TíN DụNG NGâN HàNG Và VAI TRò CủA TíN DụNG NGâN HàNG
TRONG VIệC THựC HIệN CHươNG TRìNH XOá ĐóI GiảM NGHèO
I. NỀN KINH TẾ THI TRƯỜNG. NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT TẬT CỦA NỀN KINH TẾ
THI TRƯỜNG:
Kinh tế thị trường nói chung là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng
hoá giản đơn, do vậy, kinh tế thị trường không phải là hình thái đối lập của
kinh tế hàng hoá. Trái lại, chúng giống nhau về thực chất. Kinh tế thị trường là
một hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá, chịu sự chi phối của các quy
luật kinh tế vốn có của nó hay chịu sự chi phối của cơ chế thị trường tự điều
chỉnh.
1. Những ưu điểm của nền kinh tế thị trường:
Trái với mô hình kinh tế chỉ huy, mọi hoạt động kinh tế ở mô hình kinh tế
thị trường do thị trường tự điều tiết. Chủng loại, quy mô, chất lượng, hình
thức của sản phẩm hàng hoá được quyết định bởi quan hệ cung - cầu của xã
hội và được xác định thông qua sự vận động của các hình thái giá trị, lợi
nhuận, lãi suất, giá cả ...
Những ưu điểm của nền kinh tế thị trường bao gồm:
Thứ nhất: Là nền kinh tế vận hành, điều chỉnh bởi hệ thống thị trường
tổng hợp bao gồm thị trường hàng hoá, thị trường tài chính, thị trường lao
động ... và những mối quan hệ phát sinh trên thị trường chứ không phải do
Nhà nước chỉ huy bằng mệnh lệnh.
Thứ hai: Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đều được tồn tại và
phát triển một cách bình đẳng. Nhà nước chỉ bao cấp cho một số ít đơn vị kinh
tế tuy hiệu quả kinh tế thấp nhưng buộc phải tồn tại do nhu cầu tồn tại và phát
triển của đất nước, các chế độ bao cấp không còn tồn tại.
Đối với các doanh nghiệp quốc doanh, Nhà nước giao chỉ tiêu nộp Ngân
sách, các đơn vị kinh tế đều phải cố gắng để đạt mức lợi nhuận cao nhất .Do
vậy , cạnh tranh chính là động lực phát triển của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba: Khi nền kinh tế chỉ huy, Nhà nước quản lý điều hành nền kinh tế
bằng mệnh lệnh, quan hệ hiện vật là chủ yếu, dẫn đến các quyết định đều duy ý
chí thì nền kinh tể thị trường vận động trên cơ sở của các quy luật kinh tế
khách quan như quy luật giá trị, quy luật lợi nhuận, quy luật cạnh tranh...
Chính điều đó đã buộc các doanh nghiệp phải tôn trọng các mối quan hệ hàng
hoá, thị trường, phải năng động, sáng tạo mới có hy vọng đạt hiệu quả kinh tế
cao nhất. Chính vì vậy, Kinh tế thị trường là một mô hình tổ chức kinh tế phát
huy cao nhất mọi tiềm năng của nền kinh tế, tạo nên sự phát triển mạnh mẽ
của sức sản xuất.
2. Những khuyết tật của nền kinh tế thị trường:
Thứ nhất: Do chạy theo lợi nhuận, các doanh nghiệp đều cố gắng tìm mọi
thủ đoạn để tăng thu nhập, giảm chi phí, bất chấp hậu quả đối với xã hội như:
trốn lậu thuế, kinh doanh các mặt hàng quốc cấm. Cũng do mù quáng chạy
theo lợi nhuận, họ có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội vi phạm các quy luật
tự nhiên khi khai thác làm cho xã hội phải chịu những khoản phụ phí thêm do
khai thác khó khăn hơn, gây ô nhiễm không khí, nguồn nước mà xã hội phải
gánh chịu.
