ đãng đánh rơi

mất mấy nghìn tiền lẻ liền bị bổ đá cho lộn cổ xuống vũng nước ven đường. Có lần bổ
còn đổ cả phích nước nóng vào lưng cháu, hoặc lấy đèn gỉ vào mặt cháu khiến mặt
cháu bỏng tím bầm, cháu vân chịu đựng. Nhưng có lần bổ đánh mẹ đau quá, cháu van
xin mà bổ vẫn không tha cho mẹ, cháu tức quá xông vào đánh lại bổ để cứu mẹ. Cháu
đã bị bổ đánh thừa sổng thiếu chết vì hành động vô lê đó. Nếu tình trạng này cứ tiếp
diên thì cháu sợ rằng một lúc nào đó cháu sẽ giết bổ cháu mất".
Nguyễn Hoàng Long, học sinh một trường THPT ở quận cầu Giấy, cho biết, trước đây
bố mẹ em cũng hay đánh em và em gái. Khi Long học lên cấp 3 thì việc này không còn
nữa vì bố mẹ cho rằng em đã lớn, đánh đòn không còn tác dụng, thay vào đó là những
lời mắng mỏ, chì chiết. Long tâm sự: "Nhiều khi em thấy đau đớn lắm, bổ mẹ nói những
câu khiến em cảm thấy bị xúc phạm. Bổ mẹ cứ nói em đã lớn phải biết nghe lời, nhưng
chính bổ mẹ chẳng giữ sĩ diện cho tụi em, nhiều câu nói không hề tôn trọng con".
2.2.3.3: Nguyên nhân gây ra bạo hành gia đình
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bạo hành trong gia đình đối với trẻ em đầu tuổi
vị thành niên. Tuy nhiên, hai nguyên nhân dễ nhận thấy nhất đó là hệ tu tuởng Nho giáo
đã ăn sâu vào trong tiềm thức của nguời Việt và bắt nguồn từ những xung đột của các
thành viên trong gia đình.
Thứ nhất, theo quan niệm của Nho giáo_ một hệ tu tuởng đã bắt rễ khá sâu
trong đời sống nguời dân Việt Nam_ cha mẹ có quyền “dạy con từ thủa còn thơ” bằng
mọi hình thức, kể cả roi vọt. Dân gian cũng có câu “yêu cho roi cho vọt” và cho rằng đó
là cách giáo dục hữu hiệu nhất để cho con cái phục tùng mọi ý kiến của cha mẹ và có
thể sửa chữa đuợc sai lầm. Cho đến ngày nay thì nhiều nguời làm cha mẹ vẫn coi việc
hành hạ, đánh đập hoặc sử dụng các hình phạt dã man đối với trẻ là quyền của họ . Khi
trẻ có lỗi, họ đánh. Khi họ đang có những điều không vui vì các mối quan hệ xã hội, họ


đánh. Những cú đánh, cái tát xảy ra thuờng xuyên trong gia đình đuợc coi là hợp pháp.
Chỉ có những vụ việc nghiêm trọng, gây thuơng tật hoặc làm chết trẻ thì mới bị pháp
luật trừng trị. Tuy nhiên, không phải lúc nào pháp luật cũng xử đúng nguời đúng tội.
Chị Hoài Thuơng, ngụ tại ngõ Thổ Quan, Khâm Thiên, Hà Nội nói: "Nếu không đảnh

