Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tìm hiểu văn hóa chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh trong mối liên hệ giữa con người với cộng đồng dân tộc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.69 KB, 5 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 2/2016

Information of Science and Technology
No. 2/2016

TÌM HIỂU VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
TRONG MỐI LIÊN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI CỘNG ĐỒNG
DÂN TỘC VIỆT NAM
ThS. Nguyễn Thành Đạo
Khoa lý luận chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt
Nghiên cứu Văn hóa chính trị của Hồ Chí
Minh là đề cập đến các mặt: Tri thức, niềm tin
và sự thuyết phục về chính trị; tình cảm đạo
đức trong hoạt động chính trị; những phương
tiện, chuẩn mực, tổ chức vận hành bộ máy
quyền lực mà Hồ Chí Minh kiến tạo; những
truyền thống chính trị kết tinh trong nhân cách
chính trị Hồ Chí Minh;… cũng như sự trung
thành và bổ sung của Hồ Chí Minh vào Hệ tư
tưởng Mác - Lênin. Văn hóa chính trị của Người
đã, đang và sẽ soi sáng, tác động, ảnh hưởng
đến việc vận dụng, thực thi quyền lực chính trị
của cá nhân, tổ chức trong hệ thống chính trị
nước ta.
Từ khoá
Văn hoá chính trị.

1. Tri thức chính trị của Chủ tịch Hồ
Chí Minh


Với Hồ Chí Minh, tri thức chính trị,
hiểu biết chính trị thông qua 2 con đường:
được học, tự học lý luận chính trị và trải
nghiệm, nếm trải chính trị qua thực tiễn
hoạt động cách mạng. Ngoài kiến thức học
các nhà nho ở quê; học các thầy Việt Pháp
ở Quốc Học Huế và một ít năm học đại học
Phương Đông,… Hồ Chí Minh chủ yếu tự
học. Người tự học nhiều ngoại ngữ, đọc rất
chăm các loại sách, nhất là sách chính trị.
Cho nên tri thức lý luận chính trị của Người
rất rộng sâu, thẩm thấu các giá trị chính trị
Đông Tây, đã hấp thụ và phát huy tốt tinh
hoa lý luận chính trị của nhân loại.
Trên thế giới, ít có lãnh tụ cách
mạng nào đi nhiều, thấy nhiều, nếm trải
thu thập kinh nghiệm chính trị nhiều như
Hồ Chí Minh. Người thấy được bản chất
của thực dân đế quốc ở cả chính quốc lẫn
thuộc địa. Hồ Chí Minh có 5 Đảng tịch,
xuất hiện và hoạt động trên nhiều địa bàn
chính trị khác nhau: Tham gia thành lập
Đảng Cộng sản Pháp, tham gia hoạt động
báo chí ở Châu Âu, làm đại biểu Hội nông
dân quốc tế, phụ trách Ban phương Đông
của Quốc tế cộng sản; xuất hiện ở Trung
Quốc với tư cách là nhà tư tưởng, huấn
luyện đào tạo Chủ nghĩa Mác cho thanh
niên Việt Nam. Rồi bị bắt tù đày, suýt bị
tử hình, bị truy nã. Đau khổ hơn, có lúc

Bác bị những người cùng giai cấp, đồng
chí hiểu sai vì những tư tưởng vượt trước
của mình. Hồ Chí Minh từng có những
ngày vất vả bên Lào, Thái, Trung Quốc.
Khi giả nhà sư, khi làm thầu khoán, thầy
địa lý, tham gia cách mạng Trung Quốc
(từ năm 1938 đến 1941) với hàm thiếu tá,
trở về Tổ quốc đẩy mạnh phong trào cách
202


