Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

SỰ CAN THIỆP VÀO TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (229.88 KB, 30 trang )

SỰ CAN THIỆP VÀO TỶ GIÁ CỦA NHNN VIỆT NAM
THỜI GIAN QUA
Thực hiện thành công công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước,
nước ta bước sang thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước: hướng
mạnh về xuất khẩu, thực hiện nền kinh tế mở, từng bước hội nhập nền kinh tế
khu vực và thế giới. Sự thành công và cả những thất bại của những nước Đông
Nam á đã đem lại cho Việt Nam nhiều bài học quý báu trong thực hiện chiến
lược CNH-HĐH đất nước, hội nhập khu vực. Đó là các bài học về ổn định kinh
tế vĩ mô với chính sách tài khoá nghiêm khắc (cân bằng ngân sách, lãi suất
thực dương); theo đuổi cơ cấu kinh tế mở với chính sách kinh tế đối ngoại
khôn khéo thu hút đầu tư nước ngoài, kích thích hoạt động ngoại thương mà
trọng tâm là thực hiện chính sách tỷ giá ổn định, linh hoạt đảm bảo cân đối
bằng nội - ngoại tệ nền kinh tế (bấm đúng huyệt kinh tế).
Lựa chọn cơ chế tỷ giá linh hoạt có điều chỉnh, chính sách tỷ giá Việt Nam
hướng tới mục tiêu: ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền, từng bước đưa
đồng tiền Việt Nam (VND) trở thành đồng tiền chuyển đổi, kích thích xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu, đảm bảo cân bằng đối nội và đối ngoại của nền
kinh tế. Trong suốt thời gian qua, thực hiện trọng trách thực thi chính sách tỷ
giá, NHNN Việt Nam, cùng với quá trình tự đổi mới trưởng thành của hệ thống
ngân hàng đã ngày càng nâng cao khả năng thực thi của một chính sách tỷ giá
phù hợp với mục tiêu chiến lược kinh tế của đất nước. NHNN đã thành công
ngoạn mục trong việc thực hiện cải cách chế độ tỷ giá năm 1989, điều chỉnh và
duy trì sự ổn định của tỷ giá qua nhiều biến động (các cuộc khủng hoảng).
Điều đó đã góp phần quan trọng vào công cuộc CNH-HĐH đất nước, hội nhập
kinh tế khu vực và thế giới của nước ta. Tuy nhiên cũng còn không ít những tồn
tại cần hoàn thiện.
I-/ DIỄN BIẾN TỶ GIÁ THỜI GIAN QUA
1-/ Cải cách chế độ tỷ giá năm 1989
1.1-/ Đôi nét về chế độ tỷ giá trước cải cách
Từ năm 1955, sau ngày giải phóng miền Bắc, nước ta đặt quan hệ thương
mại, viện trợ hàng hoá, kỹ thuật với Liên Xô, Trung Quốc và đặt quan hệ buôn