thì nó không biết sợ, sẽ chang ai bảo được nó cả. Từ xưa đến nay, việc dạy con hữu
hiệu nhất là đe nẹt, có đảnh roi mới tạo được kỷ luật nghiêm khắc và con tôi rất sợ mỗi
khi tôi cầm chiếc roi để bên cạnh". Cũng giống nhu chị Thuơng, nhiều nguời coi chuyện
đánh con, dùng những lời lẽ nặng nề, thậm chí miệt thị con trẻ là chuyện bình thuờng,
bởi "con tôi, tôi có quyền dạy". Nhung họ không hề biết rằng thực tế, phuơng pháp dạy
con bằng hình phạt này sẽ dẫn đến hậu quả rất nặng nề.
Thứ hai, trẻ bị hành hạ, ngược đãi vì những bế tắc hoặc xung đột của cha mẹ.
Với những gia đình mà cha mẹ không còn thương yêu nhau thì trẻ em thường xuyên
phải chịu áp lực từ phía một người hoặc cả hai bởi chính chúng thuộc thành phần “ăn
bám”, “ăn theo”. Hơn nữa, với cơ thể yếu đuối, nhỏ bé, với vị trí thấp kém, chúng luôn
trở thành cái gai, hoặc trở thành chỗ trút giận, là cái thớt khi xảy ra những xung đột.
Trong những trường hợp này, trẻ hầu như không có khả năng tự vệ. Điều đáng chú ý
hơn là nhiều trẻ lúc bị đánh không phải do lỗi của chúng mà chỉ là vì chúng là con của
cha mẹ chúng, nghĩa là khi cha mẹ chúng có nhu cầu cần được giải toả những ẩn ức, tức
giận, xung đột, những mâu thuẫn phức tạp của mình thì họ trút hết vào đứa trẻ. Đã
không có ít trường hợp, một trong hai người cảm thấy bế tắc muốn tìm đến cái chết, họ
cũng tìm cách buộc cho con mình chết theo. Rõ ràng, trẻ đã phải trả giá đắt cho những
vấn đề riêng của người lớn. Những trận đòn oan sẽ hằn sâu trong đời sống tinh thần và
tình cảm của trẻ, làm tổn thương đến quan hệ giữa trẻ với cha mẹ chúng. Và nguy hiểm
hơn, bạo lực gia đình không chỉ đe doạ cuộc sống, sự phát triển về thể chất và tâm lý
của trẻ mà còn đe doạ đến tính mạng các em.
Nếu như phụ nữ chỉ là nạn nhân của nam giới thì trẻ em không những là nạn
nhân của nam giới mà còn là nạn nhân của nhiều phụ nữ. Tình trạng này thường xảy ra
khi người phụ nữ đang phải sống trong hoàn cảnh khó khăn, không thể chống trả được
những người đang hành hạ họ. Họ chỉ còn cách trút hết những nỗi đau, nỗi khổ, nối hận


cho con cái. Những đứa trẻ đáng thương này không những không được bảo vệ từ phía
người cha mà còn bị mẹ chúng đánh đập, giết hại.
Thực tế còn cho thấy, có 2 xu hướng ứng xử của cha mẹ đối với con cái: thứ nhất, đó là

cha mẹ thiếu quan tâm, chăm lo cho con cái hoặc đối xử quá hà khắc. Thứ 2, cha mẹ
quá yêu thương, chiều chuộng con cái: cách Cha mẹ thiếu quan tâm, chăm sóc hoặc
đối xử quá hà khắc thì đã rõ, nó cũng giống như việc trẻ bị ngược đãi cả về tình cảm và
thể chất, chủ yếu xuất phát từ những mâu thuẫn của cha, mẹ. Còn cách ứng xử thứ hai,
đó là cha mẹ quá yêu thưoỉng, chiều chuộng con cái, tưởng chừng như, sự yêu thương
con cái là tốt đối với mỗi đứa trẻ, xong yêu thương như thế nào và yêu thương ra sao
mới là quan trọng. Nhiều bậc phụ huynh vì quá lo lắng cho con mà đôi khi áp đặt con
theo hướng mà mình đã đặt sẵn, không cho con cái được thể hiện cái “tôi” của nó, khiến
cho con cái có cảm giác từ túng, bức bí. Có những gia đình thì lại không bao giờ la
mắng con, luôn tạo điều kiện tốt nhất cho con học tập và phát triển, nhưng trước những
việc làm mang tính chất “thất bại” của con cái như bị điểm kém, thi trượt thì lại có
những biểu hiện buồn phiền, không nói không rằng, không mắng mỏ giáo huấn con cái.
Điều này tưởng chừng như là tâm lý đối với con nhưng thực chất thì lại không phải vậy,
đối với những em có tính nhạy cảm cao thì sẽ luôn thấy thất vọng vì chính bản thân
mình, luôn cảm giác mình là người có lỗi...từ đó mà dẫn đến những hành vi tiêu cực.
2.23.4: Hậu quả của bạo hành gia đình đối với trẻ
Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: nhân cách của bố mẹ và mối quan hệ
của họ có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống tâm lí của con cái. Những người có nhân
cách không tốt khó mà có thể dạy dỗ con cái họ trở thành những người có ích cho xã
hội. Nếu như ở lứa tuổi nhỏ như tuổi nhà trẻ, mẫu giáo...nhân cách của bố mẹ ảnh
hưởng đến con cái thông qua việc bắt chước thì ở lứa tuổi trẻ vị thành niên những ảnh
hưởng này có sự phân hoá. Phần lớn các em chưa có khả năng phân biệt rõ ràng đúng
sai, vẫn bắt chước hành vi của bố mẹ như khi còn nhỏ. Đối với những em có khả năng
đánh giá, nhận xét về người khác tương đối tinh tế, các em nhận ra những điều không
tốt đẹp trong nhân cách của bố mẹ và không còn coi họ là chỗ dựa đáng tin cậy về mặt
tinh thần nữa. Nhiều em vì thế mà hoang mang, mất niềm tin vào cuộc sống.
Không khí gia đình ấm cúng, đầy tình yêu thương giữa các thành viên trong gia