Thứ hai: Cạnh tranh tuy là động lực của phát triển kinh tế, nhưng mặt
trái của nó là tạo nên những rối loạn trong nền kinh tế, gây ra sự bất bình
đẳng trong xã hội, dẫn đến phân hoá giàu nghèo, cản trở việc thực hiện mục
tiêu xã hội nếu quá trình kinh tế không kết hợp với quá trình xã hội và gắn với
mục tiêu xã hội .
Rõ ràng , cơ chế thị trường là cơ chế vận hành tốt nhất điều tiết nền kinh
tế một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, cơ chế thị trường đó không tránh khỏi một
loạt các khuyết tật. Vì vậy, cần thiết phải có sự can thiệp của Nhà nước trong
nền kinh tể thị trường mới có thể có một nền kinh tế phát triển mạnh trên mọi
phương diện.
II. SỰ PHÂN HOÁ GIÀU NGHÈO TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG; HỆ QUAN ĐIỂM
VÀ CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC TA :
1. Sự phân hoá giàu nghèo trong nền kinh tế thị trường :
Bất kỳ một chế độ, xã hội nào khi có sự chiếm hữu khác nhau về tư liệu
sản xuất tất yếu sẽ xuất hiện sự phân hoá giàu nghèo. Sự phân hoá giàu nghèo
trong nền kinh tế thị trường lại càng diễn ra nhanh chóng hơn, bởi kinh tế thị
trường lấy lợi nhuận làm mục tiêu và cạnh tranh là phương thức hoạt động
chủ yếu. Cạnh tranh trong cơ chế thị trường là phương tiện thúc đẩy quá trình
phát triển kinh tế - xã hội. Mặt khác, cạnh tranh cũng làm tăng nhanh sự phân
hoá xã hội; Trong quá trình cạnh tranh, một số người có điều kiện thuận lợi, có
kiến thức kinh doanh, biết đón nhận thời cơ thì trở thành ông chủ doanh
nghiệp giàu lên nhanh chóng, một số người gặp hoàn cảnh khó khăn lâm vào
cảnh đói nghèo và gia nhập đội quân đi làm thuê.
Có thể nói , nghèo đói là hiện tượng phổ biến của nền kinh tế thị trường
và tồn tại khách quan. ở nước ta , quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường
với xuất phát điểm thấp thì tình trạng đói nghèo càng không thể tránh khỏi,
thậm chí trầm trọng và gay gắt. Tình trạng đói nghèo không còn là cá biệt mà
đã trở thành hiện tượng phổ biến ở nông thôn và các vùng khó khăn, miền
núi...
2. Chuẩn mực phân loại hộ nghèo ở nước ta hiện nay:
Tại quyết định số 1143/ 2000 - LĐTBXH ngày 1/11/2000 của Bộ Lao
động - Thương binh và xã hội điều chỉnh chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2001 -
2005 theo mức thu nhập bình quân đầu người trong hộ cho từng vùng như sau
:
- Vùng nông thôn miền núi hải đảo : 80.000đ/tháng (960.000đ/năm)
- Vùng nông thôn đồng bằng : 100.000đ/tháng (1.200.000đ/năm)
- Vùng thành thị : 150.000đ/tháng (1.800.000đ/năm).
3. Những quan điểm mục tiêu và giải pháp của Đảng và Nhà nước ta về xoá
đói giảm nghèo:
3.1. Quan điểm và phương châm xoá đói giảm nghèo của Đảng và
Nhà nước ta:
Để thúc đẩy mặt tích cực đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của nền
kinh tế thị trường, tất yếu phải có vai trò của Nhà nước. Cho đến nay, tất cả
các quốc gia đã phải coi việc giải quyết vấn đề nghèo đói như một chiến lược
xây dựng kinh tế - xã hội toàn cầu. ở nước ta, vấn đề xoá đói giảm nghèo được
Chính phủ và các cấp, các ngành quan tâm đặc biệt và có sự nhất trí cao về
mục tiêu. Giải quyết vấn đề đói nghèo ở nước ta, không chỉ đòi hỏi về mặt xã
hội mà còn đòi hỏi của vấn đề kinh tế. Bởi vì, nền kinh tế không thể tăng
trưởng một cách bền vững mỗi khi trong xã hội vẫn tồn tại lớp người nghèo
đói khá đông. Chúng ta hiện nay có trên 15% số hộ nghèo đói, trong đó 90% là
ở nông thôn, còn 1,700 xã nghèo đói và là một trong 18 nước nghèo đói nhất
thế giới.