bán với một số nước ngoài XHCN như Hong Kong, ấn Độ, irắc, Pháp... Điều này
càng đòi hỏi phải có một hệ thống tỷ giá làm cơ sở cho các hoạt động đối ngoại
cho các hoạt động đối ngoaị giữa các bên. Một hệ thống tỷ giá dựa trên cơ sở
ngang bằng sức mua ra đời. Thoạt tiên năm 1995, tỷ giá giữa VND và đồng
NDT được xác định dựa trên Sở giao dịch chứng khoán sánh mặt bằng giá
giữa Bắc Kinh và Hà Nội, sau tỷ giá giữa VND và NDT được tính chéo qua NDT
( sau này đồng rúp chuyển nhượng làm cơ sở tính tỷ giá chéo). Bên cạnh đó, tỷ
giá giữa VND và các đồng tiền của các nước ngoài XHCN được tính chéo qua
Đô la Hồng Kông. Chế độ tỷ giá này được áp dụng cho quan hệ thương mại
giữa Việt Nam và các nước. Bên cạnh chế độ tỷ giá này tồn tại hai chế độ tỷ giá
khác nữa là tỷ giá phi mậu dịch và tỷ giá kết toán nội bộ. Tỷ giá phi mậu dịch
hình thành trong các quan hệ thanh toán quốc tế phi mậu dịch( Du lịch, ngoại
giao, văn hoá...). Nó được xác định dựa trên cơ sở so sánh giá trị hai giỏ hàng
hoá thiết yếu cho gia đình hai người, hai con tại hai quốc gia và được điều
chỉnh khi có sự thay đổi giá trị từ 5%( sau đó là 10%) trở lên. Tỷ giá này có sự
chênh lệch lớn so với tỷ giá chính thức và do đó trong quá trình thanh toán
người ta còn phải xác định hệ số quy đổi giữa chúng(hệ số đắt đỏ). Tỷ giá kết
toán nội bộ được Nhà nước ấn định áp dụng cho các đơn vị xuất nhập khẩu
trên cơ sở tỷ giá chính thức cộng thêm một hệ số mà thực chất là để bù lỗ cho
các đơn vị xuất nhập khẩu. tỷ giá này làm cơ sở để xem muốn thu được một
đồng ngoại tệ qua xuất khẩu cần bao nhiêu VND qua đó để có biện pháp giảm
chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Sự tồn tại của chế độ đa tỷ giá này đã làm mất
đi ý nghĩa kinh tế của tỷ giá, hạn chế hoạt động kinh tế đối ngoại.
Trong thời kỳ này, tỷ giá đơn thuần chỉ là cơ sở tính toán cho việc thanh
toán giữa hai nước, nó không mang ý nghĩa kinh tế lớn do đó không phải là
một công cụ kinh tế vĩ mô.
Tỷ giá được ấn định theo ý đồ của Nhà nước, việc ấn định không căn cứ
trên quan hệ cung cầu ngoại tệ và sức mua của đồng tiền (thậm chí còn quan
niệm tỷ giá cao, nền kinh tế mạnh). Tỷ giá được duy trì cố định trong suốt hai
mươi năm trong khi lạm phát cao làm cho tỷ giá khác gía trị thực của nó. Tất

cả những điều đó đã hạn chế tính cạnh tranh của hàng xuất nhập khẩu Việt
Nam, bóp méo các quan hệ thương mại quốc tế, thủ tiêu tính hiệu quả của hoạt
động xuất nhập khẩu, gây ra bội chi ngân sách (do bù lỗ xuất nhập khẩu), thủ
tiêu động lực của sản xuất và cuối cùng là kìm hãm phát triển toàn bộ nền
kinh tế. Từ năm 1970 đến năm 1980, Liên Xô đã phải viện trợ cho ta khoảng 15
đến 20 tỷ Rúp để tài trợ thâm hụt xuất nhập khẩu. Tính ra số viên trợ này
chiếm 30% tổng thu Ngân sách (là 60% nếu tính theo sức mua thực). Trong khi
đó, đến năm 1985, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của ta mới chỉ đạt 0,5 tỷ
Rúp (bằng 10% của Thái Lan, 16% của Philipin). Bên cạnh đó NSNN còn phải
bù lỗ xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Tính đến năm 1988, NS
đã phải bù lỗ 900 tỷ. Số tiền bù lỗ này lại được tài trợ bằng cách phát hành
tiền và do đó thổi bùng ngọn lửa lạm phát, đẩy nền kinh tế vào suy thoái với
cái vòng luẩn quẩn: sản xuất kém - thâm hụt NS - lạm phát - sản xuất kém... Tất
cả những điều này đòi hỏi phải có một chương trình cải cách triệt để rộng
khắp.
1.2-/ Bối cảnh kinh tế - chính trị - xã hội trước cải cách.
Trước cải cách, tình hình kinh tế xã hội nước ta rất khó khăn, có thể nói là
khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng. Điều đó có thể thấy được quan những
nét sau đây:
Thứ nhất: do hậu quả nặng nề của chiến tranh, kinh tế nước ta lâm vào
tình trạng kiệt quệ, sản xuất kém phát triển, phụ thuộc nặng nề vào viện trợ
( trong khi các nguồn viện trợ ngày càng giảm), thâm hụt thương mại, ngân
sách nặng nề, kéo dài. Riêng thâm hụt với Liên Xô là 1,2 tỷ năm 1986, 1,4 tỷ
năm 1988 và 1 tỷ năm 1989. Thâm hụt cán cân thanh toán kéo dài, từ 1986
-1989 là 198,84 triệu USD, bằng 10,1%GDP( năm 1988).
Thứ hai: Bội chi NS, phát hành tiền thường xuyên đã dẫn tới tình trạng
lạm phát phi mã kéo dài, cùng với những sai lầm trong chính sách tiền tệ - tín
dụng, thực hiện chính sách tài chính không nghiêm đã đẩy nước ta vào vòng
xoáy giá - lương -tiền. Đồng tiền Việt Nam bị mất uy tín, hiện tượng đô la hoá
diễn ra mạnh mẽ. Nhà nước với nguồn dự trữ ít ỏi, không có khả năng kiểm