đình luôn là điều kiện cần thiết đối với đời sống tâm lý của mỗi người. Đối với các em ở

lứa tuổi này thì nó còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc để các em yên tâm học tập, sinh
hoạt tập thể, vui chơi với bạn bè. Ngược lại, trong những gia đình mà bố mẹ, những
thành viên trong gia đình có nhiều mâu thuẫn, xung khắc dẫn đến xung đột thì tâm hồn
ngây thơ, non nớt của trẻ rất dễ bị tổn thuơng. Những cuộc chiến tranh lạnh, thái độ
thiếu tôn trọng lẫn nhau, hay những trận cãi vã, xô xát của bố mẹ thuờng làm các em
băn khoăn, khó hiểu và có cảm giác lo lắng, sợ hãi, buồn chán. Sự bất hoà của bố mẹ
còn ảnh huởng rất lớn đến hoạt động học tập của các em.
* Bạo lực gia đình ảnh hưởng đến việc hình thành nhẫn cách của trẻ
Nhân cách của con nguời đuợc hình thành cùng với sự phát triển và hoàn chỉnh
của cơ thể. Giống nhu cây non đuợc trồng nơi đất màu mỡ, có không khí, ánh sáng đầy
đủ sẽ trở thành cổ thụ xum xuê, khoẻ mạnh. Con nguời cũng thế. Trong một gia đình
hoà thuận, êm ấm, một môi truờng xã hội trong sáng, con nguời sẽ phát triển tốt, khoẻ
mạnh về thể chất và tinh thần. Điều tuởng nhu đơn giản này hầu nhu ai cũng hiểu, song
trên thực tế không phải ai cũng thực hiện đuợc.
Học theo khuân mẫu từ cuộc sống xung quanh là một đặc điểm chung của trẻ em. Nguời
xua thuờng cho rằng, “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng”, câu tục ngữ mang tính chất
giáo dục cho đến nay vẫn hoàn toàn đúng, sống trong môi truờng bạo lực, trẻ em cũng
không thể tránh khỏi việc phải tiếp xúc, làm quen, tiêm nhiễm nếp sống bạo lực. Thực tế
cho thấy, hiện nay vẫn có khá nhiều ông bố, bà mẹ không hiểu đuợc rằng việc dùng bạo
lực với con cái là hoàn toàn đồng nghĩa với việc dạy và tập cho chúng quen dần với việc
sử dụng bạo lực với nguời khác nhu bạn bè, thậm chí cả với anh em, họ hàng.
Bạo lực gia đình đã biến nhiều đứa trẻ hiền lành trở nên hung dữ và trong nhiều truờng
hợp chúng dùng cả những hình thức tàn bạo, dã man để đối xử với nguời khác.
Đây là câu chuyện của chị M, 28 tuổi, lấy chồng đuợc 3 năm: "Cuộc sổng gia đình như
địa ngục đối với tôi. Chồng tôi lúc nào cũng giận dữ. Từ ngày sổng với anh ấy, tôi mất
hết tự tin, lúc nào cũng nơm nớp lo sợ. Ngay từ lúc ngủ dậy, nếu anh ấy quờ chân
xuống đất mà không thấy đôi dép đâu (có thể do tôi sơ ý đá vào gầm giường) là có
chuyên ngay. Vào buồng rửa mặt, nếu thuổc đánh răng hết mà chưa kịp mua là tôi lại
giật bắn cả người vì tiếng hỏi gay gắt của chồng. Có lúc anh ấy hét vào mặt tôi một



