Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Hoạt động cho vay của các NHTM với các Tổng Công Ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.86 KB, 26 trang )

Hoạt động cho vay của các NHTM với các Tổng Công Ty
Chương này trình bày những nội dung cơ bản về hoạt động cho vay
(hoạt động cho vay) cuả các NHTM , về mô hình Tổng Công Ty (TCT) và đặc
điểm của hoạt động cho vay các TCT cuả các NHTM. Mục tiêu của chương
nhằm tạo cơ sở của việc đưa ra các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho
vay những khách hàng vay tại Sở giao dịch I - Ngân hàng công thương Việt
Nam.
I - HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC NHTM
1. Khái niệm, vai trò hoạt động cho vay của các NHTM
1. 1. Khái niệm
Theo nghĩa thông thường, cho vay là việc chuyển giao một số tiền hay
tài sản nhất định cho người khác sử dụng với điều kiện có hoàn trả lại. Khái
niệm phổ biến này được dùng rộng rãi trong đời sống thường ngày, từ những
món tiền hay tài sản có giá trị lớn cho tới những món tiền lớn hay đồ vật có giá
trị nhỏ. Với khái niệm này, hoạt động cho vay hay quan hệ vay mượn nói chung
có 2 đặc điểm chính là:
- Thứ nhất trong quan hệ ấy, chỉ có sự chuyển giao quyền sử dụng
(tiền, tài sản) mà không có sự chuyển giao quyền sở hữu các tài sản hay số tiền
đó.
- Thứ hai, người cho vay được hoàn trả lại sau một thời gian nhất định
theo sự thoả thuận giữa hai bên người cho vay và người đi vay.
Người cho vay có nhận được một khoản lãi nào không cũng phụ thuộc
vào sự thoả thuận này, và trong đời sống thường ngày không phải bao giờ
người cho vay cũng lấy lãi.
Còn đối với các NHTM hay là các tổ chức tín dụng (TCTD) nói chung thì
cho vay là một nội dung nghiệp vụ, đó là việc NHTM giao cho khách hàng một
khoản tiền nhất định trong một thời gian nhất định với điều kiện là họ phải
hoàn trả lại cùng với một khoản tiền vượt trội đóng vai trò là tiền lãi. Như vậy,
ngoài hai đặc điểm vừa nêu đối với cho vay nói chung, hoạt động cho vay của
các NHTM còn có đặc trưng thứ ba là người cho vay (các NHTM) luôn đòi hỏi
một khoản tiền lãi ngoài khoản tiền gốc mà họ đã cho vay. Với một khoản vay


mượn thông thường, người cho vay có thể không đòi hỏi một khoản lãi nào,
điều này có thể xuất phát từ những mối quan hệ cá nhân, hoặc người cho vay
không phải là người kinh doanh tiền,...; song đối với các NHTM, bao giờ họ
cũng phải thu lãi, ít nhất là phải đủ để trả lãi cho người gửi tiền vào ngân
hàng, bởi vì họ cũng là những người kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận. Ở Việt
Nam, theo Quy chế cho vay ban hành kèm Quyết định 324/2001/ QĐ - NHNN1,
thì cho vay là một hình thức cung cấp tín dụng, theo đó TCTD giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc lẫn lãi. Như vậy, ta cũng cần phân biệt
giữa cho vay và cấp tín dụng: một ngân hàng có thể cấp cho khách hàng các
khoản tín dụng bằng các nghiệp vụ cho vay, cho thuê tài chính, bảo lãnh ngân
hàng, tín dụng chứng từ,... Cho vay chỉ là một hình thức cấp tín dụng, song nó
lại là một hình thức chủ yếu và quan trọng nhất của các NHTM. Chúng ta sẽ
thấy rõ điều đó qua phân tích vai trò của hoạt động cho vay.
1.2. Vai trò
Đối với bản thân các NHTM- những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ-
cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất. Trước hết, đó là hoạt động đóng
góp lớn nhất vào thu nhập, và khoản mục cho vay luôn chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng tài sản của một NHTM. Ở Mỹ, các khoản cho vay thường
chiếm khoảng 60% tổng tài sản của các NHTM và đem về từ 65 - 70% thu
nhập. Cũng lưu ý là ở Mỹ cũng như các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển thì các NHTM thường thực hiện rất nhiều nghiệp vụ, và tỷ trọng thu về
dịch vụ thường lớn hơn rất nhiều so với ở các nước kém phát triển khác.
Còn ở các nước kém phát triển hơn như Việt Nam ta, hoạt động cho vay còn
đóng góp nhiều hơn trong tổng thu nhập của các NHTM, chẳng hạn với
Ngân hàng Công thương Việt Nam là hơn 90%, Ngân hàng ngoại thương là
khoảng 80%. Mặt khác, nếu nhìn từ góc độ lịch sử, cho vay là một trong
những hoạt động khởi thuỷ của các NHTM. Cùng với các nghiệp vụ bảo quản
vàng bạc và các đồ vật quý giá, những người thợ vàng, nguồn gốc đầu tiên
của các NHTM cũng tiến hành cho vay bằng vàng bạc để kiếm lời bởi họ