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 2/2016

mạng, 1942 - 1943 bị bọn Tưởng Giới
Thạch bắt giam. Ra tù, lại về nước chỉ đạo
cách mạng tháng Tám thành công, rồi tiếp
tục cùng dân tộc tham gia chống Pháp 9
năm, lãnh đạo sự nghiệp chống Mỹ thắng
lợi. Hơn 30 năm xa tổ quốc, 35 năm xa
nhà,… sự hiểu biết chính trị cả phương
diện lý luận lẫn thực tiễn của Người hết
sức sâu sắc, uyên thâm.
Mỗi chặng đường hoạt động của
Người luôn gắn bó, ảnh hưởng đến sự
thăng trầm, thành công của dân tộc. Sự
hiểu biết về chính trị là tiêu chí văn hóa
chính trị đầu tiên, quan trọng, ảnh hưởng
đến sự nghiệp chính trị của Người và từ
đó lan tỏa đến cộng đồng. Ở Hồ Chí Minh,

tri thức lý luận, tri thức kinh nghiệm
chính trị thống nhất hữu cơ. Nguyên tắc
lớn trong hoạt động chính trị của Người là
lời nói đi đôi với việc làm. Với tri thức như
vậy, Người đã xử lý tình huống phức tạp
có hiệu quả. Tri thức chính trị của Người
được lan tỏa, trao truyền, hòa nhập vào
cộng đồng dân tộc Việt Nam (thời đại Hồ
Chí Minh), biến giá trị cá nhân thành sức
mạnh cộng đồng to lớn. Người và dân tộc
Việt Nam thăng hoa thành một: Việt Nam
- Hồ chí Minh. Điều đó giải thích câu hỏi
vì sao có sự tập hợp xung quanh Người,
từ tướng tá, nhân sĩ, chiến sĩ, nhân dân
lao động, mọi ngành mọi giới luôn nói và
làm theo ý nguyện của Người một cách
tự giác.
2. Niềm tin, sự thuyết phục về chính
trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ở Hồ Chí Minh, yếu tố thứ hai của
văn hóa chính trị rất rất rõ nét, rất đặc
sắc, tiêu biểu. Niềm tin, sự thuyết phục về
chính trị của Người được hình thành từ hai
cấp độ. Đi từ nhận thức cảm tính đến
nhận thức lý tính. Năm 1911, Hồ Chí Minh
ra đi mang tâm thế của người tìm chân lý,
người tìm lẽ sống, mang theo nỗi u hoài
về nhục mất nước và với hy vọng thu thập
tư liệu chính trị bằng trực quan của người
yêu nước. Từ năm 1911 đến năm 1919,

niềm tin chính trị còn chưa định hình.
Năm 1920, khi bắt gặp luận cương sơ
thảo về vấn đề dân tộc và thuộc địa, thì

Information of Science and Technology
No. 2/2016

trong tư tưởng của Hồ Chí Minh niềm tin
và sự thuyết phục về chính trị đã hình
thành, củng cố, phát triển, lan tỏa. Người
tin vào sức mạnh tổng hợp của đại đoàn
kết dân tộc, của chiến tranh nhân dân, tin
vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng Việt
Nam,… Chính nhờ niềm tin to lớn mà Hồ
Chí Minh đã vượt qua những thử thách
hiểm nghèo, nếm trải gian nan (tù tội, bị
hiểu lầm, gian nan trong đời sống chính
trị). Như vậy, niềm tin chính trị, sự thuyết
phục về chính trị mà Hồ Chí Minh có được
(từ 1920 trở về sau) là kết quả của một
nhận thức đúng đắn sâu sắc về lý tưởng
chính trị đã lựa chọn, nó mang tính ổn
định và vững chắc ngay cả khi tình huống
chính trị không được thuận chiều. Niềm
tin, sự thuyết phục về chính trị từ Hồ Chí
Minh được phổ biến, ăn sâu trong đại bộ
phận quần chúng. Hồ Chí Minh và dân tộc
Việt Nam làm thành một khối niềm tin
vững chắc về con đường đi lên, phát triển
của dân tộc. Khối niềm tin cá nhân - cộng