cách đáng sợ: "Làm sao tôi có thể sổng nổi với một người như cô?". Đáp lại bao nhiêu
săn sóc tận tuy của tôi, anh ấy chỉ có một thải độ thường xuyên bực bội, cảu kỉnh.
Trong nhà tôi như luôn có một "vị chúa tế" không bao giờ hài lòng và một "kẻ nô lệ"
không bao giờ được giải phóng. Những lúc gần gũi nhất, anh đã tâm sự với tôi rằng,
anh lớn lên trong gia đình có ông bố rất hung hãn, luôn đánh đập mẹ. Anh rất căm
ghét bố, nhưng không hiểu tại sao anh lại cư xử cục cằn, thô lỗ giống y như ông ấy.
Nhiều lúc anh thấy căm ghét chính cả bản thân mình... ".
* Bạo hành trong gia đình gẫy ảnh hưởng về thể chất và tình thần đối với trẻ
Đối với trẻ con bị bạo hành hay chứng kiến cảnh bạo hành, chúng thường
tỏ ra dễ giận dữ, gắt gỏng, buồn, chán, ngủ nghê bất thường, sợ bị bỏ rơi một mình,
chểnh mảng trong vệ sinh cá nhân. Nếu bạo hành xảy ra với những đứa bé rất trẻ, chúng
sẽ có những triệu chứng như người lớn sau khi tinh thần bị tổn thương:
- Sợ hãi khi phải đi ngủ
- Thường giựt mình, tỉnh giấc trong lúc ngủ
- Thấy ác mộng
- Chơi đùa ít thấy vui
Khi lớn lên những đứa trẻ này có những hành động “ngoại vi” như là hư hỏng, dễ giận
dỗi, không thích hợp với xã hội; một số khác thì có hành động “nội vi” như lẩn tránh
người khác, nhút nhát, lo sợ. Chúng tỏ ra chán đời, kém thông minh hơn những trẻ khác,
chậm chạp trong sinh hoạt bình thường, lừ đừ, nhủ nghê bất thường, tim đập không đều.
Vì bị bạo hành trực tiếp hoặc gián tiếp, vết thương đã ghi sâu vào tâm trí, nên chúng
không bao giờ quên. Đứa trẻ sẽ tránh xa sự bạo hành, hoặc sẽ nhập cuộc với nó. Những
đứa trẻ nầy thường học hành kém, dễ phạm tội, dính líu tới vấn dề tình dục, rượu chè và
nghiện thuốc... Chúng bào chữa cho hành động của mình và tin rằng làm như vậy là hay
ho, tạo được sự chấp nhận hay nể vì của những đứa bạn cùng trang lứa.
Khi trưởng thành chúng sẽ chán đời, kém tự tin; từ đó chúng có thể trở thành kẻ bạo
hành cũng như có những hành động phạm pháp.
Hiện nay, rất nhiều gia đình đã nhận thấy giá trị và vai trò to lớn của việc cho
con cái học hành thành đạt sẽ giúp đưa gia đình thoát khỏi đói nghèo hoặc đảm bảo một

tương lai tài chính vững chắc cho trẻ. Chính vì vậy việc ép con cái phải học ngày học


