Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

GIẢI PHÁP VÀ KIẾNNGHỊ ĐỂ TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI LVB HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.02 KB, 15 trang )

GIẢI PHÁP VÀ KIẾNNGHỊ ĐỂ TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI LVB HÀ NỘI.
I PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRONG THỜI GIAN TỚI.
* PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TRONG THỜI GIAN TỚI.
Trước những thách thức và không ít những khó khăn khi bước vào hoạt động
kinh doanh của Chi nhánh LVB Hà nội, nhưng với quyết tâm vượt khó của Chi nhánh,
trên cơ sở kết quả những tháng đầu đi vào hoạt động, Chi nhánh xác định mục tiêu
kinh doanh cỉa năm 2002 cần đạt:
+ Huy động vốn taị chỗ đến 31/12/2002 4.500.000USD
Trong đó:Tiền gửi TCKT và TCTD đạt 1.950.000 USD (kể cả VND qui đổi)
Huy động các loại đạt 3.000.000USD (kể cả VND qui đổi)
+ Tổng dư nợ các loại đạt 15000.000 USD
+ Doanh thu cả năm đạt 810.380USD
Trong đó: Thu lãi cho vay đạt 540.320USD
Thu phí kinh doanh ngoại tệ đạt 42.000USD
Thu dịch vụ Ngân hàng khác đạt 23.000USD
Thu khác(lãi tiền gửi) đạt 207.060USD
+ Chênh lệnh lợi nhuận: Trong năm 2002 Chi nhánh dự kiến chênh lệnh thu chi sẽ
đạt thấp hơn năm 2001 do các nguyên nhân sau:
- Lãi suất USD trên thị trường tiền gửi và thị trường Việt nam có xu hướng biến
động rất lớn do vậy, doanh thu từ tiền gửi sẽ giảm đáng kể.
- Một phần dư nợ tham gia đồng tài trợ với SGD sẽ chưa được thu lãi do lãi được
nhập gốc trong thời gian ân hạn (hết năm 2002 );
- Dư nợ vay tại BIDV tăng- chi phí vốn tăng-nguyên nhân là dư nợ tín dụng của các
khách hàng sẽ tăng nhưng khả năng tự huy động của Chi nhánh chưa được đáp ứng
được đầy đủ;
- Dự kiến các chi phí mua ngoài sẽ tăng trong năm tới do vậy tổng chi phí tăng lên
Do đó trong năm 2002 Chi nhánh dự kiến lãi đật được sẽ là
30.245USD;
II GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG KHẢ NĂNG HUY ĐỘNG VỐN VỐN VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TẠI LVB HÀ NỘI.