đồng, quyện chặt đó, làm chùn bước, làm
thất bại các thế lực lớn của thế kỷ 20: hạ
bệ phong kiến Việt Nam, đánh cho Pháp
hàng, Mỹ cút nhục nhã. Những người nước
ngoài lấy làm lạ tại sao Việt Nam nhỏ bé
lại hạ gục những hung nô của thế kỷ?
Bởi lẽ đơn giản: Đảng Cộng sản Việt
Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện. Dưới sự lãnh đạo của Người, bằng
cái tâm cái tài của Hồ Chí Minh - Đảng
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Việt Nam.
Từ chiến tranh sang thời bình, điều quan
trọng của Đảng cầm quyền nước ta là phải
duy trì củng cố niềm tin, sự thuyết phục
về chính trị trong Đảng, nhà nước và
trong quảng đại quần chúng - điều mà Hồ
Chí Minh hằng tâm niệm và dày công xây
đắp. Như vậy văn hóa chính trị là niềm tin
vào chính trị đúng, khoa học, chính nghĩa,
nhân bản. Những cái đó Hồ Chí Minh luôn
tâm niệm, theo đuổi, thực thi, củng cố.
Trong thời kỳ kinh tế thị trường, cái sợ
nhất là mất niềm tin của quần chúng, sự
lãnh đạm của quần chúng. Văn hóa chính
trị của Hồ Chí Minh giúp đỡ chúng ta đi
đúng hướng. Chúng ta những mong lòng
203


Thông báo Khoa học và Công nghệ

Số 2/2016

dân ý Đảng luôn hòa quyện như câu thơ
Tố Hữu đã viết: “Đảng ta đó trăm tay
nghìn mắt, Đảng ta đây xương sắt da
đồng. Đảng ta muôn vạn công nông, Đảng
ta muôn vạn tấm lòng niềm tin!”
3. Các truyền thống của dân tộc kết
tinh trong nhân cách chính trị của Chủ
tịch Hồ Chí Minh
Những truyền thống quý báu của
dân tộc được kết tinh lại thành văn hóa
tinh thần. Là bộ phận của truyến thống,
văn hóa nói chung, truyền thống chính trị
của dân tộc ta có nhiều nét đặc sắc mà
con người chính trị, danh nhân văn hóa
Hồ Chí Minh đã thấm nhuần và phát huy
ở tầm cao mới. Đây là mối liên hệ giữa
Hồ Chí Minh với cộng đồng theo hai
chiều: tiếp nhận kết tinh và phát huy ở
tầm cao mới. Sau đây là một số truyền
thống tiêu biểu:
- Truyền thống bảo vệ chủ quyền lãnh
thổ, ý thức bảo vệ chủ quyền dân tộc,
chống ngoại xâm để giành giữ chủ
quyền dân tộc.
Đây là nét văn hóa đặc sắc của dân
tộc Việt Nam. Truyền thống này bắt đầu
được hình thành từ nhà nước Văn lang,
thời của các Vua Hùng. Sự ra đời của một

nhà nước Văn Lang cũng là sự khẳng định
chủ quyền một lãnh thổ có sự riêng biệt
về bờ cõi, sông núi, phong tục, tập quán
của một nền văn hóa đã định hình. Qua
hơn 1000 năm Bắc thuộc Bà Trưng, Bà
Triệu, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Triệu
Quang Phục, Ngô Quyền nối nhau khởi
nghĩa. Thời độc lập, tự chủ xây dựng nhà
nước phong kiến của ta, các triều đại
phong kiến phương Bắc xâm chiếm liên
tục, đã có Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê,
Nguyễn… đứng lên giành độc lập, mở
mang bờ cõi. Hồ Chí Minh cùng với toàn
dân đánh đổ ngai vàng phong kiến, đuổi
Pháp, Nhật, Mỹ,… cũng vì độc lập chủ
quyền thống nhất đất nước. Tại đền Hùng,
trước toàn quân, người đã nói: “Các vua
Hùng đã có công dựng nước, ngày nay
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Năm 1960, Người từng tỏ rõ quyết tâm
thống nhất nước nhà: “Nước Việt Nam là

Information of Science and Technology
No. 2/2016

một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể
cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy
không bao giờ thay đổi”. Ý thức chủ quyền
dân tộc, quyết tâm giành độc lập dân tộc
được Hồ Chí Minh và nhân dân của Người

thực hiện trong không gian, thời gian mới,
điều kiện mới, với sự sáng tạo mới, quốc
tế hóa nó lên. Hồ Chí Minh học ở nhà Trần
“Khoan thư sức dân”, học ở Nguyễn Trãi
cách đánh tâm công, vừa đánh vừa đàm
phán. Hơn tiền nhân, Hồ Chí Minh đã kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của
thời đại, đoàn kết các lực lượng trong
ngoài nước, nên tạo ra súc mạnh vô địch,
chống lại những tên đế quốc có sức hủy
diệt lớn, tạo ra những giá trị mang tầm
thời đại, hướng cái nhìn của lương tri nhân
loại vào Việt Nam. Đó là sự “vượt gộp”
của Hồ Chí Minh và cộng đồng dân tộc của
Người - so với tiền nhân.
- Truyền thống chống nô dịch văn
hóa, xem trọng văn hóa:
Việt Nam từng bị Hán hóa và chống
Hán hóa, sau hơn 1000 năm, giặc phương
Bắc cố tình nô dịch văn hóa, nhưng dân
tộc Việt Nam vẫn tồn tại. Trong nhiều thế
kỷ, người Việt Nam lặng lẽ học tập chữ
viết, học tập các triết thuyết, đạo đức
chính trị của người Trung Quốc để trang bị
trí khôn cho hành trang chính trị của
mình. Học của kẻ thù để chống lại nó, vừa
học vừa cải tạo văn hóa của người ta
thành vốn văn hóa riêng của mình. Ví dụ
như lấy chữ Hán hình thành chữ Nôm cho
dân tộc. Đó là nét độc đáo của bản sắc

dân tộc ta. Sau này ta có phong trào
Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân
chấn hưng văn hóa dân tộc, chống thiển
cận và văn hóa lai căng. Dân tộc ta vừa
tiếp tục học văn hóa phương Tây, vừa
chống nô dịch văn hóa, áp đặt văn hóa
suốt một thế kỷ. Hồ Chí Minh kế thừa
truyền thống này rất sâu sắc. Người lưu ý
mọi người: “Dân ta phải biết sử ta, cho
tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Trong
tuyên ngôn độc lập, người tố cáo thực dân
Pháp đã xây nhà tù nhiều hơn trường học
thực hiện chính sách ngu dân để trị. Người
cho rằng, dân tộc dốt là dân tộc hèn, nên
204


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 2/2016

nhiệm vụ đầu tiên của chính phủ mới là
chống giặc dốt. Dưới sự quan tâm và chỉ
đạo của Người, toàn dân hưởng ứng xóa
dốt tạo thành trào lưu học tập toàn dân
chưa từng thấy trước đó. Người và Đảng
ta suốt hơn 70 chục năm qua, ngoài
nhiệm vụ giải phóng dân tộc ra, đã hết
lòng, hết sức xây dựng nền văn hóa mới.
Từ đề cương văn hóa 1943 đến nghị quyết
TW 5 khóa VIII, 1998, là thực hiện chỉ

đạo và ý nguyện của Người về xây dựng
văn hóa Việt Nam. Tâm ý của Người và
Đảng ta, được cộng đồng dân tộc hưởng
ứng nhiệt tình và diện mạo văn hóa nước
ta ngày càng khởi sắc. Nét đáng trân
trọng của Hồ Chí Minh là: mặc dù công
tác, học tập, sống ở nước ngoài nhiều,
nhưng Người yêu ngôn ngữ, làn điệu âm
nhạc quê nhà, quý trọng danh nhân văn
hóa, chính trị cũng như di tích lịch sử của
nước nhà.
- Truyền thống xem khối cộng đồng
làng xã Việt Nam vừa là pháo đài
chống giặc vừa lưu trữ văn hóa:
Tính cộng đồng vốn là đặc điểm nổi
bật của làng xóm Việt Nam. Cùng đắp
hàng vạn cây số đê, cùng chắn bão giông,
cùng chống kẻ thù,… nên cố kết cộng
đồng là điều tất yếu. Quốc gia Việt Nam là
liên minh làng xã. Nhiều lúc ta mất nước,
nhờ có làng, từ đó lấy lại nước. Làng là
đơn vị sản xuất, chiến đấu, là nơi lưu giữ,
củng cố những truyền thống, cội nguồn
tình cảm trong tâm hồn người Việt. Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất hiểu truyền thống độc
đáo này, vì Người cũng sinh ra từ làng,
làng Sen. Trong thời kỳ kháng chiến
chống Pháp, cơ quan trung ương phải di
dời thường xuyên, ở đâu Người cũng có
phương châm: Sống gần dân (Làng, Bản),

xa đường. Theo Bác, không đâu an toàn
bằng lòng dân. Chủ trương bám đất, giữ
làng, đánh du kích do kế thừa truyền
thống xưa mà ra. Những mô hình tốt
trong sản xuất, chiến đấu cũng từ làng
phát động thành phong trào chung.
- Truyền thống người Việt Nam không
tôn sùng đến mê muội một thứ triết
thuyết nào:

Information of Science and Technology
No. 2/2016

Nho, Phật, Lão vào Việt Nam, được
Việt hóa, khúc xạ, trong tâm thức của
người Việt, trở thành những giá trị phục
vụ người Việt , rồi người Việt đến thế kỷ
19 đầu thế kỷ 20, xếp chúng vào một góc
tiếp xúc văn hóa chính trị phương tây, văn
hóa chính trị Đông Âu, văn minh nước
Mỹ,… các thứ đều được sàng lọc, bởi bản
sắc văn hóa Việt Nam như thứ than hoạt
tính có thể phòng độc, lắng lọc những cặn
bả, để lưu giữ lại những giá trị để giữ lại
cho mình. Hồ Chí Minh là đại diện tích cực
truyền thống này. Người học rất nhiều,
đọc rất nhiều, nhưng không tôn sùng đến
mê muội bất kể học thuyết nào. Hồ Chí
Minh sáng tạo vận dụng và bổ sung, nâng
chủ nghĩa Mác lên tầm cao thời đại, chứ

không bê nguyên xi rơi vào giáo điều.
- Truyền thống dễ can dự vào công
việc chính trị của người Việt Nam:
Người Việt từng có Trần Quốc Toản
bóp cam ở ngoài Hội nghị Diên Hồng, có
anh lái than Trần Khánh Dư đọc thơ gần
Hội nghị Bình Than, có phụ nữ yêu nước:
giặc đến nhà là “đàn bà cũng đánh”. Do
ảnh hưởng truyền thống ấy Bác Hồ từ nhỏ
đã quan tâm đến những từ “tự do bình
đẳng bác ái,” tham gia chống sưu thuế tại
Trung kỳ. Khi ra nước ngoài Bác vừa hoạt
động vì cách mạng Việt Nam nhưng cũng
tham gia vào nhiều công việc của nước
bạn: tham gia thành lập Đảng cộng sản
Pháp; thiếu tá Hồ Quang trong quân đội
“Bát lộ quân”, tham gia phòng chính trị
của Đệ tứ chiến khu sau khi ra tù 1943.
Bác nâng truyền thống Hội nghị Diên
Hồng lên thành Đại hội quốc dân Tân Trào
để giành độc lập, Bác thành lập mặt trận
“Liên Việt”, “Mặt trận Việt Minh”, “Mặt
trận giải phóng miền Nam” để tập trung
trí tuệ, sức mạnh dân tộc, Bác thăm già,
hỏi trẻ, đi vi hành để xem dân tình;
thường xuyên tiếp xúc với các giới các
ngành. Người có thể cảm hóa nhiều lực
lượng thù địch đi theo chính nghĩa của
mình. Sau Cách mạng tháng Tám, chính
phủ ta từng có đa đảng phái tham chính,

nhưng dưới sự lãnh đạo của Người, vẫn
nhất nguyên về chính trị. Nhiều người tài
205


Thông báo Khoa học và Công nghệ
Số 2/2016

giỏi không phải là đảng viên, nhưng Bác
vẫn tin dùng như: Huỳnh Thúc Kháng,
Nguyễn Văn Huyên, Phan Kế Toại.
- Truyền thống không cam chịu nhục;
khoan dung với kẻ thù bại trận:
Do không cam chịu nhục mất nước,
nên người Việt đã bao lần đứng lên, đổ
máu vì nước, vì hạnh phúc của mình. Thời
hai Bà Trưng, có những người bị đóng dấu
vào trán vì không nộp đủ thuế, họ lấy sắt
nung đỏ hơn xóa dấu. Trần Bình Trọng
từng thét vào vào mặt quân thù: “Ta thà
làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương
đất Bắc!”. Lúc vận mệnh Tổ quốc ngàn
cân treo sợi tóc, Hồ Chí Minh cũng kiên
quyết không kém tiền nhân. “Không,
chúng ta thà hy sinh tất cả, không chịu
nhục mất nước”. Tù đày gian khổ không
chịu khuất phục Hồ Chí Minh và đồng chí
của Người. Thế hệ sau của Người cũng
quyết chí không cam chịu đói nghèo, tụt
hậu. Thời trước, nước ta từng có Nguyễn

Trãi, Quang Trung, khi thắng giặc xong,
khép quá khứ, cấp lương thực ngựa xe
cho chúng về nước, dâng biểu xin hòa,

Information of Science and Technology
No. 2/2016

thậm chí trải thảm đỏ mời kẻ thù hợp tác
giao hảo… Hồ Chí Minh kế thừa truyền
thống đó: đối xử rất tốt đối với tù binh
Pháp, giặc lái Mỹ. Những người tù sau này
trở về nước làm những chức vụ lớn (như
John Kerry, Peterson,…) vẫn còn nhớ
những người cộng sản và nhân dân Việt
Nam cao thượng.
- Truyền thống nêu cao pháp luật trị
nước:
Noi gương Chu Văn An, Mạc Đỉnh
Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Văn Thịnh và
tinh thần nêu cao pháp luật trị nước của
ông cha ta, Hồ Chí MInh kết hợp nhuần
nhuyễn giữa Đức trị và Pháp trị: có tình
và có lý trong thực thi pháp luật. Qua vụ
án Nguyễn Tường Tam, Trần Dụ Châu và
sử dụng Trần Lâm (người được coi là “bao
công” của Việt Nam dân chủ cộng hòa) ta
thấy Bác đã kế thừa và cách tân tinh thần
nêu cao pháp luật trị nước. Hơn thế nữa,
Bác mở đầu nền dân chủ ở nước ta và
muốn xây dựng nền dân chủ pháp quyền

xã hội chủ nghĩa - cái mà hiện nay chúng
ta cố gắng thực hiện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tập bài giảng chính trị học, 2002. Học viện chính trị quốc gia Hà Nội Hồ Chí Minh, NXB Lý
Luận, Hà Nội.
[2]. Thơ Tố Hữu, 2008. NXB Văn Hóa Sài Gòn.
[3]. PGS.TS. Hoàng Trang, 2008. Hỏi đáp Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội.
[4]. Mai Thúc Luân, 2003. Văn Hóa và thời đại, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh.

206



×