đêm đang ngày càng phổ biến trong các gia đình. Các nhà nghiên cứu xã hội cho rằng
đây là một vấn đề đang nổi lên mà thế hệ trẻ VN đang phải đối mặt. Nghiên cứu thực tế
chỉ cho thấy: lứa tuổi vị thành niên phải chịu "áp lực giáo dục " chiếm tỉ lệ cao nhất. Ỏ
các thành phố, hiện tượng này phổ biến hơn so với khu vực ở nông thôn và đây có thể
được xem như một hình thức bóc lột lao động thời hiện đại mà những lợi ích đó là lâu
dài cứ không phải trước mắt. Việc học hành quá sức và áp lực nặng nề trong việc học
tập đã khiến cho con em chúng ta đang sống kém vui tươi và già trước tuổi. Có những
bố mẹ có học thức hẳn hoi, bình thường cư xử rất nhã nhặn nhưng lại không giữ nỏi
bình tĩnh khi con bị điểm kém hoặc không có thành tích cao trong học tập. Thậm chí họ
còn đánh mắng và buông những lời nhục mạ với con cái. Tình trạng này phổ biến đến
nỗi, gia đình nào không đánh, mắng con khi bị điểm kém là một "hiện tượng".
Em Ngọc Diệp - một học sinh trường cấp II tâm sự: “Dù em bị điểm kém thì bổ
em cũng không đánh không mắng mà chỉ bắt em đưa bài điểm kém ra và hỏi xem vì sao
lại như vậy và bắt làm lại cho đúng thì thôi. Các bạn ở lớp thường nói rằng em ó bổ mẹ
như thế là sướng. Còn các bạn ở trong lớp khi bị điểm kém thường hay bị mắng, bị
đánh. Em nghĩ, mỗi lần như thế dù bổ mẹ không đánh mắng nhưng em rất buồn nên em
cảm thấy mình phải cổ gắng hơn ”
Thực tế cho thấy, áp lực giáo dục cha mẹ áp đặt cho các em nhiều khi lại khiến
các em tự đặt ra áp lực cho chính bản thân mình. Vì vậy học viên học tập và kết quả học
tập, đối với nhiều em đã thành gánh nặng tâm lí tinh thần. Nhiều trường hợp đáng tiếc,
nhiều bi kịch đã xảy ra do các em không chịu nổi áp lực và do suy nghĩ còn non nớt là
những minh chứng cụ thể. Nghĩ và lo cho tương lai của các con, đó là các điều mà bất
cứ các bậc làm cha làm mẹ có trách nhiệm nào đều phải tính đến. và tiến thân bằng con
đuờng học hành, đỗ đạt là điều mà hầu nhu ai cũng mong mỏi cho con mình. Nhung sự
mong mỏi nhiều khi thái quá đã khiến nguời lớn chúng ta có tâm lí sốt ruột và biến môi
truờng sống của các em thành môi truờng chỉ biết có học và học:
- “Em mong muổn được đi chơi với các bạn bè nhưng bổ mẹ em lúc nào cũng cấm, bảo

phải học. Ngày nghỉ cũng không được đi chơi”.
-

“Trước đây em cứ nghĩ đảnh trẻ em mới là trừng phạt nhưng bây giờ em đã

biết nếu học lực con cái không tốt mà bắt vào trường chuyên, lớp chọn hay con cái
không thích học toán, lí, hoá mà thích thi khối D nhưng bổ mẹ không cho vì muổn sau


này dễ xin việc., thì đó cũng là trừng phạt trẻ em.... ”
Cha mẹ nào cũng muốn con cái mình có một tuơng lai sáng sủa nhung hạnh
phúc mà con cái chúng ta có đuợc mà lại không đơn thuần là địa vị xã hội đạt đuợc mà
còn là những niềm vui chúng cảm nhận đuợc trong cuộc sống, là lòng tự trọng bản thân
và đuợc sống đúng là chính mình. Anh Vũ Trọng Tuyển ở thành phố Hải Phòng cho
rằng: Trong dạy dỗ con trẻ trong gia đình, trừng phạt thân thể trẻ em hay giáo dục trẻ
bằng đòn roi là việc mà nhiều người thường hay dùng. Nhưng các nhà giảo dục dx chỉ
ra rằng: trừng phạt thân thể trẻ đối với trẻ em thể hiện sự thiếu hiếu biết về các
phương pháp nuôi dạy trẻ một cách hữu hiệu và có ảnh hưởng không tốt tới sự phát
triển toàn diện của trẻ. Việc áp dụng những hình phạt này cũng thế hiện sự thiếu hiếu
biết về tâm lí trẻ của người lớn chúng ta..
Đối với những đứa trẻ tuổi vị thành niên-một lứa tuổi thuờng có những đặc điểm
phát triển tuơng đối đặc biệt so với những giai đoạn khác nhau trong quá trình phát triển
tâm lý của con nguời thì bạo lực gia đình có thể khiến cho các em có những hành vi tự
gẫy tổn thương đến bản thẫn
-

Một trẻ gái 12 tuổi bắt đầu có kinh nguyệt, cảm thấy lo lắng và giận dữ.
Vài tháng sau, trẻ âm thầm cào xuớc da đùi và ngực bằng móng tay hoặc đầu bút
đến chảy máu mỗi khi gia đình bình luận về sự phát triển thể chất của trẻ hoặc
khi trẻ có kinh nguyệt.