1. Giải pháp đối với hoạt động huy động vốn.
1.1. Mở rộng mạng lưới và đa dạng hoá hình thức huy động:
Như trong phần thực trạng, hình thức huy động của ngân hàng còn đơn điệu,
mạng lưới giao dịch còn mỏng... Để có thể huy động vốn trung và dài hạn ngày càng
nhiều và đạt chi phí thấp và đạt hiệu quả cao trong công tác huy động thì NHLD Lào
Việt Hà nội cần mở rộng mạng lưới và đa dạng hoá hình thức huy động. Đối với công
tác mở rộng mạng lưới thì một điểm cần chú ý là tận dụng cơ sở vật chất sẵn có và
nên chọn địa điểm thuận lợi cho công tác huy động để vừa huy động được nhiều nhất
và vừa tốn kém ít nhất. Đối với công tác đa dạng hoá hình thức huy động, cụ thể là:
* Đối với huy động tiền gửi:
- Bên cạnh kỳ hạn đang áp dụng của ngân hàng, có thể mở rộng thời hạn tiền gửi
như 2 năm, 3năm, 5 năm... Việc áp dụng hình thức tiết kiệm có kỳ hạn dài với nhiều loại
khác nhau sẽ tăng nguồn vốn của ngân hàng trong nền kinh tế, tạo điều kiện đa dạng
hoá hình thức huy động và sử dụng vốn tại ngân hàng. Tức là ứng với vốn cho vay ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn thì phải có nguồn huy động ngắn, trung và dài hạn. Mặt khác
lãi suất trả cho kỳ hạn dài phải cao hơn lãi suất trả cho kỳ hạn ngắn. Tuy nhiên, lãi suất
trả cho kỳ hạn dài không thể vượt mức chịu đựng trong kinh doanh của ngân hàng nói
riêng và của nền kinh tế nói chung.
-Đa dạng hoá cách thức trả lãi: Ngoài thời hạn khác nhau ngân hàng
cũng cần quan tâm tới cách thức trả lãi suất. Trả lãi trước và lãi sau, rút lãi
hàng tháng và hàng năm... Điều đó đòi hỏi ngân hàng phải tính toán lãi suất,
xác định mẫu số tiết kiệm sao cho khách hàng vẫn có lợi và khi ngân hàng chi
trả có thể phân biệt được, kiểm tra đối chiếu cho thuận tiện dễ dàng, tránh
phiền hà cho khách hàng.
* Đối với Phát hành kỳ phiếu ngân hàng :
Kỳ phiếu là công cụ vay nợ ngắn hạn do NH phát hành ra. Người nắm giữ kỳ
phiếu NH sẽ được thanh toán lãi theo một khoản đã địnhvào thời hạn nhất định và đến
thời hạn thanh toá thì hoàn trả hết giá mua ban đầu.
* Phát hành chứng chỉ tiền gửi:
Chứng chỉ tiền gửi là phiếu nợ ngắn hạn có mệnh giá cao, có thời hạn giới 12

tháng. Nó là một công cụ vay nợ do NH bán cho người gửi tiền và có thể bán lại ở thị
trường cấp hai. Chúng giúp NH có thể nhanh chónh có được tiền vốn. Nếu sử dụng biện
pháp phát hành chứng chỉ tiền gửi, Chi nhánh sẽ không phải lệ thuộc vào món tiền gửi
giao dịch với tư cách là nguồn vốn hàng đầu như trước nữa.
* Trái phiếu NH:
Trái phiếu là loại phiếu nợ trung - dài hạn ( còn gọi là trái phiếu trung và dài
hạn ).
Trái phiếu NH là một công cụ vay nợ dài hạn trên thị trường vốn, là giấy nhận nợ
của các NH đối với người mua (hoặc chủ sở hữu) cam kết sẽ trả nợ và lãi theo kỳ hạn đã
định. Đối với người mua, nó là giấy chứng nhận quyền đầu tư hoặc quyền hưởng một
phần lãi theo số tiền đầu tư. đây là hình thức phổ biến ở nhiều nước trên thế giới, nó hớp
dẫn hơn các hình thức gửi tiền có kỳ hạn dài bởi tính đa dạng trong hình thức trả lãi
cũng như lãi suất huy động, Khi cần phát hành trái phiếu, để có thể thu hút được người
mua, NH có thể đưa ra các mức lãi suất chiết khấu tại mức thời gian khác nhau trước
khi tráo phiếu đáo hạn.
Tương tự như trên, việc phát hánh trái phiếu NH cũng cần phải được sự cho phép
của NHTƯ hoặc hội đồng chứng khóan quốc gia.
1.2. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt hợp lý:
Lãi suất là một công cụ quan trọng để ngân hàng huy động nguồn vốn hiện có
nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư, doanh nghiệp và các tổ chức khác. Bởi khách hàng có
tiền nhàn rỗi gửi tiết kiệm hay mua các công cụ của ngân hàng đều nhằm mục tiêu lãi
suất là hàng đầu. Do đó một sự biến động nhỏ về lãi suất cũng có thể thúc đẩy người gửi
tiền tiết kiệm hay nhà đầu tư chuyển vốn của họ sang tiết kiệm hoặc đầu tư cho một tổ
chức hoặc công ty khác, đặc biệt trong giai đoạn khan hiếm tiền tệ.
Để nâng cao hiệu quả huy động vốn thì ngân hàng cần tăng lượng vốn huy động
và giảm chi phí huy động, điều đó không có nghĩa là tăng lãi suất huy động. Do đó, nếu
tăng lãi suất huy động thì ngân hàng làm tăng chi phí của mình hoặc giảm thu, lại hạn
chế công tác cho vay. Vì vậy, ngân hàng cần đưa ra mức lãi suất hợp lý để kích thích được
khách hàng, giảm tối đa chi phí của ngân hàng và cho vay dễ dàng hơn. Tuy nhiên ngân
hàng cần duy trì mức lãi suất ổn định nhằm tạo sự an tâm cho khách hàng. Bởi lãi suất

