Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Giải pháp nâng cao sự hứng thú tập luyện học phần giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học Xây dựng miền Trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.91 MB, 4 trang )

Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

137

GIẢI PHÁP NÂNG CAO SỰ HỨNG THÚ TẬP LUYỆN HỌC PHẦN
GIÁO DỤC THỂ CHẤT CỦA SINH VIÊN TRƢỜNG
ĐẠI HỌC XÂY DỰNG MIỀN TRUNG
CN. Lại Văn Học
Khoa Khoa học Cơ bản, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Quá trình giáo dục đào tạo con người phát triển toàn diện bao hàm
bốn mặt Đức-Trí-Thể-Mĩ. Giáo dục thể chất là một bộ phận của quá trình hợp
thành đó. Để góp phần nâng cao sự hứng thú tập luyện các môn thể thao tự
chọn, qua đó nâng cao sức khỏe thể chất cho sinh viên của Nhà trường; chúng
tôi tiến hành điều tra, tìm hiểu tâm lý cũng như nhu cầu nguyện vọng của 400
sinh viên đang học tập tại trường và phỏng vấn các thầy cô giáo có thâm niên
giảng dạy Giáo dục thể chất của một số trường đại học, cao đẳng lân cận để
thấy được thực trạng, từ đó có những đề xuất đổi mới bổ sung trang thiết bị
cũng như cải tiến nội dung chương trình học phần Giáo dục thể chất (GDTC)
tự chọn cho phù hợp hơn với điều kiện thực tế đào tạo của Nhà trường
Từ khóa: Nâng cao chất lượng giáo dục thể chất (GDTC) phần tự chọn.

Trong những năm qua tính từ thời
điểm Trường đại học Xây dựng Miền
Trung được thành lập trên cơ sở nâng
cấp trường Cao đẳng xây dựng số 3,
cùng với đó Nhà trường chính thức được
Bộ GD&ĐT cho tuyển sinh bậc đại học,
trong chương trình đào tạo bậc đại học
Giáo dục thể chất (GDTC) là một trong
những học phần cơ bản được đưa vào
giảng dạy ở học kỳ đầu, theo đó GDTC


được chia ra thành 3 học phần, mỗn học
phần 45 tiết gồm GDTC1, GDTC2 và
GDTC3 hai học phần GDTC1-2 cơ bản
là những nội dung cứng được áp dụng
theo chương trình khung của Bộ Giáo
dục & Đào tạo (Ban hành theo Quyết
định số 67/2008/QĐ-BGĐT ngày 9
tháng 12 năm 2008), học phần GDTC3
là học phần tự chọn trên cơ sở định
hướng những môn thể thao của Bộ đưa
ra trong khung chương trình, từ đó các
trường chọn những nội dung cho phù

hợp với điều kiện khí hậu vùng miền
cũng như cơ sở vật chất của trường
mình. Đối với trường ta việc tự chọn nội
dung đó là do Bộ môn GDTC lựa trên cơ
sở chuyên môn sâu của một số ít giáo
viên, như vậy khi giáo viên được phân
công phụ trách giảng dạy lớp nào thì
sinh viên trong cả lớp đó chỉ được học
một môn thể thao nhất định mà không có
quyền đăng ký nguyện vọng, mà điều đó
đáng lẽ ra sinh viên mới là đối tượng
được quyền chọn nội dung khi học phần
này và đăng ký môn thể thao mà mình
yêu thích trong tổng số những môn thể
thao được quyền chọn, việc phân chia
giáo viên giảng dạy học phần này cũng
phải được bố trí theo chuyên môn sâu

của từng thầy cô, có như vậy thầy giảng
dạy sẽ đạt chất lượng cao hơn mà trò
cũng hăng say hứng thú trong việc tập
luyện môn thể thao mà mình yêu thích,
theo đó hiệu quả của quá trình đào tạo sẽ


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

138

được cải thiện nâng cao. Nhận thấy từ
quyền đăng ký môn thể thao để học tập,
thực tế này chúng tôi tiến hành khảo sát
đồng thời chúng tôi phỏng vấn trực tiếp
bằng phiếu điều tra đối với sinh viên hai
đối với các thầy cô giáo của một số
khóa D12 và D13 đang học tập tại
trường đại học, cao đẳng lân cận và thu
trường về động cơ cũng như nhu cầu
được kết quả dưới đây.
nguyện vọng được học tập những môn
1. Đối với sinh viên
thể thao mà mình yêu thích để tìm hiểu
1.1. Tìm hiểu động cơ và sự cần thiết tập
về tính đại chúng đối với nhu cầu tập
luyện thể dục thể thao của 400 sinh viên
luyện thể thao, sự yêu thích cũng như
đại diện cho hai khóa D12X + D12K và
nguyện vọng của sinh viên khi được

D13X + D13K cho được kết quả như sau:
Bảng 1. Kết quả tìm hiểu động cơ và sự cần thiết tập luyện thể dục thể thao
NHU CẦU TẬP THỂ
THAO
SỐ LƯỢNG (400)
TỶ LỆ (%)

RẤT
THÍCH

THÍCH

BÌNH
THƯỜNG

KHÔNG
THÍCH

GHÉT

71

145

157

24

3


17,75

36,25

39,25

6,0

0,75

Để lượng hóa thông tin, chúng tôi đã cho điểm theo các thang độ dưới đây
Rất thích 5 điểm, thích 4 điểm, bình thường 3 điểm, không thích 2 điểm, ghét 1
điểm, sau đó đánh giá tính đại chúng I theo công thức
I = (n1 x 5) + (n2 x 4) + (n3 x 3) + (n4 x 2) + (n5 x 1)
n
Trong đó: n
là tổng số sinh viên được điều tra
n1
là số sinh viên rất thích tập thể thao
n2
là số sinh viên thích tập thể thao
n3
là số sinh viên bình thường với việc tập thể thao
n4
là số sinh viên không thích tập thể thao
n5
là số sinh viên ghét tập thể thao
Kết quả I = (71 x 5) + (145 x 4) + (157 x 3) + (24 x 2) + (3 x 1) = 3,64
400
I = 3,64

Qua kết quả thu được ở trên ta có
1.2. Về nhu cầu tập luyện các môn
thể nhận thấy thái độ, động cơ cũng
thể thao
như sự cần thiết tập luyện thể thao của
Nhóm môn thể thao được chúng
đại bộ phận sinh viên là tương đối cao,
tôi đưa vào bảng điều tra dưới đây là
lớn hơn mức trung bình (3,64 > 3,0)
những môn được Bộ môn GDTC lựa
Nói cách khác là sinh viên tương đối
chọn thuộc khung chương trình mở do
yêu thích tập thể thao. Nhưng bên cạnh
Bộ GD&ĐT ban hành để đưa vào đề
đó cũng còn số lượng tương đối lớn số
cương chương trình đào tạo học phần 3
sinh viên nhìn nhận việc tập luyện thể
của trường ta và đang thực hiện, tuy
thao chưa phải là nhu cầu cần thiết đối
nhiên vì lý do khách quan cũng như
với bản thân.
chủ quan mà hiện nay bộ môn GDTC


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

139

mới chỉ thực hiện được một số môn
làm cơ sở cho việc đề xuất thay đổi nội

như Bóng đá, Aerobic. Chúng tôi điều
dung cho phù hợp với thực tế
tra với mong muốn thu được kết quả
Bảng 2. Kết quả điều tra về nhu cầu tập luyện các môn thể thao
TT

MÔN THỂ
THAO

NAM

NỮ

TỔNG SỐ

TỈ LỆ %

1

Bóng chuyền

81

4

85

21,25

2


Bóng đá

157

2

159

39,75

3

Aerobic

27

6

33

8,25

4

Cầu lông

94

11


105

26,25

5

Bóng rổ

18

0

18

4,5

TỔNG CỘNG

377

23

400

Qua bảng số liệu ở trên ta dễ ràng
nhận thấy các môn thể thao được sinh
viên lựa chọn nhiều nhất là Bóng đá,
Cầu lông, tiếp theo là Bóng chuyền,
các môn thể thao có số sinh viên lựa

chọn ít hơn là Aerobic, Bóng rổ. Sở dĩ
có hiện tượng trên theo chúng tôi nhận
định, sinh viên trường ta là trường kỹ
thuật lại phần đa là nam giới nên có
nhiều sinh viên lựa chọn là môn Bóng
đá, môn Cầu lông, môn Bóng chuyền,
bởi những môn này là những môn thể
thao thông dụng phù hợp với phần lớn
sở thích của các em, cũng có thể những
môn này các em có điều kiện tập từ khi
còn học phổ thông nên cũng dễ ràng
trong việc tiếp cận. Ngoài các môn thể
thao được điều tra trên, chúng tôi còn
thu thập được nhiều ý kiến, kiến nghị
đề xuất của các em, chẳng hạn như nhà
trường nên đưa thêm vào chương trình
giảng dạy một số môn thể thao có tính
phổ biến khác như: Bơi lội, bóng
bàn…Các em cho rằng với những môn
này sau khi các em ra trường vẫn có
thể tập luyện và tham gia cho phong

trào của địa phương, của cơ quan, đơn
vị nơi công tác.
2. Đối với giảng viên
Phần lớn giảng viên khi được hỏi
đều có chung nhận định: Học phần
GDTC tự chọn phải để cho sinh viên
được lựa chọn theo khả năng sở trường
và sự yêu thích của các em, bổ sung mở

rộng số môn thể thao của học phần tự
chọn cho từng năm nếu có đủ điều kiện
để các em sinh viên có nhiều cơ hội lựa
chọn được môn phù hợp với mình, đi
cùng với đó là việc đầu tư cơ sở vật chất
(nhất là nhà tập đa năng để đưa vào
chương trình giảng dạy được nhiều môn
thể thao phổ biến) Giáo viên cũng cần
phải được đi tập huấn, học tập kinh
nghiệm nâng cao trình độ chuyên môn,
phương pháp giảng dạy, phương pháp
huấn luyện, nghiệp vụ trọng tài, đề xuất
lãnh đạo đơn vị tổ chức thi đấu nhiều
hơn các môn thể thao trong trường để
kích thích phong trào phát triển
3. Đề xuất giải pháp
Từ những kết quả thu thập được ở
trên, chúng tôi mạnh dạn đưa ra những
giải pháp cũng như những kiến nghị để
lãnh đạo Nhà trường cân nhắc từng bước


Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015

cho thay đổi bổ sung nội dung, cũng như
từng bước đầu tư mua sắm trang thiết bị
để phục vụ cho việc thực hiện những
thay đổi này
Một là: Đầu tư cơ sở vật chất (cụ thể
thiết yếu nhất là xây dựng nhà tập đa

năng) bởi nó không chỉ phục vụ hữu ích
cho việc tổ chức học tập các môn thể thao
yêu thích như Cầu lông, bóng bàn,
Aerobic…mà nó còn là nơi tổ chức huấn
luyện các đội tuyển, duy trì sinh hoạt của
các câu lạc bộ, tổ chức thi đấu giao lưu, là
động lực kích thích phong trào phát triển
tốt. Ngoài ra cần mua sắm thêm trang thiết
bị phục vụ cho việc giảng dạy chính khóa,
ngoại khóa cũng như huấn luyện các đội
tuyển tham gia thi đấu các giải của tỉnh,
giải khối các trường chuyên nghiệp khu
vực cũng như toàn quốc.
Hai là: Cho thành lập các câu lạc
bộ thể dục thể thao yêu thích trong cán
bộ giáo viên, sinh viên học sinh, đồng
thời có cơ chế để các câu lạc bộ này tồn
tại phát triển.
Ba là: Hằng năm Nhà trường có kế
hoạch cho thay đổi bổ sung những môn
thể thao được đông đảo sinh viên yêu
thích để đưa vào đề cương chương trình
giảng dạy khi có đủ các điều kiện cơ sở

140

vật chất, đội ngũ giảng viên, ngoài ra có
kế hoạch cho giảng viên đi tập huấn kỹ
năng, phương pháp trọng tài… tham
quan học tập những mô hình hay của các

trường có phong trào phát triển.
Bốn là: Vào đầu mỗi học kỳ khi tổ
chức cho sinh viên học GDTC3 (học
phần tự chọn) được đăng ký tập các
môn thể thao theo nguyện vọng 1 và
nguyện vọng 2, khi được lựa chọn nội
dung mà mình yêu thích sinh viên chắc
chắn sẽ có được tâm thế học tập tốt, tạo
được sự phấn khích hồ hởi mỗi khi có
giờ GDTC, tránh được sự nhàm chán,
học đối phó thậm chí là trốn học, bỏ
giờ. Trên cơ sở đó bộ môn sẽ tiến hành
phân công giảng viên theo chuyên môn
sâu, đồng thời sẽ phân thành các lớp
theo nguyện vọng, đi kèm là nhà trường
sẽ bố trí lịch học theo nhóm lớp của
từng khóa khi học học phần này, có như
vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
phát huy đúng sở trường của các thầy
cô cũng như tạo thuận lợi cho sinh viên
học tập tốt cũng như mang mặc trang
phục thể thao theo phân môn và chuẩn
bị tâm lý cho nội dung học được tốt hơn

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Giáo trình giáo dục thể chất .1998. (GT) 101; 102; 201. Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[2] Bộ chương trình khung giáo dục đại học khối ngành kỹ thuật trình độ đại học (Các
trường không chuyên TDTT - Phần tự chọn ). Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[3] Nguyễn Toán, Phạm Danh Tốn. 1993. Lý luận và phương pháp thể dục thể thao,
NXB Thể dục thể thao, Hà Nội.

[4] Nguyễn Đức Văn. 1993. Toán học thống kê, NXB Thể dục thể thao, Hà Nội.
[5] Tạp chí khoa học TDTT, Viện khoa học TDTT số 46/2011, NXB Thể dục thể thao,
Hà Nội.



×