Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.86 KB, 27 trang )

1
CHƯƠNG 1
LYÙ LUAÄN CHUNG VEÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI SỰ PHÁT
TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng Anh gọi là credit, có nghĩa
là tin tưởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ Việt Nam, tín dụng có nghĩa là sự vay
mượn. Về mặt tài chính, tín dụng là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ
người sở hữu sang người sử dụng trong một thời gian nhất định với một khoản chi
phí nhất định.
Tín dụng là một phạm trù kinh tế hàng hóa, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa
các chủ thể sở hữu nguồn vốn nhàn rỗi với các chủ thể sử dụng vốn trong nền kinh tế
trên nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn cả gốc và lãi. Và tín dụng cũng là một trong
những quan hệ xã hội hình thành từ rất sớm gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế
hàng hóa.
Quan hệ tín dụng đầu tiên tồn tại chủ yếu bằng hiện vật và dưới hình thức cho
vay nặng lãi trên cơ sở của nền sản xuất hàng hóa kém phát triển. Trong các thời kỳ
chiếm hữu nô lệ và chế độ phong kiến, quan hệ tín dụng phát triển chậm trên cơ sở
những nền sản xuất hàng hóa nhỏ. Đến giai đoạn phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa ra đời với nền sản xuất hàng hóa lớn, nền sản xuất đại công nghiệp thì quan hệ
tín dụng mới thật sự phát triển mạnh mẽ. Tín dụng bằng hiện vật nhường chỗ cho tín
dụng hiện kim, cho vay nặng lãi nhường chỗ cho các hình thức tín dụng tiến bộ hơn
như: Tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước, Tín dụng thương mại…
Tín dụng Ngân hàng là một trong những hình thức tín dụng chủ yếu, chiếm vị
trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển
cùng với sự ra đời và phát triển của hệ thống ngân hàng, khác với tín dụng thương
mại, tín dụng ngân hàng là hình thức tín dụng chuyên nghiệp hoạt động của nó hết
sức đa dạng và phong phú.
2
Tín dụng ngân hàng với đối tượng cho vay là tiền tệ nên sự vận động không bị


ngăn cản về mặt phương hướng, nghĩa là có thể cho vay đối với bất kỳ một ngành
kinh tế nào. Mặt khác, với qui mô lớn về nguồn vốn ngân hàng có thể đáp ứng đầy đủ
nhu cầu vay vốn của bên vay cả về mục đích sử dụng vốn và các thời hạn nợ (ngắn
hạn, trung hạn và dài hạn).
Vì vậy có thể xem TDNH là “Quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, các
TCTD với bên kia là các pháp nhân hoặc thể nhân trong nền kinh tế quốc dân” [6]
1.1.2. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng.
Qua khái niệm và bản chất của tín dụng được phân tích ở trên, ta thấy rằng tín
dụng ngân hàng có 3 đặc điểm chủ yếu sau:
- Về hình thức biểu hiện: hoạt động của tín dụng ngân hàng được thực hiện
dưới hình thái tiền tệ và bút tệ. Do đặc tính về lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, để
tập trung được lượng vốn lớn từ nhiều chủ thể, cũng như phân phối đáp ứng nhu cầu
về vốn cho các chủ thể kịp thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thái
tiền tệ để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
- Chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng: Ngân hàng thương mại, các
TCTD đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa thực hiện vai trò là chủ thể
đi vay trong khâu huy động, vừa thực hiện vai trò là chủ thể cho vay trong khâu phân
phối cho vay.
- Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng không hoàn toàn
phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hóa: xuất phát từ
đặc điểm tín dụng ngân hàng được cấp dưới hình thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu
cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa, giá trị các món tín dụng
có thể không đồng nhất với giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng
giai đoạn phát triển kinh tế.
1.1.3. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
1.1.3.1. Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hoá phát triển.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh để duy trì sự hoạt động liên tục đòi hỏi
vốn của doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả ba giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu
3
thông. Nên hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời luôn xảy ra tại các doanh nghiệp.