- Một trẻ gái 13 tuổi, tự cắt da cánh tay bằng kéo vì buồn bực gia đình không để
trẻ tự do chơi với bạn và ganh tị với anh vì cho rằng mẹ thuơng anh hơn. Khi
đuợc hỏi trẻ có cảm thấy đau khi tụ cắt nhu vậy, thì trẻ trả lời: ”Không, con cảm
thấy thích thú và giảm đuợc nỗi buồn”. Trẻ này đã tụ cắt da 20 lần truớc khi đến
Đơn vị Tâm lý, Bệnh viện Nhi Đồng 1 với những vết sẹo trên cánh tay. Trẻ có
một nguời bạn tụ cắt da mông để không ai thấy vết sẹo.

Từ những năm 1950, nhiều nghiên cứu của các chuyên gia xã hội học đã tổng kết, hình
phạt ít hiệu quả hơn việc hạn chế hành động không tốt của trẻ. Theo đó, các chuyên gia
cho rằng, phạt thuờng xuyên và phạt nặng sẽ đẩy trẻ hu thêm và khuyến khích thái độ
thù nghịch, căm ghét. Trẻ sẽ cứng đầu cứng cổ hơn, thậm chí dễ dẫn đến bắt nạt những
bạn khác ở truờng. Nghiêm trọng hơn trẻ có thể mắc bệnh trầm cảm, rối loạn hành vi...
Nói về những trận đòn của mẹ, em Hồng Minh ngậm ngùi tâm sự: "Thực ra mẹ càng


đảnh em càng lì. Nếu khi nào bị đảnh hoặc mắng mỏ quả thì em cũng tỏ thải độ phản
kháng, làm ngược lại điều mẹ mong muổn. Nhiều lúc em cũng muổn bỏ nhà đi"
Báo cáo sơ bộ của Viện KSND Tp.HCM cho thấy, trong năm 2008 riêng tại
thành phố này có 18 học sinh bị khởi tố bởi các tội danh nghiêm trọng nhu giết nguời,
hiếp dâm, phá hoại tài sản nhà nuớc... Còn theo số liệu thống kê của Viện KSND Tối
cao cho thấy 71% trẻ vị thành niên phạm pháp là do không đuợc quan tâm chăm sóc
đúng mức. Một nghiên cứu của Bộ Công an cũng chỉ ra nguyên nhân phạm tội của trẻ vị
thành niên xuất phát từ gia đình: 8% trẻ phạm tội có bố mẹ ly hôn, 49% phàn nàn về
cách đối xử của bố mẹ. Theo số liệu điều tra 2.209 học viên các truờng giáo duỡng, có
tới 49,81% trong số này sống trong cảnh bị đối xử hà khắc, thô bạo, độc ác của bố mẹ.
số em bị bố đánh chiếm 23% (gấp 6 lần mẹ đánh); bị dì ghẻ, bố duợng đánh chiếm
20,3%.
Qua những ví dụ trên chúng ta có thể thấy, con cái trong những gia đình bố mẹ
cu xử với nhau bằng bạo lực thuờng không có cơ hội tìm thấy sự bình an trong
tâm hồn, khó hoà nhập với cuộc sống cộng đồng trong tương lai, cũng như không sao

khắc phục được tư tưởng trầm uất triền miên trong cuộc sống riêng tư.