soát cung cầu ngoại tệ, kiềm chế lạm phát. Nền kinh tế trong trạng thái rơi tự
do.
Bảng 1: Tình hình lạm phát, thâm hụt NS giai đoạn 81 - 89
Năm 1981- 1985 1986 1987 1988 1989
1984
Lạm phát (%) 70 90 487 301 308 300
Thâm hụt NS (%) 7,2 5,4 8,2 11
Dự trữ ngoại tệ ( triệu USD) 10 24,2
Nguồn : NHNN Việt nam
Thứ ba: Chế độ tỷ giá bất hợp lý được duy trì trong suốt một thời gian
dài đã bóp méo hoạt động ngoại thương, hạn chế xuất khẩu hình thành hoạt
động của thị trường "chợ đen" cho ngoại tệ. Thị trường này hoạt động lộn xộn,
gây nhiều biến động( cơn sốt) trong cung cầu ngoại tệ, Nhà nước không còn
khả năng kiểm soát lưu thông ngoại tệ. Tỷ giá tự do ngày càng xa rời tỷ giá
chính thức.
Thứ tư: Tình hình tài chính eo hẹp, ốm yếu phụ thuộc nhiều vào viện trợ
nước ngoài. Trong gia đạon 1970-1980, chúng ta nhận 1,5-2 tỷ Rúp do Liên Xô
viện trợ. Số viện trợ này chiếm tới 30% Ngân sách. Bên cạnh đó các thâm hụt
NS lớn được bù bằng tiền phát hành (Nguyên tắc tài chính lỏng lẻo) làm cho
lạm phát tăng nhanh, trầm trọng nền kinh tế.
Bảng 2: Tỷ giá hối đoái chính thức, tự do giữa USD/VND
Năm TGHĐ chính thức TGHĐ tự do Chênh lệch
1985 15 115 7,6 lần
1986 80 425 5,6
1987 368 1270 3,5
1988 3000 5000 1,7
1989 3900 4100 1,1
Nguồn: Đổi mới kinh tế ở Việt Nam, Viện NCQLKTTƯ, 1990
Bảng 3: Tình hình Ngân sách năm 1986 - 1989
Năm

Thâm hụt
1986 1987 1988 1989
% tổng thu 4,6 31 26 40
% so GDP 7,2 5,4 8,2 41
Nguồn: Tỷ giá hối đoái- phương pháp tiếp cận, nghệ thuật điều chỉnh
Nguyễn Công Nghiệp.
Cuối cùng, bối cảnh kinh tế chung tối tăm đã làm suy giảm lòng tin của
các nước cũng như dân cư đối với Nhà nước, các hoạt động kinh tế bị thu hẹp,
hoạt động xã hội đảo lộn, mất trật tự.
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta trước cải cách tỷ giá rất tối
tăm. Đòi hỏi phải có một hướng đi mới, có các biện pháp cải cách triệt để, phù
hợp để thoát ra khỏi khủng hoảng trầm trọng này.
Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã đề ra chương trình đổi mới
toàn diện kinh tế với 3 chương trình kinh tế lớn:
- Lương thực, thực phẩm: giải quyết tình trạng thiếu đói trong cả nước,
cải thiện đời sống nhân dân.
- Hàng tiêu dùng: giải toả khan hiếm hàng hoá, ổn định giá cả thị trường,
ổn định đời sống nhân dân.
- Hàng xuất khẩu: tạo nguồn thu ngoại tệ, mở rộng sản xuất kinh doanh,
tạo động lực mới cho nền kinh tế.
Đây là một bước tiến quan trọng về tư tưởng để đưa đất nước ta ra khỏi
khủng hoảng. Tuy nhiên, nó chưa được đi liền với nhiều hành động cụ thể. Mãi
đến năm 1989, Chính phủ cam kết thực hiện chiến lược ổn định tiền tệ - tài
chính với các nội dung:
- Đổi mới căn bản nội dung và phương pháp vận hành các chính sách kinh
tế, tăng cường sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các chính sách này, sử dụng
các công cụ kinh tế vĩ mô để can thiệp, giải quyết các vấn đề như lạm phát, thâm
hụt NS, thâm hụt cán cân thương mại, lành mạnh hoá môi trường kinh tế. Tập
trung giải quyết các vấn đề cơ bản, sống còn: lương thực, thực phẩm, hàng tiêu
dùng.