Trước tình hình hiện tại, bước vào cơ chế mới, sự phân hoá giàu
nghèo ở nước ta đang diễn ra rất nhanh, nếu không tích cực XĐGN và giải
quyết các vấn đề xã hội khác thì khó có thể đạt được mục tiêu xây dựng
một cuộc sống ấm no về vật chất, tốt đẹp về tinh thần, vừa phát huy truyền
thống văn hoá cao đẹp của dân tộc vừa tiếp thu những yếu tố lành mạnh
của thời đại. Chính vì vậy, Nghị quyết đại hội VIII của Đảng đã xác định
mục tiêu XĐGN là một trong 11 chương trình phát triển kinh tế xã hội, Bộ
Chính trị đã có chỉ thị 23/CT-TW về lãnh đạo công tác xoá đói giảm nghèo,
đầu năm 1998 Chính phủ quyết định XĐGN là một trong 7 chương trình
quốc gia.
Các quan điểm và phương châm xoá đói giảm nghèo bao gồm:
Một là: Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với XĐGN.
Hai là: Phải hỗ trợ để làng, xã và người nghèo tự vươn lên là chính: Làng ,
bản , xã là cấp chủ yếu tổ chức xây dựng và triển khai chương trình trực tiếp
đến hộ, đến khu dân cư. Đây là vấn đề kinh tế - xã hội nên phải xã hội hoá công
tác này.
Ba là: Nâng cao vai trò của Nhà nước về cơ chế chính sách và phát huy
các nguồn lực cho XĐGN và cho xã nghèo, vệt nghèo ở vùng cao biên giới hải
đảo.
Bốn là: XĐGN là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, các tổ chức đoàn thể,
ngành Lao động - Thương binh xã hội là cơ quan tham mưu quản lý Nhà nước
trong phạm vi trách nhiệm.
Năm là: Tập trung giúp hộ khó khăn trước, xã nghèo nhất trước, tập
trung vào khu vực 4 của miền núi rồi mở rộng tiếp.
- Làm chắc từng hộ, từng xã, phát hiện và hỗ trợ kịp thời số hộ “tái nghèo”
xây dựng và nhân mô hình thành đạt của hộ, xã về XĐGN.
- Có một chương trình độc lập về XĐGN, đồng thời lồng ghép các chương
trình, dự án kinh tế - kỹ thuật về hỗ trợ nguồn lực cho XĐGN.
Phát huy hợp tác quốc tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài trợ trước
hết là hỗ trợ các tỉnh khó khăn.
3.2. Mục tiêu xoá đói giảm nghèo giai đoạn 1998-2000 và những
năm tiếp theo - Các giải pháp:
a. Mục tiêu :
- Giảm tỷ lệ đói nghèo trong tổng số hộ của cả nước xuống còn dưới 10%
vào sau năm 2000; bình quân giảm 300 ngàn hộ/ năm. Giảm tỷ lệ hộ nghèo ở
các xã đặc biệt khó khăn xuống còn 20 - 25% vào năm 2005.
- Bảo đảm cung cấp cho đồng bào có đủ nước sinh hoạt; thu hút trên 70%
trẻ em trong độ tuổi đến trường; đại bộ phận đồng bào được bồi dưỡng, tiếp
thu kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học, văn hóa, xã hội, chủ động vận
dụng vào sản xuất và đời sống; kiểm soát được phần lớn các dịch bệnh xã hội
hiểm nghèo; có đường giao thông cho xe cơ giới và đường dân sinh kinh tế đến
các trung tâm cụm xã; thúc đẩy phát triển thị trường nông thôn.
b. Các giải pháp:
Bao gồm 3 nhóm giải pháp chính:
* Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách: Cần nghiên cứu, hoàn thiện các cơ
chế, chính sách liên quan đến nghèo đói, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến