Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH NHCT BA ĐÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.92 KB, 24 trang )

GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI
NHÁNH NHCT BA ĐÌNH.
I. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHCT
BA ĐÌNH.
1. Vai trò của nguồn vốn đối với nền kinh tế.
Vốn là một nhân tố quan trọng trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, nhất là trong hoàn cảnh nước ta có nền kinh tế kém phát triển và khoa học
kĩ thuật còn lạc hậu so với thế giới thì vốn lại càng đặc biệt quan trọng. Đảng
ta đã nhận định không chỉ trông chờ vào vốn bên ngoài mà phải “phát huy cao
độ nguồn nội lực” để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xây dựng nền kinh
tế phát triển mạnh và cân đối giữa các nghành. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
phải gắn liền với xây dựng một thị trường tài chính hoạt động có hiệu quả, trở
thành công cụ phục vụ đắc lực cho công cuộc đổi mới kinh tế, thông qua chức
năng là trung gian luân chuyển và huy động vốn cho đầu tư phát triển. Trong
chiến lược phát triển kinh tế Đảng ta đã chỉ rõ "Chính sách tài chính quốc gia
hướng vào nguồn tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng
nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, điều tiết quan hệ tích luỹ, tiêu
dùng theo hướng tăng dần tỷ lệ tích luỹ…"Với mục tiêu phát triển nhanh và
vững chắc, trong đó mục tiêu huy động vốn phải gắn liền với mục tiêu phát
triển kinh tế, huy động tối đa mọi nguồn lực trong xã hội, duy trì tỷ lệ huy động
9- 10%/năm, trong đó chú trọng huy động nguồn nội lực (chiếm 60-70% tổng
nguồn vốn huy động) nhằm tránh tình trạng gánh nặng nợ nước ngoài quá
cao sẽ làm ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế. Đơn vị trọng điểm thực hiện chủ
trương này là ngành ngân hàng, trong đó hệ thống ngân hàng thương mại
chiếm vai trò tối quan trọng. Ngành ngân hàng bằng mọi biện pháp phải đẩy
mạnh huy động vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phục vụ cho đầu tư phát triển ,
đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, bởi đây là nguồn vốn sử dụng cho đầu
tư lâu dài và khả năng luân chuyển vốn lớn.
Với mục tiêu từ nay đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp, vì vậy tập trung mọi nguồn lực, phát huy nội lực, thực hiện tích
lũy cho đầu tư là vấn đề cấp thiết được đặt ra. Đây không chỉ là vấn đề của


riêng nước ta mà theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới khi bước vào
giai đoạn đầu của công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì không nước nào lại không
ở tình trạng thiếu vốn đầu tư. Thực tế, tốc độ công nghiệp hoá- hiện đại hoá
của mỗi nước phụ thuộc vào mức độ, cách thức tạo vốn khả dụng của chính
nước đó. Vì thế, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, mỗi quốc gia tự tìm cho mình biện
pháp phù hợp để có thể huy động vốn và sử dụng vốn một cách hiệu quả nhất,
phục vụ cho sự tăng trưởng kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cơ sở.
Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của nước ta có lợi thế của một nước đi
sau trong việc tạo vốn để giải quyết có hiệu quả các vấn đề kinh tế xã hội, công
nghệ kỹ thuật, môi trường sinh thái kế thừa từ các nước công nghiệp đã phát
triển… Chính vì vậy chúng ta phải tranh thủ thời cơ và tiến hành công cuộc đó
một cách nhanh chóng và vững chắc.
Nhận định, phân tích một cách chính xác tình tình trong và ngoài nước,
lựa chọn khéo léo cách thức tạo vốn tối ưu cho nền kinh tế "mở" đang tăng
trưởng tích cực ở nước ta. Vì thế cần xác định rõ ràng nguyên nhân của các
hạn chế và thành công trong quá trình tạo vốn cho công nghiệp hoá- hiện đại
hoá ở một số nước không nằm trong việc sử dụng nguồn vốn nào mà chính
việc chọn mô hình tăng trưởng kinh tế và hoạch định thực thi các chính sách
kinh tế vĩ mô trong đó có chiến lược huy động vốn và sử dụng vốn mà nước đó
theo đuổi.
Hơn bao giờ hết, nhiệm vụ tạo vốn phục vụ cho công nghiệp hoá- hiện đại
hoá đất nước đang là thách thức rất lớn đối với tất cả các ngành, các cấp
trong đó có ngành ngân hàng. Khó khăn đối với nền kinh tế nước ta hiện nay là
ngân sách Nhà nước vẫn còn bị thâm hụt, thị trường tiền tệ phát triển chậm
chạp, một lượng vốn nhàn rỗi khá lớn trong nền kinh tế mà ngân hàng vẫn
chưa tận dụng khai thác hết; mức độ đảm bảo an toàn, phòng ngừa rủi ro
trong hoạt động kinh doanh tiền tệ còn thấp, môi trường pháp lý chưa kiện
toàn hoàn chỉnh; trình độ quản lý nợ và viện trợ nước ngoài, đầu tư xây dựng
cơ bản còn bất cập; sức cạnh tranh về hàng hoá về thu hút vốn đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam trên thị trường quốc tế còn hạn chế. Do vậy để khắc phục

những khó khăn trên, chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà ngân hàng
tiếp tục triển khai sẽ căn cứ vào quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay
về công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trong đó vấn đề phát triển khoa học công
nghệ trên cơ sở dựa vào nguồn lực trong nước, đi đôi với mở rộng và hợp tác
quốc tế nhằm khai thác có hiệu quả nguồn lực bên ngoài mà quan trọng nhất
là cần đa dạng hoá mọi nguồn vốn cho công nghiệp hoá- hiện đại hoá theo định
hướng đề ra.
2. Định hướng trong công tác huy động vốn.
Với nền kinh tế nước ta đang chịu ảnh hưởng của tình hình kinh tế trên thế
giới có nhiều biến động trong một vài năm qua làm cho hoạt động thu hút vốn
đầu tư nước ngoài đang gặp khó khăn, tốc độ tăng trưởng kinh tế có dấu hiệu
chững lại, thì việc tăng cường khai thác nguồn nội lực từ bên trong là một giải
pháp hết sức cần thiết và cấp bách, để tiếp tục giữ vững được tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao đã đạt được trong nhiều năm qua. Mặt khác, một trong
những vấn đang được dư luận chú ý - đặc biệt là ngành ngân hàng – là việc
Tổng Công ty Bưu chính – Viễn thông đã được Thủ tướng Chính phủ cho phép
thực hiện dịch vụ tiết kiệm Bưu điện theo quyết định 215/1998/QĐ-TTg để bổ
sung nguồn vốn đầu tư phát triển dưới hình thức có kì hạn và không kì hạn. Kể
từ khi quyết định trên đưa vào cụ thể hóa đã đạt được những kết quả nhất
định. Đây là một đối thủ cạnh tranh nặng kí của ngành ngân hàng, bởi vì Bưu
Điện có nhiều lợi thế hơn ngành ngân hàng về mạng lưới bưu cục rộng khắp
trên cả nước và khả năng kết nối mạng chuyển tiền cho phép khách hàng gửi
và rút ở nhiều nơi…nhất định sẽ có ảnh hưởng bất lợi đến nguồn vốn hoạt
động trong tương lai của ngành ngân hàng.
Hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần nước ta hiện nay chưa đủ mạnh,
thời gian, kinh nghiệm hoạt động chưa nhiều, nguồn vốn hoạt động phần
nhiều dựa vào vốn huy động tiết kiệm của dân cư phải trả lãi cao là chủ yếu.
Do đó thời gian này ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong công tác huy động
vốn. Nhất là những vụ rò rỉ thông tin gần đây về những sai phạm trong hoạt
động tín dụng bảo lãnh của một vài NHTM cổ phần càng chưa thể giải tỏa mối

hoài nghi của công chúng về thực trạng tài chính của hệ thống ngân hàng này.
Nhìn chung tình hình kinh tế nước ta trong thời gian qua có những bước
phát triển vượt bậc, tuy nhiên vẫn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Đời sống của
người dân mặc dù được nâng cao đáng kể, nhưng mức thu nhập đầu người
còn thấp, mới chỉ ở mức xấp xỉ 400 USD/ người/năm, do vậy tỷ lệ tích lũy vốn
còn thấp, dẫn đến khả năng huy động vốn cho đầu tư phát triển bị hạn chế. Để
đạt được mục tiêu hàng năm đề ra trong công tác huy động vốn, các ngân
hàng phải nỗ lực hết mình và có những chính sách, giải pháp cụ thể nhằm
khắc phục khó khăn, vượt qua thách thức. Trên cơ sở phân tích và rút kinh
nghiệm từ kết quả hoạt động kinh doanh trong những năm qua, nhất là năm
2002, chi nhánh đã đề ra phương hướng, mục tiêu và giải pháp thực hiện
nhiệm vụ kinh doanh trong năm 2005 và những năm tới như sau:
- Tạo nguồn nhân lực và triển khai tiếp cận nhanh công nghệ ngân hàng
hiện đại, thực hiện các giải pháp nâng cao năng lực tài chính và trình độ quản
lý điều hành tác nghiệp trên cơ sở sắp xếp phân loại cán bộ theo các tiêu chí:
năng lực, trình độ, nhận thức và phẩm chất đạo đức, từ đó có hướng đầu tư
bồi dưỡng và đào tạo đáp ứng những đòi hỏi của quá trình cải cách và hiện đại
hoá công nghệ ngân hàng.
- Cụ thể hoá và hoàn thiện các quy trình, quy chế điều hành hoạt động
của chi nhánh với phương châm tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa các bộ phận,
phòng ban nhằm gắn mối liên hệ trách nhiệm- hiệu quả trong hoạt động kinh
doanh với lợi ích người lao động.
- Tiếp tục từng bước mở rộng thị trường với phương châm phát triển ổn
định vững chắc nhằm tăng thêm thị phần trong kinh doanh, đảm bảo chất
lượng tín dụng lành mạnh, nâng cao năng lực tài chính, thích ứng nhanh nhạy
trong quá trình hội nhập đáp ứng có hiệu quả lộ trình cơ cấu lại NHCT Việt
Nam giai đoạn 2005-2010.
- Kiên trì thực hiện và có bài bản trong từng thời điểm cụ thể, chiến lược
khách hàng gắn với việc làm tốt công tác xã hội hoá hoạt động ngân hàng, tạo
mối quan hệ bình đẳng cùng có lợi giữa ngân hàng và khách hàng để cùng

phát triển, góp phần thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Nâng cao năng lực quản lý điều hành tác nghiệp, cũng như trình độ
nghiệp vụ cho cán bộ viên chức phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được phân
công trên cơ sở chú trọng công tác đào tạo, đào tạo lại kỹ năng nghiệp vụ và
các kiến thức bổ trợ, đào tạo các nghiệp vụ mới. Phổ cập trình độ tin học cho
100% cán bộ công nhân viên chức trong năm 2003, đến năm 2005 có 30% cán
bộ viên chức cơ quan đạt trình độ đại học tại chức tiếng Anh, đáp ứng yêu cầu
tiếp cận kỹ thuật, công nghệ ngân hàng hiện đại.
- Có sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể làm tốt
công tác phát động và triển khai thực hiện các phong trào thi đua đặc biệt là
các phong trào thi đua xây dựng ngân hàng trong sạch vững mạnh, phong trào
2 giỏi, thi đua hoàn thành kế hoạch kinh doanh các năm. Có quy định để
khuyến khích tập thể, cá nhân thực hiện tốt và kiên quyết xử lý những vi phạm.
Thực hiện tốt quy định khoán tài chính đến nhóm và người lao động nhằm tạo
động lực trong kinh doanh.
- Thường xuyên chú trọng công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ để phát
huy những mặt làm tốt, chấn chỉnh kịp thời những hạn chế. Thực hiện tốt quy
chế dân chủ tạo không khí thân ái, đoàn kết nhất trí trong tập thể cán bộ viên
chức cơ quan, để cùng hoàn thành tốt nhiệm vụ chung.
Đề án chiến lược nguồn vốn của NHCT Việt Nam giai đoạn 2005 - 2010
đã đặt ra mục tiêu tổng quát cho công tác huy động vốn của ngân hàng là:
“Tiếp tục duy trì những phương thức huy động truyền thống đồng thời đẩy
nhanh việc áp dụng các sản phẩm mới về huy động vốn đa dạng, phong phú,
hiện đại. Phấn đấu đạt mức tăng trưởng nguồn vốn với nhịp độ cao và bền
vững, cân đối với nhịp độ tăng trưởng tín dụng và các hoạt động khác, điều
chỉnh và duy trì cân đối về cơ cấu nguồn vốn, thời hạn, lãi suất, nhằm đưa
NHCT Việt Nam phát triển không ngừng, trở thành một ngân hàng lớn mạnh ở
Việt Nam và trong khu vực”.
Quán triệt định hướng kinh doanh của NHCT Việt Nam, căn cứ vào định
hướng, mục tiêu, giải pháp thực hiện kinh doanh năm 2004 – 2005 và những

năm tới và căn cứ vào tình hình kinh doanh thực tế trên địa bàn Hà Nội, NHCT
Ba Đình đã xây dựng phương hướng, nhiệm vụ thực hiện trong thời gian tới là
huy động vốn ngày càng tăng cả về số lượng và chất lượng đồng thời với việc
mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của
khách hàng. Cụ thể như sau:
- Tiếp tục từng bước mở rộng thị trường với phương châm phát triển ổn
định, vững chắc nhằm tăng thêm thị phần, đảm bảo mạng lưới được bố trí
thích hợp, rải đều trên các địa bàn hoạt động của ngân hàng để từ đó nghiên
cứu, áp dụng những hình thức huy động vốn mới vào hoạt động nhằm nâng
cao hiệu quả huy động vốn và năng lực tài chính, thích ứng nhanh trong quá
trình hội nhập, đáp ứng có hiệu quả lộ trình cơ cấu lại NHCT Việt Nam giai
đoạn 2005 – 2010; Kiên trì thực hiện có bài bản trong từng thời điểm cụ thể
chiến lược khách hàng gắn với việc làm tốt công tác xã hội hoá hoạt động ngân
hàng, tạo mối quan hệ bình đẳng cùng có lợi giữa ngân hàng và khách hàng;
thu hút các tầng lớp dân cư có tiền nhàn rỗi lớn, ổn định thông qua chính sách
ưu đãi của chi nhánh.
- Tìm kiếm nguồn tiền gửi từ các dự án đầu tư của các bộ, ngành và các
dự án giải toả nhằm tăng cường nguồn tiền gửi không kỳ hạn với chi phí thấp.
II. GIẢI PHÁP NÂNG TĂNG CƯỜNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI CHI NHÁNH
1. Hoàn thiện công nghệ ngân hàng.
Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, sự thành bại phụ thuộc rất lớn
vào công nghệ ngân hàng. Sức mạnh nằm trong tay những ngân hàng đặc
quyền về thông tin, có hệ thống thanh toán hiện đại…Hiện nay, ngành ngân
hàng đã sử dụng công nghệ tin học khá rộng rãi với nhiều loại máy hiện đại, có
một đội ngũ cán bộ chuyên gia về máy tính đông đảo, tạo cơ hội sử dụng tối ưu
nguồn vốn và huy động ngày càng nhiều nguồn. Để bắt kịp với nhịp độ đó, Chi
nhánh NHCT Ba Đình cần coi trọng củng cố và kiện toàn phương tiện giải
quyết mọi nhu cầu thanh toán; chuyển từ hình thức bán tự động sang tự động
hoàn toàn một số khâu thanh toán chủ yếu. Nâng cao hiệu suất giao dịch, phục
vụ nhanh và đúng khách hàng trong các khâu thanh toán bù trừ, vận hành thị

trường liên ngân hàng bằng điện tử; tăng cường cung cấp dịch vụ thẻ điện tử
(cung cấp dịch vụ ngân hàng tại nhà, lắp đặt máy rút tiền tự động tại các điểm
giao dịch), thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT, đồng thời nâng cao chất
lượng dịch vụ ngân hàng hiện có, chú trọng nghiên cứu phát triển sản phẩm,
dịch vụ mới đáp ứng nhu cầu được phục vụ ngày càng lớn, đòi hỏi ngày càng
cao của khách hàng. Sẽ làm cho công tác thanh toán không dùng tiền mặt của
chi nhánh được thực hiện ngày càng tốt hơn, từ đó sẽ thu hút các thành phần
kinh tế và các tầng lớp dân cư mở tài khoản, gửi tiền và sử dụng dịch vụ thanh
toán của chi nhánh. Mặt khác, với việc làm tốt công tác thanh toán sẽ tạo
thuận lợi rất lớn cho hoạt động tín dụng thông qua việc thu hút được nguồn
vốn ngày càng nhiều để phục vụ đầu tư cho vay, phục vụ phát triển kinh tế.
Về quy trình nghiệp vụ, thủ tục, giấy tờ cần cải tiến cho ngày càng đơn
giản dễ hiểu, rút ngắn thời gian giao dịch cho khách hàng giúp cho việc thanh
toán nhanh chóng, hiệu quả nhưng vẫn đảm bảo tính an toàn, đầy đủ, tiết kiệm
thời gian cho cả khách hàng lẫn ngân hàng.
Như vậy, để tăng khả năng cạnh tranh và kinh doanh có hiệu quả thì chi
nhánh cần không ngừng hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, đổi mới trang
thiết bị, hoàn thiện cơ chế thanh toán trong nội bộ ngân hàng, ứng dụng công
nghệ tin học để quản lý chặt chẽ các nghiệp vụ, trên cơ sở đó giúp cho chi
nhánh sớm hòa nhập vào mạng lưới thanh toán hiện đại.
2. Mở rộng mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm.
Nền kinh tế càng phát triển, khối lượng công việc ngày càng tăng lên thì
vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để khách hàng có thể đến giao dịch với ngân
hàng mà không mất nhiều thời gian, vì thời gian đang ngày càng trở thành
“vàng bạc” thực sự. Với quỹ thời gian eo hẹp chưa chắc đã đủ cho họ hoàn
thành công việc của mình chứ chưa nói đến việc bỏ ra thời gian để tới với ngân
hàng, thậm chí còn phải chờ đợi cán bộ ngân hàng rất lâu để hoàn tất một
nghiệp vụ (khi đông khách).
Để khuyến khích công chúng gửi tiền, giao dịch nhiều hơn, chi nhánh cần
tiết kiệm và giảm bớt thời gian cho khách hàng thông qua việc bố trí mạng

lưới một cách thích hợp, mở thêm các quỹ tiết kiệm lưu động đi thu tiền gửi
tận nhà, hoặc cơ sở sản xuất, kinh doanh khi dân chúng yêu cầu đặc biệt là tại
những nơi có dự án đầu tư triển khai trên địa bàn để vận động và nhận tiền
gửi dân cư khi họ nhận tiền đền bù từ giải phóng mặt bằng. Đồng thời, nghiên
cứu mở thêm các quầy giao dịch tại các khu đông dân cư như khu chợ lớn, các
trung tâm thương mại lớn của thành phố, các khu chung cư cao tầng...chính
điều này sẽ cho phép chi nhánh khai thác nguồn vốn với khối lượng lớn trong
thời gian dài, mặc dù chi phí bỏ ra ban đầu là tương đối lớn. Nhưng sự thâm
nhập của mạng lưới chi nhánh, bàn tiết kiệm lưu động vào cộng đồng dân cư
sẽ góp phần quan trọng làm thay đổi tâm lý, tập quán giữ tiền, sử dụng tiền
của người dân.
Bên cạnh việc mở rộng màng lưới, chi nhánh cần nghiên cứu, áp dụng
thời gian giao dịch cho phù hợp với điều kiện, bối cảnh kinh tế – xã hội và tâm
lý, thói quen tích luỹ, tiêu dùng của người dân trên địa bàn hoạt động của
mình. Chi nhánh chủ yếu hoạt động trên địa bàn thủ đô Hà Nội, nơi tập trung
đông đúc các công ty, xí nghiệp lớn nhỏ, các tổ chức kinh tế – xã hội, cơ quan
Chính Phủ... nên đại bộ phận là cán bộ công nhân viên, thì việc xem xét lại thời
gian làm việc của chi nhánh là rất quan trọng, nó ảnh hưởng đến hoạt động
kinh doanh nói chung và công tác huy động vốn của chi nhánh nói riêng. Giờ
làm việc của chi nhánh trùng với giờ hành chính có thể gây bất tiện cho những
người muốn đến giao dịch với chi nhánh, trong đó có những người muốn đến
gửi tiền nhưng gặp khó khăn về thời gian. Vì vậy, chi nhánh nên bố trí cho
riêng bộ phận quầy phục vụ các tài khoản cá nhân mở cửa sớm hơn và làm
việc muộn hơn, rồi cho các cán bộ đó hưởng lương ngoài giờ. Bộ phận này có
thể chia thành hai ca làm việc, hoạt động từ 7h đến 19h. Với lịch làm việc như
vậy, những người có tài khoản có thể tranh thủ gửi tiền, rút tiền vào nhiều lúc
khác nhau mà không ngần ngại khi nghĩ đến việc phải chờ đợi trong không khí
đông đúc, ngột ngạt của quầy giao dịch khi đến đúng giờ cao điểm, vừa tận
dụng tốt nhất thời gian rảnh rỗi của mình.
3. Đa dạng hóa các hình thức dịch vụ huy động vốn.

Ngân hàng tiếp tục đa dạng hóa sản phẩm huy động, nâng cao hơn nữa
tiện ích thông qua chất lượng và tính đa dạng của sản phẩm. Về lâu dài ngân

×