- Cơ chế cần phải phá vỡ và thay thế dần bằng các cơ chế mới: cơ chế thị
trường có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Quá trình thay thế, đổi mới tiến
hành thận trọng, nhất quán, có chọn lọc. Trước mắt, tập trung vào một số lĩnh
vực trọng điểm. Trong đó cải cách hệ thống ngân hàng, cải cách tỷ giá là khâu
đột phá quan trọng.
1.3-/ Chương trình cải cách tỷ giá năm 1989:
Chương trình cải cách giải quyết 3 vấn đề:
Thứ nhất, xoá bỏ chế độ tỷ giá cũ, thay thế bằng chế độ tỷ giá nào là hợp
lý nhất? (lựa chọn chế độ tỷ giá).
Thứ hai, ấn định tỷ giá theo đồng tiền nào, mức độ là bao nhiêu? (lựa
chọn mức độ phá giá).
Thứ ba, phương thức tiến hành như thế nào? ( các chương trình tiền tệ,
tài chính cụ thể nhằm đảm bảo cải cách thành công)
Để đưa ra câu trả lời chính xác, khôn khéo cho các câu hỏi trên cần dựa
trên tình hình cụ thể của nền kinh tế - tài chính nước ta lúc bấy giờ: trình độ
phát triển của nền kinh tế, các quan hệ kinh tế, tiềm lực tài chính có thể, các
điểm mấu chốt cần khắc phục với câu hỏi thứ nhất, chúng ta khẳng định rằng
việc duy trì chế độ tỷ giá cũ (đa tỷ giá, tỷ giá cố định, xa rời thực tế) là không
hợp lý vì: Nó phức tạp, không phản ánh đúng ý nghĩa kinh tế của tỷ giá. Tiếp
tới, ta có thể thấy thời gian đó thị trường Đông Âu đã mất, thì chế độ tỷ giá đó
không còn ý nghĩa gì đáng kể. Mặt khác ta cũng không thể dùng chế độ này để
giải quyết vấn đề thâm hụt NS - lạm phát. Như vậy không thể duy trì chế độ cũ.
Vậy lựa chọn chế độ nào? Nếu là một chế độ cố định thì không hợp lý vì: tiềm
lực ngoại tệ của ta ít, lạm phát cao và chưa thể nói là có thể được kiểm soát.
Do vậy không có đủ khả năng để duy trì sự ổn định của tỷ giá cố định kể cả khi
đã phá giá. Bên cạnh đó, thị trường ngoại tệ tự do đã phát triển rất lâu ở nước
ta và vận hành khá linh hoạt. Như vậy, sẽ là khôn khéo nếu ta dựa vào sự sẵn
có này bởi vì ít nhất người dân Việt Nam đã quen với thị trường này.
Với câu hỏi thứ hai, ấn định vào đồng tiền nào và mức độ là bao nhiêu.
Chúng ta có thể thấy được rằng: đồng Rúp không còn ý nghĩa nhiều, trong khi

đồng USD lại được sử dụng rộng rãi do hậu quả của quá trình Đô la hoá. Do
vậy, sẽ là thuận lợi và cũng dễ quản lý, xác định nếu ta lựa chọn đồng USD để
ấn định tỷ giá. Tiếp đó, chúng ta sẽ phải trả lời xem phá giá se được tiến hành
ở mức độ bao nhiêu. Rõ ràng là chúng ta sẽ phải phá giá để xoá bỏ sự bất hợp
lý của chế độ cũ. Nhưng mức độ phá giá là bao nhiêu: bằng thị trường tự do
hay hơn thế nữa?, cái khó ở đây là: Nếu phá giá lớn sẽ lại châm ngòi cho lạm
phát, đặc biệt trong điều kiện nước ta còn phải nhập khẩu nhiều, lương - tiền
của ta khá linh hoạt. Nếu phá giá không đủ lớn thì sẽ không đủ tác động đến
ngoại thương, gây áp lực phá giá liên tiếp và do đó sẽ mất cả uy tín với xã hội -
một mục tiêu khá quan trọng trong cải cách. Vậy mức giá nào? Cách tốt nhất là
dựa trên thị trường tự do có sẵn và sẽ điều chỉnh dần bởi vì ta cũng không có
đủ số liêụ và phương pháp đưa ra một con số cụ thể.
Với câu hỏi thứ 3, phương thức tiến hành cụ thể thông qua các chương
trình tiền tệ, tài chính phù hợp? đây là một câu hỏi khó đòi hỏi ta phải có sự kết
hợp của nhiều yếu tố và sự nhận thức hết sức sâu sắc thực trạng tài chính
nước nhà tài chính nước nhà. Trước hết chúng ta có thể thấy rằng vấn đề đầu
tiên quan trọng là lạm phát phi mã kéo dài trong khu NHNN không có khả
năng kiểm soát khối lượng tiền tệ trong lưu thông; thị trường tài chính cũng
chưa phát triển, các công cụ tiền tệ thông thường không phát huy hiệu lực. Do
vậy, cần phải tiến hành các công cụ mạnh, trực tiếp là: cắt giảm lượng tiền
trong lưu thông thông qua trần tín dụng, sử dụng lãi suất thực dương và một
số biện pháp đặc biệt để có thể kiềm chế được lạm phát, tăng lòng tin của dân
cư. Vấn đề thứ hai là, chúng ta thâm hụt NS kéo dài không chỉ do bù lỗ xuất
nhập khẩu mà còn có các biện pháp chi tiêu không hợp lý. Do vậy đồng thời với
cải cách tỷ giá phải cải cách NS mà cụ thể là thắt chặt chi tiêu xoá bỏ phát
hành tiền bù đắp thâm hụt, cải cách chế độ tài chính đối với các đơn vị quốc
doanh. Mặt khác chế độ giá lương tiền của chúng ta khá linh hoạt. Do vậy việc
thực thi chính sách tài chính nghiêm, hợp lý có thể cải thiện rất nhiều tình hình
vấn đề thứ ba là năng lực sản xuất thấp cũng là nguyên nhân quan trọng. Đặc
biệt trong giai đoạn này đang cấm vận, việc phát huy hết năng lực sản xuất

của toàn bộ nền kinh tế để cải thiện tình hình là một việc làm hoàn toàn đúng
đắn và khẩn thiết. Cần có các chính sách hỗ trợ sản xuất cho cả XNQD và XN tư
nhân, XN xuất nhập khẩu và sản xuất hàng tiêu dùng. Đây sẽ là cái gốc để
thoát ra khỏi khủng hoảng. Cuối cùng cần có các biện pháp chính trị xã hội để
nâng cao lòng tin của người dân và động lực cải cách trên toàn đất nước ở mọi
tầng lớp.
Thực thi chương trình cải cách tỷ giá năm 1989:
Chương trình cải cách chi tiết này đã được Chính phủ quyết tâm thực hiện
một cách đồng bộ. Do đó chúng ta đã đạt được kết quả hết sức ngoạn mục
được ngân hàng thế giới và IMF đánh giá rất cao: lạm phát được chặn đứng từ
3 con số xuống 2 con số, thâm hụt NS giảm bớt, tỷ giá được duy trì tương đối
ổn định, tránh được các cú sốc lớn, hoạt động ngoại thương phát triển mạnh,
sản xuất tăng và đời sống nhân dân được từng bước cải thiện.
Trước hết chương trình về chế độ tỷ giá: Chính phủ xoá bỏ chế độ cũ, tiến
hành tự do hoá thương mại (nhất là xuất khẩu, xoá bỏ độc quyền ngoại
thương). Điều này đã tác động đến các doanh nghiệp xuất khẩu quốc doanh
nhưng đưa họ vào tình thế phải tự cảit cách và phát triển, xét trên tổng thể, tác
động tới xuất khẩu là tốt.
Trong điều hành tỷ giá, biên độ dao động được duy trì ở mức chấp nhận
được cho xuất nhập khẩu và lưu thông vốn thông qua việc giảm bớt các thủ
tục hành chính, tăng cường sử dụng các công cụ ví mô, tỷ giá trở thành tín
hiệu giá cả trên thị trường. Bên cạnh đó, Nhà nước tăng cường công tác thông
tin, công bố tỷ giá kịp thời, tránh tình trạng phao tin, ổn định lòng tin của dân
cư. Giữ bình ổn tỷ giá đã được hình thành. Các biến động đã được sự đoán và
điều chỉnh kịp thời. Sự chênh lêch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá tự do giảm
dần.
Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại: hiện tượng đô la hoá lớn, chưa thực sự
phát huy các công cụ của tỷ giá. Nhưng xét một cách tổng thể, chương trình cải
cách đã rất thành công.
Chương trình cải cách được hỗ trợ tích cực bởi các chương trình về tài

chính và kinh tế cũng như kinh tế đôí ngoại. Trong lĩnh vực tài chính, giảm chi
tiêu chưa cấp bách, xoá bỏ bao cấp bù lỗ, cải cách thuế tăng thu NS, tăng
cường năng lực tài chính của các xí nghiệp và quản lý tài chính của Chính phủ.
Trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại, hạn chế nhập lậu khuyến khích xuất khẩu,
đầu tư nước ngoài. Đồng thời là các biện pháp khuyến khích sản xuất trong
nước ở cả khu vực quốc doanh và tư nhân, tạo điều kiện giải phóng năng lực
sản xuất tư nhân. Trong lĩnh vực tiền tệ, lãi suất được nâng lên 12%/ tháng
đảm bảo lãi suất dương, cắt giảm hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế... Tất
cả những động tác đó đã tạo ra môi trường cực kỳ thuận lợi cho chương trình
cải cách chế độ tỷ giá thành công.
2-/ Diễn biến tỷ giá từ 1989 đến 1992.
Trong giai đoạn này,cùng với quá trình cải cách kinh tế, hệ thống ngân
hàng, chính sách tỷ giá tiếp tục được đổi mới, hoàn thiện theo cơ chế thị
trường. Trước hết là sự ra đời của pháp lệnh Ngân hàng (1989), chia hệ thống
Ngân hàng thành Ngân hàng Nhà nước chuyên thực hiện nhiệm vụ quản lý
tiền tệ, thực thi chính sách tiền tệ và hệ thống Ngân hàng thương mại thực
hiện chuyên doanh tiền tệ.Việc phân định này đã thực sự đưa chính sách tiền tệ
thành một công cụ quản lý vĩ mô. Ngân hàng nhà nước kiện toàn với chức
năng: là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng, là ngân hàng của các
ngân hàng, là cơ quan dự trữ ngoại tệ, vàng bạc đá quý. Ngân hàng nhà nước
thống nhất ban hành và kiểm tra chính sách tiền tệ, tín dụng, thanh toán trong
ngoài nước. Bên cạnh đó, chính sách tiền tệ tín dụng cũng được bước đầu
hoạch định theo cơ chế thị trường với các nội dung:
- Kiềm chế lạm phát duy trì sự ổn định sức mua của đồng tiền góp phần
tăng trưởng kinh tế.
- Sử dụng các công cụ vĩ mô thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời
kỳ: dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng, lãi suất tái chiết khấu, các nghiệp vụ thị
trường mở...
Chính sách quản lý ngoại hối, can thiệp tỷ giá đã được coi là một bộ phận
quan trọng của chính sách tiền tệ và là một công cụ quản lý vĩ mô. Trong thời

kỳ này nó được xác định phải:
- Kiểm soát chặt chẽ việc đưa ngoại tệ ra nước ngoài.
- Mở rộng thu hút tối đa ngoại tệ vào trong nước bằng các biện pháp thích
hợp.
Tỷ giá được coi là một công cụ vĩ mô có vai trò quan trọng trong việc giữ
ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam. Do vậy NHNN đã trực tiếp can thiệp vào tỷ
giá đảm bảo sự ổn định trong thời gian hợp lý. Nói chung, chính sách tỷ giá của
Việt Nam thời kỳ này hướng tới mục tiêu: ổn định giá trị của đồng Việt Nam
góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bên cạnh đó từng bước đổi mới cơ chế quản lý
từng bước đổi mới cơ chế quản lý, điều hành tỷ giá cho phù hợp với cơ chế
mới.
Diễn biến của tỷ giá thời kỳ này khá phức tạp. Trước tiên là việc sang năm
1989, hành loạt các nước bạn hàng cũ chuyển sang thanh toán bằng đồng tiền
chuyển đổi( chủ yếu là USD), khối SEV tan rã. Tỷ giá Việt Nam sau cải cách
chuyển sang chế độ linh hoạt, ấn định theo USD.
Tỷ giá biến động mạnh theo xu hướng tăng lên theo các cơn sốt USD đặc
biệt vào cuối năm. (Bảng 7), đặc biệt cuối năm 1991, tỷ giá lên đến đỉnh cao
vào mức 14450 VND/USD ngày 14/12/91 tại Hà Nội và 14850 ở thành phố Hồ
Chí Minh. Tỷ giá chính thức vẫn chưa bám sát được thị trường.
Cung cầu ngoại tệ trên thị trường không cân đối bởi nạn đầu cơ, cất giữ
đô la, hiện tượng đô la hoá diễ ra rộng khắp. Do thiếu cung, ngoại tệ trở thành
khan hiếm việc mua bán diễn ra vòng vèo khiến cho việc kiểm soát ngoại tệ
không thể thực hiện được. Các công ty, đơn vị xuất nhập khẩu phải tiến hành
vay nóng, vay trả chậm nước ngoài ngoại tệ vào cuối năm để trả nợ, thanh
toán lại càng đẩy tỷ giá lên cao (sốt tỷ giá ) vào cuối năm. Điều này cũng dễ
hiểu bởi chúng ta mới cải cách tỷ giá., lạm phát chưa chắc chắn được kiểm
soát, lòng tin vào VND chưa cao do đó đô la hoá là tất yếu. Mặt khác, dù thị
trường tự do đã có từ lâu song việc cung cấp ngoại tệ là không thể đảm bảo,
cộng với sự khan hiếm USD của các nước đang phát triển thời kỳ cải cách nên
việc cung cầu biến động và có các cơn sốt là có thể thấy được. Đứng trước tình

hình đó, Chính phủ, NHNN đã tiến hành hàng loạt các biện pháp để cải thiện
tình hình nhằm mục tiêuổn định đồng tiền, đặc biệt là có thể tăng cường khả
năng kiểm soát thị trường cung cầu ngoại tệ.
Tháng 4/1991, quyết định thành lập quỹ điều hoà ngoại tệ giao cho thống
đốc ngân hàng quản lý điều hành nhằm mục đích tạo ra thực lực kinh tế để
bình ổn tỷ giá hối đoái.
Tháng 9 và 11/1991 thành lập hai trung tâm giao dịch ngoại tệ tại Thành
phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trung tâm giao dịch được tổ chức gồm các thành
viên là NHNN, NHTM và các công ty xuất nhập khẩu lớn. Cách thức hoạt động
của trung tâm là nó sẽ họp vào những ngày nhất định. Tại đó NHNN căn cứ vào
mức giá của phiên họp trước để ấn định tỷ giá chính thức. Các NHTM căn cứ
vào tỷ giá chính thức này để xác định tỷ giá mua bán trong phạm vi +/-5% tỷ
giá chính thức. Sự ra đời của 2 trung tâm trao đổi ngoại tệ bước đầu đã đáp
ứng một phần nhu cầu ngoại tệ của các đơn vị, thị trường. Nó chứng tỏ một
bước phát triển rất lớn của cơ chế tỷ giá nước ta: xác định tỷ giá trên cơ sở thị
trường. Tuy nhiên, do thời gian họp của 2 trung tâm không thường xuyên,
doanh số giao dịch thấp không đáp ứng được nhu cầu phong phú về ngoại tệ của
thị trường. Nên, mặc dù tỷ giá đã được xác định trên cơ sở thị trường nhưng vẫn
chưa phản ánh đúng cung - cầu thực sự do đó tỷ giá tự do vẫn tiếp tục biến động
mạnh với biên độ cao. Nguyên nhân là chúng ta vẫn chưa kiểm soát được cung
cầu trên thị trường.
Để khắc phục điều đó, tăng cường công tác quản lý ngoại tệ, ngày
25/10/91, HĐBT, Chính phủ ngày nay, đã ban hành quyết định về quản lý ngoại
hối. Quyết định quy định:
- Các đơn vị kinh tế có nguồn thu ngoại tệ phải gửi vào tài khoản ngoại tệ
tại các ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính kinh doanh ngoại tệ.
- Các đơn vị không được phép mua bán, thanh toán với nhau trực tiếp
bằng ngoại tệ mà phải thông qua NHNN và các tổ chức tài chính.
- Các điều khoản cho phép người, tổ chức nước ngoài chuyển ngoại tệ vào
Việt Nam.

