Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

Tiểu luận cao học ,so sánh đặc điểm của hai nhóm thông tấn và chính luận sử dụng các ví dụ thực tế để chứng minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.33 KB, 27 trang )

Bài làm
So sánh đặc điểm của hai nhóm thông tấn và chính luận. Sử dụng các
ví dụ thực tế để chứng minh:
* Điểm giống nhau:
- Đặc điểm chung
Cung cấp thông tin, phản ánh, bàn luận và nêu những cảm nhận về đời
sống cũng như định hướng dư luận xã hội trong rất nhiều lĩnh vực xã hội. Vai trò
đó được khẳng định trong đặc điểm của hai nhóm thông tấn và chính luận báo
chí.
- Xu hướng phát triển chung
C. Mác cho rằng “cũng như cuộc sống, báo chí luôn nằm trong sự vận
động, phát triển và không bao giờ kết thúc”.
Quan điểm khoa học và biện chứng này đã soi sáng vấn đề xem xét sự vận
động và phát triển không ngừng của báo chí và thể loại báo chí. Nghiên cứu lịch
sử thể loại cũng như hoạt động thực tiễn sôi động của báo chí có thể nhận thấy
thể loại báo chí đang vận động theo ba xu hướng cơ bản sau đây:
+ Xu hướng mở: Trong quá trình vận động, phát triển của xã hội, của báo
chí và nhu cầu khách quan của công chúng, hệ thống thể loại báo chí luôn tiếp
nhận những thể loại mới. Trong báo chí không có một thể loại nào tồn tại bất
biến. Các thể loại đang thay đổi theo cuộc sống, theo thời đại.
Thực tiễn báo chí thế giới và báo chí nước ta đã chứng minh điều đó. Ví
dụ Tin là một trong những hể loại ra đời sớm nhất, sau đó là hang loạt thể loại
khác ra đời ở từng thời điểm khác nhau như: tường thuật, phỏng vấn, bình luận,
xã luận, phóng sự, điều tra…Và ngay trong mỗi thể loại cũng diễn ra quá trình
phân chia các dạng khác nhau để phù hợp với mức độ và quy mô truyền tải sự
kiện, vấn đề. Chẳng hạn trong tin có các dạng tin ngắn, tin hình, tin tổng hợp, tin
ảnh…trong phỏng vấn có phỏng vấn trực tiếp, phỏng vấn gián tiếp, phỏng vấn
minh họa…
1

1




+ Xu hướng đóng: Đào thải hoặc biến thể. Tức là hệ thống thể loại báo chí
cũng đào thải thể loại không phù hợp hoặc tự các thể loại đó tiêu vong, hoặc sử
dụng biến thể. Hiện tượng này hoàn toàn biện chứng, khách quan do những biến
động và nhu cầu của đời sống xã hội.
Ví dụ: Thể văn đả kích, văn châm biến, hay biếm họa chân dung chính trị
trên báo chí nước ta phát triển mạnh và được xem như một vũ khí sắc bén và lợi
hại trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, tức là ở giai đoạn đang có những
đối kháng gay gắt về quyền lợi giai cấp. Tuy nhiên, hiện nay những thể loại đó
rất ít được sử dụng hoặc có sử dụng thì được biến thể khéo léo, mềm mại hơn để
phù hợp với xu thế hòa nhập và hợp tác quốc tế hiện nay.
+ Sự đan xen, hòa quyện và chuyển hóa và chuyển hóa giữa các nhóm và
các thể loại. Đây là xu hướng chung của thể loại báo chí hiện nay. Quá trình này
thể hiện rõ trong nhóm thông tấn có các yếu tố của nhóm chính luận, trong
nhóm chính luận-nghệ thuật có yếu tố của nhóm chính luận và thông tấn. Giữa
các thể loại cũng diễn ra như vậy. Xu hướng này phù hợp với sự sáng tạo và sử
dụng linh hoạt các thể loại của các nhà báo trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, quá
trình này diễn ra có mức độ, do vậy không làm nhòa đi hoặc thay đổi bản chất
của từng thể loại, mà góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng và sinh động của
cá thể loại báo chí nói chung.
Các xu hướng cơ bản trên vốn diễn ra theo quy luật của đời sống xã hội và
tự than báo chí. Và cùng với lao động sáng tạo của người làm báo sẽ tạo diện
mạo mới cho báo chí nói chung và thể loại nói riêng


Tóm lại, hai nhóm thông tấn báo chí và chính luận đã hợp thành hệ thống thể
loại báo chí tương đối hoàn chỉnh. Việc phân chia các nhóm và các thể loại dựa
vào đặc điểm và tính trội của từng thể loại và cũng chỉ tương đối.
* Điểm khác nhau:

1. Đặc điểm của nhóm thể loại báo chí thông tấn
Nhóm thể loại thông tấn bao gồm các thể loại như tin, ghi nhanh, phóng
sự, phỏng vấn, tường thuật. Có thế mạnh để phản ánh, thông báo kịp thời, nhanh
chóng các sự kiện, vấn đề vừa xảy ra hoặc sắp xảy ra trong cuộc sống hàng
2

2


ngày. Các hiện tượng, quá trình, sự kiện hay nhân vật được phản ánh trong các
thể loại này thường đơn lẻ, độc lập hoặc tập hợp một số sự kiện tiêu biểu cho cái
mới, cái thật, cập nhập của xã hội. Trước đây, một số ý kiến cho rằng yếu tố
thông báo, phan ánh là chủ yếu nên việc phân tích, đánh giá, lí giải sâu sắc, tỉ mỉ
vấn đề không cần đặt ra để đảm bảo tính thời sự và khách quan của vấn đề (trả
lời câu hỏi ai? Cái gì? ở đâu? Lúc nào?...là chính); hoặc cái “tôi” của người viết
không nên xuất hiện mà để sự kiện, vấn đề tự nói lên cho khách quan. Tuy
nhiên, qua nghiên cứu, chúng tôi thấy những quan niện trên đã thay đổi do sự
sáng tạo của người viết và nhu cầu của công chúng khi tiếp nhận thông tin. Tùy
thuộc tình huống và vấn đề cụ thể, người viết đã thể hiện chính kiến, quan điểm,
thái độ của mình trước vấn đề hay nhân vật đó ở mức độ nhất định.
Ví dụ: Trong tin đã có yếu tố bình luận (tại sao? Như thế nào?), hoặc
phỏng vấn đã xuất hiện vai trò cái “tôi” của nhà báo khá đậm nét bên cạnh vai
trò của nhân vật hay nhóm nhân vật được phỏng vấn, tiểu biểu cho ý này là
phỏng vấn trên các báo lao động, An ninh Thế giới, Nhà báo và công luận, Tuổi
trẻ, Thanh niên,…trong những năm gần đây.
Đó là sự sáng tạo khá độc đáo của các nhà báo, các đài và báo chí Việt
Nam nói chung, hoặc trong tường thuật thì không thể không thể hiện tình cảm,
thái độ, chính kiến nhất định của nhà báo về một phía nào đó cho dù có “khách
quan” đến mấy.
Ví dụ: Trong tường thuật trực tiếp bong đá giữa đội này với đội khác

trong nước; đội của nước này với nước khác trên truyền hình, phát thanh…


Đi sâu vào các thể loại:
a) Tin:
- Khái niệm: Tin tức là thể loại báo chí cơ bản, ngắn gọn nhất, cô đúc
nhất, nhanh chóng nhất, kịp thời nhất, được thể hiện bằng chữ, bằng lời, bằng
hình ảnh để phản ánh những sự kiện mới sắp xảy ra có tầm quan trọng đối với
xã hội, nhằm thúc đẩy và cải tạo xã hội.
- Đặc điểm:
3

3


+ So với tất cả các thể loại khác, tin là thể loại phổ biến nhất, năng động
nhất và thể hiện rõ sự nhạy bén, tính xác thực của báo chí trong việc phản ánh sự
kiện mới. Nói cách khác thể loại tin có nhiệm vụ thông tin, thông báo kịp thời
nhất về sự việc, sự kiện thời sự mới nhất, dưới một hình thức đơn giản nhất,
ngắn gọn nhất
+ Nói đến tin là nói đến sự kiện. Sự kiện là đối tượng nhận thức, đối
tượng phản ánh của thể loại tin đòng thời là nội dung của tin.
+ Tuy nhiên tin không phải là sự kiện, nó chỉ là một cách phản ánh về sự
kiện đó. Mối lien hệ giữa chúng là cái này có khả năng và nhiệm vụ phản ánh
cái kia. Không phải chỉ có tin mới được phản ánh sự kiện, mà bất cứ thể loại báo
chí nào cũng có liên quan chặt chẽ đến sự kiện hoặc bắt đầu từ sự kiện. Không
phải mọi sự kiện đều trở thành phản ánh của tin. Tin chỉ quan tâm đến các sự
kiện thời sự cấp bách, đó là những sự kiện mới xảy ra, đang xảy ra, sắp xảy ra
hoặc mới phát hiện được…
+ Sự kiện thời sự cấp bách thường tập trung phản ánh thời điểm bắt đầu

và kết thúc của một quá trình vận động phát triển của những sự kiện có quy mô
lớn hơn.
+ Sự khác biệt về phương diện thể loại của tin với các thể loại báo chí
khác là ở chỗ: nó có cách thức riêng trong việc phản ánh những sự kiện thời sự.
Chính điều đó đã tạo ra những điểm khác biệt về nội dung và hình thức của thể
loại.
+ Tin bám sát những sự kiện mới một cách nhạy bén và phản ánh sự kiện
ở những thời điểm tiêu biểu đỉnh cao như sự mở đầu, kết thúc hoặc ở những thời
điểm mà sự kiện bộc lộ thêm những tính chất mới.
+ Tin không phản ánh sự kiện một cách đầy đủ theo tiến trình, diễn biến
mà chỉ thông báo về sự kiện một cách kịp thời ở những thời điểm tiêu biểu – nơi
sự kiện bộc lộ bản chất của nó rõ nhất, tin phản ánh sự kiện giống như những
“lát cắt”.
+ Tin trả lời những câu hỏi một cách đặc biệt ngắn gọn. Trước hết nó tập
trung vào năm câu hỏi đầu tiên là: What (cái gì?), Who (ai?), When (khi nào?),
4

4


Why (tại sao?), Where (ở đâu?) và How ( như thế nào?) ngoài ra còn có thêm
Which (với ai?)


Tóm lại, tin tức là phản ánh nhanh chóng, kịp thời, ngắn gọn, cô đọng và phản
ánh cái mới
Ví dụ: Trước sự kiện xảy ra động đất ở Điện Biên, người đọc bao giờ
cũng cần những thông tin như: Cái gì? (trận động đất); ở đâu? (xảy ra ở Điện
Biên); khi nào? (giả dụ vào lúc 16 giờ ngày 12/9), ai? (trận động đất ảnh hưởng
trực tiếp đến ai?); tại sao? (do Điện Biên nằm trên dải đứt gãy Tây Bắc...); như