PHẦN 3: KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
* Kết luận: Tuổi vị thành niên trải qua nhiều thách thức: muốn sống tự lập, tự
khẳng định nhân thân, thay đổi tâm sinh lý của tuổi dậy thì, áp lực nặng nề của xã hội.
Môi trường lành mạnh trong gia đình, với sự quan tâm đúng mức của cha mẹ đối với trẻ
sẽ giúp trẻ vượt qua những thách thức trên và lớn lên một cách hài hòa, vui tươi. Cách
ứng xử của bố mẹ khi phát hiện ra những sai sót, khuyết điểm của trẻ cũng có ý nghĩa
rất lớn đối với sự phát triển tiếp theo của trẻ. Khi có khuyết điểm, nếu bố mẹ b ình tĩnh
tìm hiểu nguyên nhân, ân cần giải thích, phân tích đúng sai, khuyên giải các em thì chắc
chắn các em sẽ nhận ra được sai sót của mình và cố gắng khắc phục. Nhưng nhiều bố
mẹ khi phát hiện ra khuyết điểm của con cái, không chịu tìm hiểu nguyên nhân đã vội
vàng dùng những từ ngữ nặng nề, thô bạo để lăng mạ, sỉ nhục, thậm chí còn dùng roi
vọt để trừng trị
Hầu hết các bậc cha mẹ đều không hiểu rằng những gì mình đang làm chính là
bạo hành, gây ra những hậu quả nặng nề trong việc phát triển tâm sinh lý và hình thành
nhân cách trẻ. Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Mỹ Linh, Viện Nghiên cứu phát triển TP HCM,
khi được giáo dục, xử sự bằng bạo lực, chính các em cũng sẽ ứng xử bằng bạo lực với
bạn bè, với những người yếu hơn mình. Từ đó, xã hội gánh chịu hậu quả của việc con
người xử sự với nhau bằng bạo lực mà quên đi tình nghĩa, tính nhân văn, lễ nghĩa trong
ứng xử. Việt Nam có Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em và Nghị định 114/CP về
xử phạt các vi phạm hành chính về trẻ em... Đây là những công cụ để xử lý những kẻ
bạo hành, với việc phạt tiền; xử lý hình sự nếu thương tật của trẻ trên 11%, tách trẻ ra
khỏi đối tượng bạo hành nếu việc này lặp đi lặp lại.


* Kiến Nghị: Trong thực tế, ở VN, rất nhiều người còn đồng tình
với việc dạy con bằng roi vọt. Khi con mắc lỗi, nhiều gia đình vẫn
thường xuyên sử dụng các biện pháp trừng phạt thân thể như

đánh con, khoá con ở nhà một mình, thờ ơ với cảm xúc của con
hoặc không cho con tự bày tỏ ý kiến của mình. Để giảm thiểu tình
trạng bạo lực với trẻ, các khuyến nghị về mặt pháp lí được đưa ra
là: xây dựng một định nghĩa nhất quán về lạm dụng trẻ em và
đưa định nghĩa này vào hệ thống pháp luật. Thi hành các biện
pháp phù hợp, kể cả việc cải tổ hệ thống pháp luật nhằm thiết lập
một hệ thống tiếp nhận, giám sát và điều tra các khiếu nại về
hành vi lạm dụng và sao nhãng trẻ em, khi cần thiết, có thể truy
tố các vụ việc này một cách thân thiện với trẻ em. Nghiêm cấm sử
dụng các hình phạt thân thể trẻ em trong gia đình, nhà trường và
những nơi khác có liên quan đến trẻ em. Những vấn đề này đối
với VN còn khá mới mẻ nhưng ở nhiều nước khác nhau trên thế
giới, quyền của trẻ em đã được pháp luật bảo vệ một cách hữu
hiệuTài liệu tham khảo
1, Bạo ỉực gia đình- một sự sai lệch giả trị, Lê Thị Quý-Đặng Vũ Cảnh Linh, Nhà
xuất bản Khoa Học Xã Hội, 2007
2, Trẻ em-Gia đình-Xã hội, Mai Quỳnh Nam, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 2004
3, Tâm lý học phát triển, Grace LCraig, Don Baucum, Bản dịch từ tiếng Nga
4, Tâm lý học phát triển, TS Vũ Thị Nho, nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội,
1999.
5, Tìm hiếu nhận thức của người dân về bạo hành trẻ em trong gia đình, Hoàng Thị
Hậu, Khóa luận tốt nghiệp K49
6, Tài liệu từ Trung tâm Hỗ trợ Xã hội, Sở lao động thương binh xã hội, thành phố Hà
Nội.
7, Bảo Lao Động Cuổỉ tuần sổ 13 Ngày 30/03/2008.
8, Thông tin từ uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đuợc biên dịch


theo trung tâm tin tức Liên hợp quốc (1/8/2006)
9, Các trang web'.

http:// giadinh.net. vn/home/2981p 1016c 1018/suc-khoe-vi-thanh-nien-nhung-dieucan-biet-phan-iii.htm
http ://www. lamchame.com/forum/archive/index.php/t-1814.html


×