Thông qua hàng loạt các biện pháp can thiệp điều chỉnh trên, NHNN đã
từng bước ổn định được tỷ giá thời gian này. Đến cuối năm 1992, tỷ giá tương
đối ổn định. Sự quyết tâm đã đem lại những đóng góp nhất định cho kết quả ổn
định kinh tế -xã hội đạt được giai đoạn 1989-1992. Cụ thể:
- Sự ổn định tỷ giá đã góp phần ổn định, kiềm chế lạm phát từ 76% năm
1989 đến 17,5% năm 1992.
- Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng 20% đạt 7,6 tỷ, thị trường xuất khẩu
được mở rộng, tỷ trọng xuất khẩu tăng.
- Đầu tư nước ngoài tăng lên bởi sự ổn định của tỷ giá và tiến triển của
nền kinh tế. Năm 1992 đã có 262 dự án với tổng số vốn là 2151 triệu USD, thực
hiện 463 triệuUSD. Tóm lại, thời kỳ này, NHNN Việt Nam đã tạo ra được một số
cơ sở tăng khả năng điều tiết tỷ giá nhằm ổn định tỷ giá góp phần ổn định kinh
tế vĩ mô theo mục tiêu đã đề ra.
Bảng 8: Tình hình kinh tế tài chính 1989-1990
Chỉ tiêu 1989 1990 1991 1992
1. Tăng trưởng 5,3 6,1 8,6
2. Lạm phát 76 67,4 67,8 17,5
3.- Xuất khẩu 282,5 584,6 214,5 1190
- Nhập khẩu 1434,2 1209,5 357,0 91,1
- Cân đối
(đơn vị triệu Rúp)
-1151,7 -319,8 -124,5 27,9
Nguồn: Tỷ giá: nghệ thuật tiếp cận và điều chỉnh- Nguyễn Công Nghiệp - 1996.
3-/ Diễn biến tỷ giá giai đoạn 1992-1996.
Hàng loạt các nỗ lực can thiệp của Chính phủ giai đoạn 1989-1992 đã
phát huy hiệu lực, tạo ra sự ổn định của tỷ giá tác động đến các hoạt động kinh
tế vĩ mô khác làm cơ sở cho sự ổn định của tỷ giá thời gian đầu giai đoạn
1992-1996. Nhìn một cách tổng quát, tỷ giá giai đoạn này ổn định, biến động
3,6%. Đó là do các hoạt động can thiệp của NHNN nhằm vào mục tiêu ổn định,
đảm bảo cân bằng vĩ mô. Tuy nhiên, quanh sự ổn định này nảy sinh nhiều vấn

đề cần trao đổi, làm rõ (sẽ được bàn đến ở phần sau).
Sự ổn định của tỷ giá năm 1992 cùng với các nỗ lực của chính phủ đã thúc
đẩy xuất khẩu, khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước. Kết quả giữa năm
1992 chúng ta đã xuất khẩu 36 triệuUSD, thu hút được 262 dự án đầu tư với
tổng số vốn là 2151triệuUSD. Bên cạnh đó, sự phá giá đã hạn chế việc nhập
khẩu, nguồn từ khối SEV giảm, các Việt kiều về thăm quê đã mang về khoảng
300 đến 400 triệuUSD. Như vậy cung cầu ngoại tệ có xu hướng thay đổi cung
lớn hơn cầu tạo ra áp lực lên giá của VND ảnh hưởng xấu đến xuất khẩu. Đứng
trước tình hình đó, NHNN tiến hành các biện pháp can thiệp bằng cách mua
vào ngoại tệ thông qua 2 trung tâm giao dịch ngoại tệ. Trong thời gian này, 2
trung tâm giao dịch ngoại tệ đã phát huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên nó đã đã
bắt đầu bộc lộ những hạn chế nhất định:
- Trước hết các thành viên tham gia thị trường hạn chế đòi hỏi phải được
mở rộng khi có sự phát triển của hoạt động thương mại quốc tế.
- Thời gian mở cửa giao dịch ít, không đáp ứng được kịp nhu cầu của
khách hàng. Mặt khác số lượng giao dịch nhỏ nên các hoạt động giao dịch
ngoài 2 trung tâm vẫn thường xuyên với số lượng lớn.
Do vậy đến ngày 02/09/1994, NHNN quyết định thành lập thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng. Thị trường được tổ chức gồm 24 thành viên là các
NHTM, công ty tài chính, các nhà xuất nhập khẩu lớn, các chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, diễn ra liên tục vào bất kù lúc nào từ 8h sáng đến 3h chiều thông
qua các phương tiện giao dịch hiện đại: mạng vi tính, FAX, Telex, điện thoại. Tỷ
giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng được hình thành theo
hình thức thoả thuận giá cả giữa các thành viên theo quan hệ cung cầu. Ta
thấy thị trường ngoại tệ liên ngân hàng hoạt động linh hoạt hơn và có tính thị
trường hơn so với trung tâm giao dịch do đó đã có nhiều tác động tới hoạt
động kinh doanh ngoại tệ trên toàn quốc. Các giao dịch trên thị trường này
chiếm phần lớn cung cầu ngoại tệ do đó nó phản ánh đúng tỷ giá theo thị
trường.

×