biến động mạnh làm cho họ sợ thiệt nhất là khi lãi suất giảm, và khi đó khách hàng
không muốn gửi tiền. Ngược lại, lãi suất huy động cao thì lãi suất cho vay cao, trong khi
việc sản xuất kinh doanh gặp nhiều khó khăn, do đó ngân hàng không muốn huy động.
Đây là bài toán hóc búa với tất cả các NHTM, chứ không riêng ngân hàngLVB Hà nội. Em
xin đề xuất một số giải pháp sau:
a. Chính sách lãi suất nhằm đạt được chi phí hợp lý:
Ngân hàng muốn nâng cao vốn có thời hạn dài cho đầu tư phát triển nhưng lại
muốn giảm thiểu chi phí huy động, để làm được điều đó ngân hàng cần nâng lãi suất đối
với tiền gửi trung và dài hạn, tiết kiệm chi phí không cần thiết (thuê địa điểm hoặc quảng
cáo, in ấn và cần sử dụng cơ sở vật chất và cán bộ sẵn có). Ngân hàng cũng không nên
khi đến đợt huy động thì quảng cáo rầm rộ, tốn kém mà nên có sự chuẩn bị trước nhằm
tiết kiệm các khoản chi phí không cần thiết.
Mặt khác ngân hàng có thể hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn để đảm bảo chi phí
huy động trung bình không bị tăng lên, đảm bảo vẫn có lãi trong hoạt động ngân hàng.
Điều đó cũng đảm bảo nguyên tắc: lãi suất tiền gửi có kỳ hạn dài cao hơn lãi suất tiền
gửi có kỳ hạn ngắn, tạo được “độ chênh” về lãi suất nhằm khuyến khích khách hàng gửi
tiền với thời hạn dài.
Đối với nhiều nước phát triển thì tiền gửi không kỳ hạn không được hưởng lãi
mà được hưởng các tiện ích của ngân hàng như thực hiện thanh toán và một dịch vụ
khác của ngân hàng. Còn ở Việt Nam hiện nay, chúng ta vẫn trả lãi suất nhằm thu hút
nguồn vốn ngắn hạn nhưng trong tương lai, theo em cùng với việc hoàn thiện công tác
thanh toán qua ngân hàng từ dân cư, tổ chức kinh tế và phát triển các dịch vụ khác của
ngân hàng thì tiền gửi này không trả lãi hoặc trả lãi thấp nhằm tập trung cho công tác
huy động vốn trung và dài hạn cho đầu tư phát triển kinh tế.
Như vậy, lãi suất huy động vốn cho đầu tư cần được xử lý linh hoạt theo hướng
thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao (tạo được khoảng cách lãi suất giữa kỳ hạn ngắn
và kỳ hạn dài) phản ánh được quan hệ cung cầu về vốn (lãi suất đầu ra quy định lãi suất
đầu vào) đảm bảo cho lãi suất thực dương.
b. Chính sách thưởng lãi suất đối với khách hàng duy trì số dư trên tài khoản với thời
hạn dài hơn so với thời hạn ban đầu:

Đối với khách hàng rút tiền trước hạn thì ngân hàng thường áp dụng mức lãi
suất thấp hơn mức lãi suất của kỳ hạn ban đầu. Vậy thế thì trong trường hợp ngược lai,
ngân hàng có thể khuyến khích người gửi tiền trên tài khoản với thời hạn dài hơn so với
kỳ hạn ban đầu. Đây là việc nên làm bởi vì ở Việt Nam người dân thường gửi kỳ hạn
thấp như 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng vì sợ có việc đột xuất xảy ra như ốm đau, cưới xin,
xây nhà... nhưng có khi không rút tiền trong thời hạn 2 năm, 3 năm... Vậy thì ngân hàng
có thể thưởng thêm một tỷ lệ phần trăm nào đó cho những trường hợp dài hạn.
Ví dụ: lãi suất tiền gửi tiết kiệm 12 tháng là 12%/năm còn lãi suất huy động loại 2
năm là 14%/năm thì ngân hàng có thể thưởng tương ứng 0,.5%, 1% cho khách hàng
trong 2 năm. Điều đó sẽ thu hút được thêm khách hàng có tiền nhàn rỗi nhưng chưa xác
định được thời gian dùng đến, họ sẽ ít bị thiệt thòi hơn. Mặt khác, ngân hàng cũng có
một khoản vốn với thời hạn dài hơn để đầu tư với chi phí thấp.
c. Chính sách hợp lý đối với khoản tiền rút trước hạn:
Bản thân khách hàng không bao giờ muốn rút tiền trước hạn, nhất là trong
trường hợp họ gửi tiền và đầu tư với kỳ hạn dài. Song do những việc đột xuất nên họ
đành phải rút tiền trước hoặc thanh toán trước thời hạn. Về nguyên tắc thoả thuận là
không được nhưng để khuyến khích khách hàng thì ngân hàng vẫn nên đồng ý cho rút
trước và cho hưởng mức lãi suất tuỳ theo thời hạn gửi so với kỳ hạn ban đầu. Thực ra
việc rút trước thời hạn gây khó khăn cho ngân hàng về vốn, nhất là họ rút với khoản tiền
lớn trong khi đó ngân hàng đã đầu tư vào những công trình, dự án có thời gian dài mà
không thể rút lại được. Nếu khách hàng cảm nhận và đứng trong hoàn cảnh đó họ sẽ
không cảm thấy mình bị "bóp chẹt" trong lúc khó khăn. Tuy nhiên, ngân hàng cũng cần
cố gắng tối đa để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng mặc dù trong thoả thuận không có.
1.3. Các biện pháp khác:
1.3.1. Thực hiện bảo hiểm tiền gửi:
Trong nền kinh tế thị trường luôn luôn có sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá, lạm phát...
khiến cho hoạt động ngân hàng trở nên vô cùng mạo hiểm, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Đặc biệt
đối với những khoản tiền gửi dài hạn thì khả năng rủi ro khó có thể lường trước được.
Do vậy ngân hàng cùng với khách hàng nên thực hiện việc bảo hiểm các khoản tiền gửi
dài hạn này để đảm bảo thua thiệt cho khách hàng và ngân hàng trong trường hợp có

rủi ro xảy ra.
1.3.2. Thực hiện công tác tư vấn cho người gửi tiền:
Có thể giúp khách hàng nên gửi tiền theo hình thức nào, thời hạn bao lâu để đáp
ứng nhu cầu của họ trong hoạt động gửi tiền tạo sự yên tâm cho khách hàng.
2. GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG.
2.1. Nâmg cao chất lượng công tác thẩm định trước khi cho vay.
Để hoàn thiện công tác thẩm định tín dụng, hạn chế rui ro trong kinh doanh tín
dụng ngân hàng, trong quá trình xét duyệt cho vay đối với mọi thành phần kinh tế đảm
bảo an toàn vốn và phát triển vốn của ngân hàng nên tuân theo những trình tự sau:

×