Từ đó, tín dụng góp phần điều tiết các nguồn vốn tạo điều kiện cho quá trình sản xuất
kinh doanh không bị gián đoạn. Khi vốn tín dụng ngân hàng tham gia vào quá trình
tuần hoàn và chu chuyển vốn của nền kinh tế có hiệu quả, nó thúc đẩy sản xuất kinh
doanh phát triển, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và cá nhân
mở rộng qui mô sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình công
nghệ, hạ giá thành sản xuất và tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Thực hiện vai trò
này, tín dụng ngân hàng luôn là người trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp trong tiến
trình phát triển kinh tế.
1.1.3.2. Tín dụng ngân hàng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả.
Trong khi thực hiện chức năng thứ nhất là tập trung và phân phối lại vốn tiền
tệ, tín dụng đã góp phần làm giảm khối lượng tiền lưu hành trong nền kinh tế, đặc
biệt là tiền mặt trong tay các tầng lớp dân cư, làm giảm áp lực lạm phát, nhờ vậy góp
phần làm ổn định tiền tệ. Mặt khác, do cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế, tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp hoàn thành kế hoạch sản xuất kinh doanh, làm cho
sản xuất ngày càng phát triển, sản xuất hàng hoá dịch vụ làm ra ngày càng nhiều, đáp
ứng được nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, chính nhờ đó mà tín dụng góp phần làm
ổn định thị trường giá cả trong nước.
Mặt khác, tín dụng ngân hàng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán
không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực tiết giảm việc sử dụng
tiền mặt trong nền kinh tế là bộ phận lưu thông tiền mà nhà nước rất khó quản lý và
lại dễ bị tác động của quy luật lưu thông tiền tệ.
Vì vậy, tín dụng ngân hàng đã đóng góp không nhỏ trong việc điều tiết chính
sách tiền tệ, nhằm ổn định tiền tệ tạo điều kiện để ổn định giá cả và là tiền đề quan
trọng để thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá.
1.1.3.3. Tín dụng ngân hàng góp phần tạo công ăn việc làm, ổn định đời sống và
trật tự an tòan xã hội.
Một mặt tín dụng có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, sản xuất hàng
hoá và dịch vụ ngày càng gia tăng có thể thoả mãn nhu cầu đời sống của người lao
4
động, mặt khác, do vốn tín dụng cung ứng đã tạo ra khả năng trong việc khai thác các

tiềm lực của xã hội như: tài nguyên thiên nhiên, lao động, đất đai…vào việc sản xuất
góp phần phát triển kinh tế xã hội, do đó có thể thu hút được đông đảo lực lượng lao
động của xã hội tham gia tạo ra một yếu tố quyết định của lực lượng sản xuất để phát
triển kinh tế xã hội. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã góp phần không nhỏ vào việc
tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, từng bước ổn định
đời sống của người lao động, thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, góp phần
đẩy lùi các tệ nạn xã hội, thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, ổn định chính trị
xã hội.
Ngoài các vai trò cơ bản trên, tín dụng ngân hàng còn có vai trò quan trọng để
mở rộng và phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại và mở rộng giao lưu quốc tế,
nhờ đó thúc đẩy mở rộng và phát triển các quan hệ kinh tế đối ngoại, nhằm giúp đỡ
và giải quyết các nhu cầu lẫn nhau trong quá trình phát triển đi lên của mỗi nước, làm
cho các nước có điều kiện xích lại gần nhau hơn và cùng nhau phát triển.
1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng.
Có nhiều tiêu chí làm căn cứ để phân loại TDNH, tùy theo tiêu chí mà mà có
các loại hình TDNH khác nhau:

Căn cứ vào loại hình nghiệp vụ cấp tín dụng:
Căn cứ theo điều 98 luật các tổ chức tín dụng thông qua ngày 16 tháng 6 năm
2010, phân theo nghiệp vụ tín dụng được chia thành các loại sau:
- Cho vay;
- Chiết khấu, tái chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá khác;
- Bảo lãnh ngân hàng;
- Phát hành thẻ tín dụng;
- Bao thanh toán trong nước; bao thanh toán quốc tế đối với các ngân hàng
được phép thực hiện thanh toán quốc tế;
- Các hình thức cấp tín dụng khác sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp
thuận.
5


Căn cứ vào thời hạn cấp tín dụng chia thành:
- Tín dụng ngắn hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn tối đa là 12 tháng.
- Tín dụng trung hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn từ trên 12 tháng
đến 60 tháng.
- Tín dụng dài hạn: là hoạt động cấp tín dụng có thời hạn trên 60 tháng.

Căn cứ vào tính chất luân chuyển của vốn gồm:
- Tín dụng tài trợ vốn lưu động: là việc cấp vốn tài trợ vốn lưu động cho các
doanh nghiệp, cá nhân để mua nguyên, nhiên liệu, hàng hóa,… phục vụ cho hoạt
động sản xuất, kinh doanh của mình.
- Tín dụng tài trợ tài sản cố định: là việc cấp vốn cho các doanh nghiệp, cá
nhân để đầu tư vào máy móc thiết bị, xây dựng nhà xưởng, mua sắm tài sản cố định.

Căn cứ vào tài sản đảm bảo:
- Tín dụng không có tài sản đảm bảo: là việc TCTD cho khách hàng vay mà
không có ràng buộc các biện pháp thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của bên thứ
3 để đảm bảo cho món vay đó.
- Tín dụng có tài sản đảm bảo: là việc cho vay của TCTD cho khách hàng
trong đó có ràng buộc các biện pháp thế chấp, cầm cố tài sản hoặc bảo lãnh của bên
thứ 3 để đảm bảo cho món vay đó.

Căn cứ vào phương thức cho vay – thu nợ:
- Cho vay từng lần: mỗi lần vay vốn khách hàng và TCTD thực hiện thủ tục
vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: TCTD và khách hàng xác định và thõa
thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
- Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các
dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống.
- Cho vay trả góp: khi vay vốn, TCTD và khách hàng xác định và thõa thuận

số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn
trong thời hạn cho vay.
6
1.1.5. Mở rộng tín dụng ngân hàng
Mở rộng TDNH là một khái niệm kinh tế, chỉ một phương thức kinh doanh
của NHTM qua việc phấn đấu cho sự tăng lên về quy mô, khối lượng, không gian,
chất lượng tín dụng và tăng lợi nhuận của ngân hàng để đảm bảo cho ngân hàng phát
triển bền vững bằng việc các ngân hàng có khả năng đáp ứng nhanh chóng, rộng rãi
các nhu cầu tín dụng của mọi chủ thể hội đủ những điều kiện theo quy định, qua đó
thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của các chủ thể kinh tế và nền kinh tế. [5]
Từ khái niệm trên cho thấy nội dung, khái niệm mở rộng TDNH bao gồm
những điểm chủ yếu sau:
Một là, mở rộng TDNH là một khái niệm kinh tế chỉ một phương thức kinh
doanh của NHTM:
Là một khái niệm kinh tế bởi nó chứa đựng yếu tố kinh tế, phản ánh về lợi
nhuận, về tăng trưởng kinh tế. Mở rộng TDNH còn chứa đựng tính chất xã hội bởi
chứa đựng sự tín nhiệm và sự điều chỉnh của pháp luật và những quy định, những
quy trình, điều kiện mang tính chất pháp lý. Hoạt động tín dụng là một trong những
hoạt động chủ yếu của NHTM và thường mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng,
nhất là ngân hàng ở những nước đang phát triển. Với lẽ đó các NHTM thường rất
quan tâm đến hoạt động tín dụng sao cho có hiệu quả tối ưu.
Hai là, mở rộng nguồn vốn của ngân hàng:
Muốn mở rộng tín dụng các ngân hàng phải có đủ năng lực vốn thì mới có thể
có khả năng cung ứng nguồn vốn theo nhu cầu của các chủ thể trong nền kinh tế, lẽ
đương nhiên là các chủ thể vay vốn phải đáp ứng các điều kiện tín dụng cần thiết mà
ngân hàng đưa ra.
Để có thể thực hiện được mở rộng TDNH các ngân hàng phải mở rộng được
nguồn vốn của ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường hiện đại thì việc các NHTM
phải nâng cao năng lực tài chính, khả năng cung ứng vốn cho nền kinh tế phát triển là
điều quan trọng.

Ba là, mở rộng không gian, thời gian hoạt động:
7
Ngân hàng phải có đủ những điều kiện để mở rộng không gian, thời gian hoạt
động. Điều đó có nghĩa là ngân hàng phải mở rộng cả mạng lưới hữu hình (địa điểm
giao dịch trực tiếp) và vô hình (giao dịch gián tiếp qua sử dụng công nghệ điện tử,
thông tin) nhằm tăng khả năng giao dịch thuận tiện, nhanh chóng, bảo mật, an toàn
đáp ứng nhu cầu và những lợi ích cho nhiều loại khách hàng khác nhau, ở những
không gian rộng và thời gian có tính liên tục.
Do đó để mở rộng TDNH cần chú trọng mở các dịch vụ liên quan đến kinh
doanh TDNH. Mở rộng TDNH không chỉ thuần túy là khách hàng giao dịch trực tiếp
mà cần chú trọng các dịch vụ sử dụng công nghệ điện tử, tin học. Tạo điều kiện để
thu hút khách hàng bằng những dịch vụ sử dụng công nghệ cao, vượt khỏi địa lý hành
chính, quốc gia: chẳng hạn các dịch vụ qua máy rút tiền tự động (ATM) sử dụng
24/24 giờ, thẻ tín dụng sử dụng ở nhiều nơi cả trong nước và nhiều nước khác
nhau…
Bốn là, mở rộng các đối tượng khách hàng:
Lượng khách hàng tăng lên cả về quy mô và chất lượng nhằm sử dụng có hiệu
quả vốn vay từ ngân hàng. Mở rộng khách hàng cả về số lượng và chất lượng nhằm
tăng tần số giao dịch của khách hàng cả về quy mô, số lượng và chất lượng; cả khách
hàng trong nước và ngoài nước; giữ vững khách hàng cũ nhất là khách hàng tốt và
tăng thêm lượng khách hàng mới. Đa dạng hóa các loại khách hàng trong mọi tầng
lớp cộng đồng dân cư. Trong đó cần chú trọng đơn giản hóa và đa dạng các điều kiện
tín dụng cho phù hợp với từng loại đối tượng khách hàng và số lượng, giá trị cấp tín
dụng.
Năm là, mở rộng phải gắn liền với đảm bảo an toàn hiệu quả và nâng cao
chất lượng TDNH:
Một trong những vấn đề quan trọng là an toàn và nâng cao chất lượng tín
dụng. Mở rộng TDNH thường gắn với nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nhất là rủi ro tín
dụng. Để đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng còn phải hết sức chú
trọng đảm bảo thực hiện mục tiêu của nguồn vốn huy động. Sự linh hoạt trong mục

tiêu, thời hạn huy động. Cho vay là cần thiết, song cần phải chú trọng đến vấn đề thu
8
hồi nợ nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của ngân hàng. Thường để đo lường chất
lượng tín dụng của các NHTM, người ta dùng chỉ tiêu nợ quá hạn. Chỉ số này được
tính toán như sau:
Tuy nhiên theo cách tiếp cận hiện nay khi đánh giá chất lượng tín dụng, người
ta xem tỷ lệ nợ quá hạn như tỷ lệ nợ xấu bao gồm nợ nhóm 3+4+5.
Mở rộng TDNH là yêu cầu cần thiết, song phải đảm bảo an toàn, hiệu quả và
nâng cao chất lượng TDNH nhằm đạt tới mục tiêu phát triển kinh tế bền vững.
1.2. TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA.
1.2.1. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Thường khi nói đến doanh nghiệp nhỏ và vừa phải nói đến đặc điểm đầu tiên
để phân biệt với doanh nghiệp lớn, đó là qui mô về vốn, lao động hay doanh thu hoặc
phạm vi hoạt động của nó. Tùy theo điều kiện của từng quốc gia, trình độ phát triển
kinh tế, định hướng phát triển kinh tế, định hướng phát triển trong từng thời kỳ mà
khái niệm này có thể thay đổi. Bên cạnh đó tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhỏ và
vừa của các chương trình trợ giúp cũng khác nhau tùy thuộc vào đối tượng trợ giúp
của từng chương trình cụ thể.
Tham khảo tiêu chí xếp loại DNNVV ở một số nước cho thấy, những tiêu chí
thường được các nước sử dụng để xác định DNNVV là vốn, lao động, doanh thu. Có
nước chỉ dùng một, hai hoặc cả ba yếu tố đó, có nước còn tùy thuộc vào từng lĩnh
vực sản xuất kinh doanh mà quy định các tiêu chí khác nhau. Bên cạnh đó có nước
phân loại doanh nghiệp thành các nhóm theo quy mô như doanh nghiệp siêu nhỏ,
doanh nghiệp vừa để hoạch định chính sách cụ thể cho các đối tượng DNNVV theo
quy mô.
Trong nghị định 90/2001/NĐCP ngày 23/11/2001 về trợ giúp phát triển
DNVVN định nghĩa DNVVN là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số
lao động bình quân hàng năm không quá 300 người và có thể linh hoạt áp dụng một
Tổng dư nợ quá hạn

Tỷ lệ nợ quá hạn = ----------------------- x 100 %
Tổng dư nợ
9
trong hai hoặc đồng thời cả hai tiêu chí nói trên tùy thuộc vào tình hình kinh tế xã hội
của từng ngành, từng địa phương trong quá trình thực hiện các biện pháp, các chương
trình trợ giúp. Theo quy định tại nghị định này không có sự phân biệt giữa các loại
hình doanh nghiệp khác nhau khi đề cập đến một cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc
DNVVN, một cơ sở sản xuất kinh doanh cá thể hay đăng ký kinh doanh cá thể hay
đăng ký theo luật hợp tác xã, luật doanh nghiệp và luật doanh nghiệp nhà nước.
Hiện tại DNNVV được quy định tại nghị định số 56/2009/NĐ-CP ban hành
ngày 30 tháng 06 năm 2009 của Chính phủ. Tại nghị định này định nghĩa DNNVV
như sau: Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo
quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng
nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân
đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là
tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau:
Bảng 1.1: Tiêu chí xác định DNNVV theo nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Quy mô


Khu vực
Doanh
nghiệp siêu
nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp vừa
Số lao
động
Tổng
nguồn vốn
Số lao động

Tổng nguồn
vốn
Số lao động
I. Nông, lâm
nghiệp và thủy
sản
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ
đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
II. Công
nghiệp và xây
dựng
10 người
trở xuống
20 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến
200 người
từ trên 20 tỷ

đồng đến 100
tỷ đồng
từ trên 200
người đến
300 người
III. Thương
mại và dịch vụ
10 người
trở xuống
10 tỷ đồng
trở xuống
từ trên 10
người đến 50
người
từ trên 10 tỷ
đồng đến 50 tỷ
đồng
từ trên 50
người đến
100 người
1.2.2. Những điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.2.2.1. Điểm mạnh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
10
Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có những điểm mạnh cơ bản sau đây:
- Dễ khởi nghiệp: để thành lập doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ chỉ cần một số
vốn đầu tư ban đầu tương đối nhỏ, mặt bằng sản xuất nhỏ hẹp, quy mô nhà xưởng
không lớn.
- Bộ máy quản lý gọn nhẹ, linh họat: Do quy mô doanh nghiệp nhỏ, do vậy bộ
máy quản lý nhỏ gọn, DNNVV có tính chất năng động, linh hoạt, thích ứng nhanh
với sự thay đổi môi trường kinh doanh, thể chế kinh tế xã hội. Có khả năng thích ứng

nhanh trong việc chuyển hướng kinh doanh và ít bị tổn thất do môi trường kinh
doanh biến động, thu hồi vốn đầu tư nhanh.
- Dễ phát huy mọi tiềm năng của doanh nghiệp: DNNVV dễ thành lập với chi
phí thấp, tận dụng triệt để các nguồn lực ở địa phương, nơi mà các doanh nghiệp lớn
không thể chen chân được.
- Các DNNVV có tính chất tự chủ cao: Các DNNVV hoạt động vì mục tiêu lợi
nhuận. Sự phát triển DNNVV góp phần làm tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Chính vì thế, DNNVV phải luôn năng động, sáng tạo, chủ động mới có thể tồn tại và
phát triển trong nền kinh tế thị trường góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế.
1.2.2.2. Điểm yếu của các DNNVV.
DNNVV có những lợi thế riêng, song cũng có những mặt còn hạn chế sau:
- Do hạn chế về vốn nên công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật chưa
được quan tâm, tốc độ đổi mới công nghệ chậm, thường sử dụng công nghệ, kỹ thuật
lạc hậu cũ kỹ nên chất lượng sản phẩm thấp, giá thành cao, khả năng cạnh tranh yếu.
- Không có lợi thế của kinh tế quy mô để có các thành quả và lợi ích mà chỉ có
quy mô tầm cở DN lớn mới có được.
- Trình độ cán bộ quản lý và tay nghề của người lao động còn hạn chế. Lao động
trong khu vực DNNVV chủ yếu là lao động làm việc giản đơn, tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo nghề thấp, năng suất lao động không cao.
- Nhận thức của cán bộ quản lý ở các DNNVV còn yếu, nhất là ý thức chấp hành
pháp luật, chấp hành chế độ quản lý tài chính, kế tóan, chế độ chính sách về thuế.
Hạn chế trong việc liên kết, nhất là liên kết trong một hội ngành nghề.

×