phát hiện ra rằng ở một thời điểm bất kỳ các biên lai trình để rút vàng chỉ
chiếm một tỷ lệ nhỏ trong số tiền vàng họ nắm giữ. Nguyên lý này giờ được
mang tên của chính những người phát hiện ra nó, nguyên lý “thợ kim hoàn”,
và nó còn được các chủ ngân hàng áp dụng. Cho tới ngày nay, dù xã hội đã
phát triển với những bước tiến nhảy vọt thì cho vay vẫn cứ là một trong ba
hoạt động cơ bản chứng tỏ sự tồn tại của một NHTM, đó là nhận tiền gửi,
cho vay và làm dịch vụ thanh toán.
Nếu như cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của các NHTM,
thì đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân nó cũng giữ một vị trí thiết yếu
không kém. Cùng với hoạt động nhận tiền gửi, các ngân hàng đã “ tạo tiền ”
qua cho vay nền kinh tế. Các lý thuyết đã chỉ ra phần lớn các khoản vay ngân
hàng đều tạo ra các khoản tiền gửi ngân hàng khác, và như vậy bằng cách
cấp một kho tăng khối tiền tệ ản vay, một khoản tiền gửi mới sẽ được tạo ra
ở một ngân hàng nào đó và khối tiền tệ sẽ tăng lên. Quá trình sẽ diễn ra theo
chiều ngược lại khi ngân hàng thu nợ. Tất nhiên, khả năng tạo tiền của các
nước là không giống nhau do tỷ lệ dự trữ ở các NHTM từ lượng tiền huy
động được (gồm cả dự trữ bắt buộc và dự trữ tự nguyện) và tỷ lệ giữa tiền
trong dân là khác nhau, song trong một trừng mực nào đó thì khả năng ấy
cũng phụ thuộc vào khả năng tăng dư nợ cho vay của họ. Mặt khác, hoạt
động cho vay còn làm giảm hệ số giữ tiền mặt trong nền kinh tế, bởi các chủ
thể có thể dễ dàng vay ngân hàng cho các nhu cầu chi tiêu, qua đó làm. Các
tác động trên của hoạt động cho vay tới mức cung tiền được cho bởi công
thức:
MS = m. H
m =
Trong đó: MS là mức cung tiền (M
1
)
H là tiền cơ sở
m là số nhân tiền tệ

s là tỷ lệ giữa tiền mặt trong lưu thông và tiền gửi
r là tỷ lệ dự trữ thực tiễn
hoạt động cho vay của các NHTM do đó góp phần thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia. Lãi suất các món vay thường bám rất sát vào mức lãi suất
chiết khấu của ngân hàng Trung ương có tác dụng chi phối lãi suất thị
trường tác động tới các chỉ tiêu lạm phát, rồi tới các biến số vĩ mô khác của
nền kinh tế.
hoạt động cho vay của các NHTM cũng tạo điều kiện thực hiện thành
công các chương trình kinh tế lớn của Nhà nước. Như chúng ta đều biết
trong nền kinh tế thị trường hiện đại này, bên cạnh yếu tố tự do cuả thị
trường, cuả “ bàn tay vô hình” chínhphủ cũng đóng một vai trò tích cực
trong các quá trình kinh tế. Một trong những thể hiện của nó là sự khuyến
khích đầu tư từ phía chính phủ vào một số lĩnh vực hoặc thành phần được
cho là cần thiết, và một trong số các ưu đãi thường được áp dụng là ưu đãi
về tín dụng. Ngoài việc trực tiếp cho vay dưới hình thức tín dụng Nhà nước,
Chính phủ còn khuyến khích các NHTM đầu tư vào những lĩnh vực , những
thành phần kinh tế mong muốn, chẳng hạn việc Ngân hàng Trung ương Đức
nhận chiết khấu các loại chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
tạo động lực để các ngân hàng cho vay vốn khách hàng này mạnh hơn nhiều,
thực hiện được mục tiêu Nhà nước đặt ra. Đối với nước ta thì điều này càng
có ý nghĩa bởi nó còn đáp ứng được yêu cầu của một nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN với cơ sở kinh tế là vai trò chủ đạo của các DNNN. Các
NHTM có khả năng huy động để đầu tư tập trung, trọng điểm, tăng quy mô
của các doanh nghiệp, cải thiện kỹ thuật, công nghệ sản xuất đóng góp phần
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước; nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội thông qua việc nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
Về phía các doanh nghiệp, vốn vay ngân hàng là một nguồn quan
trọng, góp phần hình thành một cơ cấu vốn tối ưu, qua đó nâng cao hiệu quả
kinh doanh. Ta hiểu ngắn gọn cơ cấu vốn tối đa của một công ty là cơ cấu

vốn làm tối đa hoá giá trị thị trường ( hay giá cả cổ phiếu) của công ty đó,
và với cơ cấu vốn tối ưu này thì chi phí vốn bình quân được cho bởi công
thức sau đây là thấp nhất:
WACC = Wd. Kd (1- t) + Wp + WsKs
Trong đó
- WACC là chi phí vốn bình quân
- Wd, Wp, Ws lần lượt là tỷ trọng của nợ vay, vốn huy động từ cổ phiếu
ưu đãi và cổ phiếu thường (hay lợi nhuận giữ lại). Vốn vay có tác dụng
khuyếch đại lợi nhuận qua đòn cân nợ: DFL = . Đòn cân nợ DFL chính là thay
đổi của thu nhập của mỗi cổ phiếu thường thay đổi 1% của lợi nhuận hoạt
động ( EBIT); là lãi suất tiền vay (R) là một loại chi phí hợp lý được trừ ra
khỏi lợi nhuận hoạt động khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Do vậy, theo
công thức tính chi phí vốn bình quân, doanh nghiệp chỉ phải thực chịu mức
lãi suất (1 - t), trong đó Kd là lãi suất tiền vay và t là thuế suất thuế thu
nhập. Tuy vậy, không phải doanh nghiệp sẽ dùng toàn bộ vốn vay để tài trợ
cho hoạt động của mình, bởi thường thì đến một giới hạn nào đó, các ngân
hàng sẽ đòi hỏi lãi suất cao hơn để bù đắp mức rủi ro tăng lên mà họ phải
gánh chịu; Hơn nữa càng sử dụng nhiều nợ vay thì quyền tự chủ kinh doanh
của doanh nghiệp càng bị ảnh hưởng. Như vậy, các doanh nghiệp sẽ cân nhắc
một tỷ lệ vốn vay hợp lý để có một cơ cấu vốn tối ưu, và các NHTM đã giúp các
doanh nghiệp tìm ra một cơ cấu vốn có chi phí rẻ nhất. Trong điều kiện một nền
kinh tế mà hệ thống thị trường còn chưa hoàn chỉnh như ở Việt Nam ta, việc huy
động vốn bằng phát hành cổ phiếu. trái phiếu rất khó khăn, và hơn nữa phần
lớn các doanh nghiệp nước ta hiện nay không phải là công ty cổ phần, thì nguồn
vốn vay NHTM lại càng chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng nguồn huy động của
doanh nghiệp.
Nhưng để được một ngân hàng cho vay, các doanh nghiệp lại phải có
những điều kiện nhất định. Một điều kiện thường thấy là các doanh nghiệp
phải giải trình tình hình tài chính được thể hiện qua sổ sách kế toán, các báo
cáo tài chính, định kỳ chuyển cho ngân hàng các tài liệu thể hiện hoạt động

kinh doanh và sử dụng vốn vay. Chính bởi vậy nó tạo ra sức ép đối với các
doanh nghiệp trong việc thực hiện hạch toan kinh doanh, góp phần quản lý
giám sát nền kinh tế, lành mạnh hoá môi trường kinh doanh. Sự sẵn có của
các khoản cho vay khiến các doanh nghiệp an tâm hơn về vốn lưu động, có
khả năng đầu tư nhiều hơn vào hàng dự trữ nếu thấy có lợi mà vốn lưu
động tự có của họ không đáp ứng nổi. Các khoản cho vay lãi dài hạn của
ngân hàng lại tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư vào tài sản cố định đầu
tư vào sản xuất, cải tiến công nghệ nâng cao năng lực sản xuất. Và dù là cho
vay theo hình thức nào thì lãi suất vốn vay cùng sự kiểm tra giám sát ngân
hàng thúc đâỷ các doanh nghiệp quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả để có
lãi hoàn trả được nợ ngân hàng, tạo uy tín để tiếp tục vay vốn ngân hàng.
Nói tóm lại, cho vay là một hoạt động chủ yếu của các NHTM , qua đó
các NHTM góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, cung cấp một
trong những nguồn vốn chính cho các doanh nghiệp , từ đó nâng cao hiệu
quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền
kinh tế, thực hiện các chương trình kinh tế của Nhà nước.
2. Phân loại các khoản cho vay:
Tuỳ theo các tiêu thức phân loại chúng ta có các loại cho vay khác nhau:
2.1. Theo thời hạn cho vay
Theo tiêu thức này, người ta chia các khoản cho vay thành cho vay
ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Mặc dù hầu hết các nước đều thống nhất về
điều này, nhưng thời gian cụ thể được quy định cho từng loại lại không hoàn
toàn đồng nhất. Ở các nước phương Tây người ta cho vay ngắn hạn có thời
hạn nhỏ hơn 1 năm; các khoản cho vay trung hạn có thời hạn từ trên 1 năm
tới 7 năm; các món cho vay dài hạn có kỳ hạn dài hơn. Tuy vậy cũng có nhiều
khoản cho vay có thời hạn tới 10 năm (như cho vay tiêu dùng) vẫn được coi
là cho vay trung hạn. Còn ở Việt Nam hiện nay, theo quy chế cho vay thì cho
vay ngắn hạn cũng có thời hạn đến 1 năm; cho vay trung hạn có thể tới 5
năm; cho vay dài hạn có thời gian từ 5 năm trở lên nhưng không quá thời
hạn hoạt động còn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập

đối với pháp nhân, không quá 15 năm với cho vay các dự án phục vụ đời
sống. Vậy cũng là một quy định mới vì trước đây (trước khi có quyết định
200/QDNN1 ngày 28/6/2000 ) chúng ta coi cho vay trung hạn có thời hạn
từ 1 - 3 năm, và cho vay dài hạn tới 3- 5 năm. Tất nhiên đây chỉ là sự khác
nhau do quy ước, nhưng nó có tác động lớn tới hoạt động cho vay, bởi vì
điều đó đi kèm với sự quản lý của NHNN.
Phân loại các món vay theo thời hạn là phổ biến của mọi NHTM. Họ sẽ
căn cứ vào đối tượng cho vay mà quyết định loại cho vay cho phù hợp (thuộc
loại ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn, và thời hạn cụ thể), từ đó mà áp dụng
các phương thức kiểm tra, kiểm soát món vay phù hợp. Với cách phân loại
này, các ngân hàng sẽ xây dựng một cơ cấu hợp lý các khoản cho vay ngắn,
trung và dài hạn, từ đó tạo ra cơ cấu kỳ hạn tối ưu của tài sản, phù hợp với
kỳ hạn của nguồn vốn huy động, kết hợp tốt nhất giữa khả năng sinh lời và
khả năng thanh khoản. Ngược lại, cũng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của
khách hàng về các món vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn mà ngân hàng
lập kế hoạch huy động sao cho thoả mãn những nhu cầu đó.
2.2. Theo lĩnh vực đầu tư
Theo cách phân loại này ta có thể chia các khoản cho vay thành:
- Cho vay thương mại và công nghiệp
- Cho vay bất động sản
- Cho vay nông nghiệp
- Cho vay cá nhân
- Cho vay khác
Tuỳ theo điều kiện và yêu cầu quản lý ta có thể chia nhỏ hơn nữa các
lĩnh vực trên để được các loại cho vay với lĩnh vực hẹp hơn. Phân loại các
món vay theo lĩnh vực rất có ý nghĩa trong việc kết hợp giữa đa dạng hoá để
giảm rủi ro với chuyên môn hoá ở mức độ phù hợp. Các NHTM thường dựa
vào các lợi thế của mình (lợi thế về vị trí, về trang thiết bị công nghệ, về quy
mô. về đội ngũ cán bộ,...) để chuyên môn hoá vào một hay một số lĩnh vực
nhằm khai thác triệt để các lợi thế ấy, dự báo tốt về động thái các ngành

mình cho vay, khả năng hoàn trả đúng hạn các khoản vay của khách hàng...
Tuy vậy xu hướng của thế giới hiện nay vẫn là hướng tới các ngân hàng đa
năng, trong đó sự chuyên môn hoá diễn ra ở cấp độ các phòng ban hay bộ
phận của ngân hàng. Bằng cách chia các khách hàng vay ra các lĩnh vực
khác nhau, ngân hàng có thể theo dõi động thái của nền kinh tế và từng lĩnh
vực để mở rộng cho vay vào lĩnh vực này hay rút bớt vốn khỏi lĩnh vực kia.
Chẳng hạn khi thị trường bất động sản suy giảm ở các nước Đông Nam Á và
Việt Nam thì các ngân hàng phải có hướng thu hẹp đầu tư vào đối tượng
này để chuyển sang cho vay các đối tượng khác có hiệu quả hơn. Mặt khác
trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, Chính phủ cũng
thường có những ưu đãi với những lĩnh vực nhất định. Đây cũng là những
mối quan tâm thường xuyên của các NHTM.
2.3. Theo mức độ đảm bảo.
Các ngân hàng có thể cho vay có hay không có đảm bảo tuỳ theo tín
nhiệm cũng như độ rủi ro của phương án xin vay vốn. Từ đảm bảo của
khách hàng ở đây chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là đảm bảo bằng tài sản thế
chấp, cầm cố hay bảo lãnh của bên thứ ba. Các đảm bảo này có mục đích
giảm bớt rủi ro mất mát trong trường hợp người vay không trả được nợ
hay không muốn trả nợ khi đáo hạn. Các tài sản được đem ra thế chấp
thường là các bất động sản trong khi ấy các tài sản được cầm cố lại là
những động sản nhỏ chứng khoán và các giấy tờ có giá khác, vật tư, ... Yêu
cầu cơ bản đối với các tài sản đem ra cầm cố, thế chấp là chúng phải có tính
thị trường, tức là có khả năng thanh lý được. Thường thì các ngân hàng cho
vay dưới mức giá trị thanh lý của các tài sản đảm bảo bởi khi mà giá trị các
tài sản ấy còn lớn hơn gía trị của món vay thì khách hàng còn có động lực
trả nợ. Ở Việt Nam các ngân hàng có thể cho vay tới 70 - 75% giá trị tài sản
thế chấp hoặc tới 90% giá trị các số tiết kiệm cầm cố. Tuy vậy cũng cần
khẳng định mục đích của các đảm bảo trên là tạo động lực buộc khách hàng
trả nợ chứ chẳng ngân hàng nào muốn thanh lý những tài sản đảm bảo ấy
đẻ bù đắp cho ngững món cho vay không thể thu hồi.

Trường hợp khách hàng có tín nhiệm, có tình hình tài chính vững
mạnh và lợi nhuận có được từ dự án sẽ cho vay là khả quan thì ngân hàng
có thể cho vay không cần đảm bảo, điều mà các sở Việt Nam ta gọi là cho vay
tín chấp. Điều đó giải thích tại sao nhiều ngân hàng cấp những khoản cho
vay lớn nhất lại không cần đảm bảo. Đó là các khoản cho vay những khách
hàng chủ yếu, những công ty có quan hệ thường xuyên với ngân hàng, có
tình hình tài chính vững mạnh với lợi nhuận tương đối ổn định bởi hệ thống
quản lý có hiệu quả và các sản phẩm dịch vụ được thị trường sẵn sàng chấp
nhận. Trường hợp này ít nhiều tương tự việc cho vay các tổng công ty ở
nước ta hiện nay. Chúng ta sẽ trở lại vấn đề này ở các phần sau. Như vậy, để
quyết định món vay là có đảm bảo hay không có đảm bảo các ngân hàng
phải dựa vào những yếu tố nhất định như đã phân tích.
2.4. Theo phương pháp hoàn trả
Các khoản cho vay còn có thể được hoàn trả một lần hay trả góp. Cho
vay hoàn trả một lần thì khoản tiền vay được hoàn trả toàn bộ một lần vào
thời gian đáo hạn theo hợp đồng tín dụng, lãi suất có thể được trả theo
những thời hạn nhất định (chẳng hạn theo tháng, theo quý hay năm). Trong
khi ấy, cho vay trả góp đòi hỏi việc hoàn trả theo định kỳ theo nguyên tắc trả
dần trong suốt thời gian thực hiện hợp đồng. các khoản trả nợ có thể bằng
nhau (trả theo niên kim cố định) hoặc không bằng nhau tuỳ theo thoả thuận.
Thông thường các ngân hàng áp dụng phương thức trả góp với các khoản
cho vay trung dài hạn (TDH) để đâùu tư vào các dự án mở rộng sản xuất
kinh doanh hay đầu tư mới, hay đầu tư vào bất động sản còn các khoản cho
vay hoàn trả một lần lại thường được áp dụng với cho ngắn hạn hơn. theo
quy chế cho vay hiện nay, các khoản cho vay ngắn hạn được cấp hai hình
thức là cho vay theo món và theo hạn mức tíh dụng.
2.5. Theo thành phần kinh tế
Ta cũng có thể phân các khoản cho vay ra thành cho vay DNNN và cho
vay ngoài quốc doanh. Đây là cách phân loại không được nhấn mạnh trong
các nền kinh tế TBCN nhưng đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng

XHCN ở nước ta nó lại rất có ý nghĩa thực tiễn. Kinh tế Nhà nước giữ vai trò
chủ đạo; nhà nước có chính sách khác nhau với từng khu vực kinh tế chẳng
hạn việc quy định các DNNN không cần phải có tài sản thế chấp khi vay vốn
tại các NHTMQD, các ưu tiên và hạn chế khác liên quan tới mở rộng hay thu
hẹp tín dụng ngân hàng tới các thành phần kinh tế nói chung. Mặt khác mỗi
thành phần kinh tế lại có những đặc điểm riêng biệt, và pohải nói một cách
công bằng là ngân hàng sẽ có thái độ ứng xử khác nhau trong hoạt động cho
vay các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Đây cũng là điều
hợp lý. Lưu ý là trong cách phân loại này ta cũng có thể phân chia chi tiết
hơn nữa, chẳng hạn đối với cho vay ngoài quốc doanh, cho vay cá nhân; cho
vay công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; cho vay doanh nghiệp tư
nhân; cho vay vốn đầu tư nước ngoài. Đối với cho vay DNNN, bao gồm cho
vay các DNNN độc lập và cho vay các Tổng công ty và thành viên của chúng.
Đề tài này sẽ tập trung vào vấn đề mở rộng cho vay các Tổng công ty, một
loại hình DNNN quy mô lớn.
Trên đây là một số cách phân loại các khoản cho vay, và chúng còn có
thể có nhiều cách phân loại khác nữa theo từng yêu cầu quản lý. Mỗi cách
phân loại dựa trên một tiêu thức nhất định do vậy có những ý nghĩa riêng.
Các NHTM trên thực tế sẽ thường áp dụng nhiều cách phân loại đồng thời
nhằm đạt hiệu quả nhất trong hoạt động cho vay cũng như hoạt động của
toàn ngân hàng. Tiếp sau đây ta đi xem xét nội dung chủ yếu trong hoạt
động cho vay của các NHTM.
3. Nội dung chủ yếu trong hoạt động cho vay của các NHTM
Đối với một NHTM, muốn cho vay nền kinh tế thì trước hết nó phải có
một chính sách cho vay nằm trong hệ thống chính sách kinh doanh của nó.
Điều này là hết sức cần thiết bởi mặc dù các NHTM hoạt động trong một
hành lang hẹp của các quy định quản lý của NHTW và chính phủ, nhưng các
luật lệ và quy định ấy vẫn không đảm bảo chắc chắn rằng hoạt động cho vay
của ngân hàng là an toàn lành mạnh và có lợi cho ngân hàng. Các quy định
ấy cũng không thể chỉ ra các vấn đề cụ thể khi tiến hành cho vay như số tiền,

kỳ hạn, phương thức cho vay. . . . mà điều đó được quyết định thế nào phải
do chính ngân hàng dựa theo các giới hạn trên. Do vậy cần phải có một
chính sách cho vay rõ ràng để xác định phương hướng sử dụng vốn được
hình thành từ những cổ đông và người gửi tiền. Chính sách cho vay của ngân
hàng sẽ đóng vai trò hướng dẫn đối với cán bộ tín dụng (CBTD), đơn giản hoá
và thúc đẩy nhanh quá trình ra quyết định, đồng thời hình thành một mức độ
đồng nhất trong hoạt động cho vay. Để làm được điều ấy, chính sách cho vay
của ngân hàng sẽ bao gồm các nội dung từ chiến lược của ngân hàng trong
hoạt động cho vay (mục tiêu, nguyên tắc ưu tiên,....); chế độ, thể lệ tín dụng;
phương pháp thẩm định tín dụng, hồ sơ vay nợ; tổ chức kiểm tra, quản lý việc
thực hiện các hợp đồng tín dụng. Thực tiễn đã chỉ ra rủi ro ngân hàng sẽ tăng
lên nếu nó không có chính sách cho vay, hoặc nếu có nhưng không triển khai
đến toàn bộ những người thực hiện, hoặc nếu chính sách cho vay ấy không
đồng bộ. Việc thực hiện cho vay sẽ là việc áp dụng chính sách cho vay vào hoạt
động thực tiễn. Dưới đây là các bước mà ngân hàng thường trải qua khi cho
vay một khách hàng. (Ở đây do yêu cầu của vấn đề nghiên cứu, người viết sẽ
nhấn mạnh vào các khách hàng là tổ chức kinh tế (TCKT) )
3.1 Tìm kiếm và thẩm định
Các ngân hàng có thể có được yêu cầu vay vốn do khách hàng đưa tới
hoặc chủ động tìm đến với các khách hàng có nhu cầu để đề nghị phục vụ.
Khi đã có yêu cầu xin vay vốn, điều đầu tiên CBTD phải làm là hướng dẫn
khách hàng về thủ tục và điu kiện được xin vay vốn. Nếu khách hàng đã
nhất trí với các điều kiện và thủ tục ấy thì CBTD hướng dẫn họ lập hồ sơ vay
vốn để ngân hàng chính thức nghiên cứu, thẩm định. Mục đích của thẩm
định tín dụng là xác định khả năng và ý muốn của người vay trong việc
hoàn trả tiền vay phù hợp với các điều khoản của hợp đồng tín dụng, (hay là
ước lượng rủi ro không hoàn trả), từ đó đưa ra quyết định cho vay hay từ
chối, và nếu cho ay thì cho vay bao nhiêu ? Với kỳ hạn và lãi suất nào?
Phương thức cho vay. . . . Khi tiến hàngân hàng thẩm định, ngân hàng phải
trả lời cho hai loại câu hỏi lớn là phải thẩm định cái gì, thẩm định các yếu tố

nào và các nguồn thông tin lấy từ đâu. Chúng ta sẽ đi vào xem xét cách trả
lời với mỗi loại câu hỏi trên.
Trả lời câu hỏi thẩm định cái gì ? Các ngân hàng lại thường chia ra
thành thẩm định các yếu tố về bản thân khách hàng và thẩm định về
phương án, dự án xin vay vốn. Khi thẩm định các yếu tố về bản thân khách
hàng , các ngân hàng thường vận dụng 5 chữ C của Mỹ hay 5 chữ M của
Nhật Bản trong các phân tích. Tựu trung lại chúng bao gồm:
Năng lực vay nợ: Các ngân hàng quan tâm trước tiên đến năng lực
pháp lý và năng lực hành vi dân sự của khách hàng. Là khách hàng cá nhân
họ phải là những công dân đến tuổi trưởng thành nếu không họ phải được
cha mẹ hay người giám hộ bảo lãnh và cùng ký vào đơn xin vay tiền. Đối với
các TCKT, ngân hàng xem xét xem nó có đủ tư cách pháp nhân không, các
giấy tờ xác minh tư cách ấy, tính độc lập và tự chịu trách nhiệm trong đưa
ra các quyết định của nó thế nào ? ; ai là người có thẩm quyền đại diện cho
công ty trong quan hệ vay mượn ? Đây là những yếu tố mà bắt buộc ngân
hàng phải xem xét.
Hai là uy tín của khách hàng : Uy tín ở đây không chỉ trong quan hệ
của khách hàng với ngân hàng, mà còn trong các quan hệ tín dụng cũng như
kinh tế với các ngân hàng và đối tác khác. Lịch sử các mối quan hệ này của
khách hàng trong đó có việc thực hiện các hợp đồng tín dụng thường rất có
giá trị khi đánh giá uy tín của họ. Tuy nhiên không phải lúc nào ngân hàng
cũng nắm được rõ ràng các yếu tố này mà còn phải phán đoán sự sẵn lòng
trả nợ cũng như sự cố gắng thực hiện hợp đồng tín dụng. Tất nhiên cũng
cần nhận thức rằng không phải bao giờ một khách hàng có uy tín trong việc
vay mượn ở quá khứ cùng chắc chắn thực hiện đầy đủ các hợp đồng tín
dụng. Có điều là trong trường hợp họ không làm như vậy, uy tín bao lâu gây
dựng của họ sẽ bị ảnh hưởng, và đây cũng là một cái gì đó khách hàng cân
nhắc.
Ba là năng lực tài chính của khách hàng: Ở đây, các NHTM sẽ xác
định vốn kinh doanh của doanh nghiệp xin vay, và họ sẽ không bao giờ cấp

một món vay nào do doanh nghiệp nếu không được đảm bảo bằng vốn kinh
doanh. Vốn kinh doanh là một trong những tiêu chuẩn đo lường sức mạnh
tài chính của khách hàng, và cũng là một yếu tố quyết định tới khối lượng
tín dụng mà ngân hàng sẵn lòng cung cấp. Các ngân hàng còn phải xem xét
khả năng độc lập, tự chủ tài chính trong kinh doanh, khả năng thanh toán
và hoàn trả nợ của người vay. Điều này được thực hiện thông qua phân tích
các chỉ tiêu đặc trưng tài chính của doanh nghiệp như tỷ lệ thanh toán
nhanh; tỷ lệ thanh toán hiện hành; vốn lưu động thực tế chủ sở hữu; vòng
quay vốn lưu động; hệ số tài trợ trong tổng tài sản . . . cũng nhận thấy là
năng lực tài chính của doanh nghiệp, trong đó có yếu tố lợi nhuận, chịu tác
động của nhiều yếu tố nội tại của doanh nghiệp ấy, đó là khả năng quản lý,
khả năng kỹ thuật - công nghệ, sức cạnh tranh. Đây cũng là những đối
tượng trong thẩm định của ngân hàng, và tất nhiên họ sẽ đánh giá cao các
doanh nghiệp có hệ thống quản lý có hiệu lực, cung cấp các sản phẩm, dịch
vụ có sức cạnh tranh tốt trên thị trường.
Bốn là thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố (nếu có): Về nguyên tắc
những tài sản đem cầm cố, thế chấp phải thực quyền sở hữu của người vay,
và người vay phải chứng minh được điều đó trước ngân hàng bằng những
tài liệu hợp pháp. Không chỉ như vậy, CBTD còn phải thẩm định giá trị
những tài sản ấy một cách chính xác theo giá cả thị trường hiện tại và giá
trị thanh lý ( thường thấp hơn nhiều giá cả thị trường hiện tại) nếu người
vay không trả nợ, sự biến động về giá cả của những tài sản đó.
Năm là các điều kiện kinh tế: Đây tuy không phải là yếu tố thuộc về
bản thân khách hàng nhưng nó lại tác động tới khả năng trả nợ của khách
hàng với vai trò là môi trường hoạt động của cả các doanh nghiệp và ngân
hàng. Cũng chính bởi vậy, các điều kiện ấy cũng sẽ tác động tới sự thành
công hay thất bại của các phương án, dự án sử dụng vốn vay của khách
hàng, do đó chúng ta sẽ được xem xét trong thẩm định phương án, dự án xin
vay. Ở đây, ta có thể nói chung là CBTD sẽ phải liên tục tổng hợp và phân
tích các thông tin về nhịp độ tăng trưởng kinh tế của đất nước, như tỷ lệ

lạm phát, thất nghiệp, lãi suất chiết khấu của NHTW, cân đối ngân sách, cân
đối thanh toán và tỷ giá hối đoái . . . Cụ thể hơn nữa, CBTD phải có và phân
tích được các thông tin về lĩnh vực hoạt động của khách hàng. Người ta nói
CBTD cũng phải là nhà dự đoán kinh tế cùng chính sách ở điểm này.
Tiếp đến là thẩm đinh phương án, dự án xin vay: Nếu xét một cách
toàn diện các yếu tố của phương án, dự án xin vay vốn ngân hàng không thể
tách rời khỏi các yếu tố thuộc về bản thân khách hàng vừa xét ở trên bởi
một lý do đơn giản là phương án xin vay vốn nào cũng phải xuất phát từ
những khách hàng cụ thể để thực hiện kế hoạch hay chiến lược phát triển
sản xuất kinh doanh (SXKD) của mình với các điều kiện cụ thể. Bởi vậy, ngân
hàng phải xem xem phương án sử dụng vốn vay có phù hợp với kế hoạch
SXKD, tiếp đó là điều kiện thị trường hay không; các điều kiện để thực hiện
thành công phương án, các định mức kinh t ế - kỹ thuật, các số liệu về thu
nhập và chi phí cũng như lợi nhuận dự kiến có hợp lý không? Điều này xuất
phát từ mối quan hệ tay ba ngân hàng - doanh nghiệp - thị trường. Đối với
những yêu cầu xin vay vốn ngắn hạn bổ sung cho vốn lưu động nguồn trả nợ
trực tiếp nhất là doanh thu tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ hình thành từ nguồn

×