thế nào? (Trận động đất diễn ra như thế nào?, cường độ và mức ảnh hưởng...)
b) Ghi nhanh:
-Khái niệm: “Ghi nhanh là một thể kí báo chí nhạy bén trong việc phản
ánh những sự kiện nổi bật vừa xuất hiện, thông qua vai trò của nhân vật trần
thuật nhằm cung cấp ngay lập tức cho công chúng một phác thảo đa diện về cái
thời điểm ban đầu sinh động nhất của sự kiện với những chi tiết tiêu biểu nhất,
gây ấn tượng nhất và sự chứng kiến trực tiếp của các nhân chứng”.
- Đặc điểm: Đối tượng phản ánh của ghi nhanh là những sự kiện quan
trọng, vì vậy ghi nhanh cần sắc sảo nhanh nhạy, phản ánh ngay lập tức
+ Đó là những điều vượt ra ngoài cái thông thường, tươi mới và hấp dẫn,
cái đã và đang sẽ xảy ra. Bằng việc dựng lên một phác thảo đa diện về cái thời
điểm ban đầu sinh động nhất của sự kiện đó, ghi nhanh có thể thỏa mãn được
nhu cầu hiểu biết sự kiện ngay từ phút đầu tiên của công chúng, với những thông
tin ban đầu còn nguyên vẹn hơi thở nóng bỏng của sự kiện. Ghi nhanh là một
trong những thể loại có khả năng đáp ứng yêu cầu thông tin thời sự một cách
nhạy bén nhất, cơ động nhất.
+ Ngoài khả năng thông tin xác thực, tác phẩm ghi nhanh còn có ít nhiều
khả năng thông tin lí lẽ và thông tin thẩm mĩ. Tuy nhiên do phải thông tin nhanh
nên những chi tiết mà ghi nhanh đem đến cho công chúng thường chỉ dừng lại ở
diện mạo bên ngoài. Ghi nhanh không thể trình bày sự kiện một cách đầy đủ,
tường tận về sự kiện như thể loại tường thuật cũng không có đầy đủ điều kiện để
đi sâu cắt nghĩa nguyên nhân, lí giải diễn biến để rút ra những kết luận như
5

5


phóng sự mà chỉ giới thiệu toàn diện thông qua những chi tiết nổi bật nhất, điển
hình nhất đem đến cho công chúng một phác thảo, tạo ra cái nhìn ban đầu tương
đối bao quát, sinh động về sự kiện vừa mới xảy ra.

Ghi nhanh khi phản ánh sự kiện thường thông qua cái tôi trần thuật, một
nhân chứng khách quan.
+ Cái tôi của tác giả phải hết sức năng động, hoạt bát xông xáo và đầy
sáng tạo. Tác giả vừa là người trực tiếp chứng kiến, đồng thời còn là người trực
tiếp tham gia sự kiện hoặc hòa nhập vào sự kiện đó. Chỉ có như vậy tác phẩm
mới tạo ra khả năng thuyết phục công chúng về những điều mà tác giả tin tưởng
và bảo vệ. Để có thể có một phác thảo của sự thật, tác giả viết ghi nhanh ngoài
việc sự dụng những chi tiết có khả năng khái quát còn tái hiện lại những cuộc
phỏng vấn chớp nhoáng của mình đối với các nhân chứng được lựa chọn từ
những đối tượng khác nhau, có góc nhìn khác nhau sẽ tạo ra cho tác phẩm một
phác thảo đa diện về điều kiện và điều đó làm cho tác phẩm càng thêm sinh
động, mang tính khách quan hơn.
+ Tuy nhiên, tác giả phải là người thẩm định cưới cùng trước sự thật và
như vậy, cái tôi trần thuạt phải nhập cuộc, phải tham gia trực tiếp vào sự kiện để
chọn lọc chi tiết nào tiêu biểu nhất, phản ánh đúng bản chất của sự thật. Tác giả
ghi nhanh phải là người có khả năng khám phá, phát hiện và sáng tạo trong khi
thực hiện bài viết của mình. Như vậy, xét về khía cạnh hình thức kết cấu của tác
phẩm ghi nhanh, cái tôi trần thuật là nhân tố có vai trò quyết định trong việc liên
kết các dữ kiện. Sự “chặt chẽ, sắc sảo” của tác phẩm phụ thuộc rất nhiều vào vai
trò của cái tôi đó, điều quan trọng nhất là ở chỗ: tác giả có chọn được một sự
kiện tiêu biểu mang nhiều ý nghĩa hay không và trình bày những chi tiết, dữ kiện
của sự kiện ấy như thế nào để công chúng có được sự phác thảo về cái thời điểm
ban đầu sinh động nhất của sự kiện đó…
Kết cấu của ghi nhanh co dãn, linh hoạt mang tính bút pháp và nhiều thể
loại vừa sinh động sắc xảo lại mang tính văn học
+ Ghi nhanh sử dụng bút phát tổng hợp, bao gồm tả, thuật kết hợp với
những cuộc phỏng vấn gắn xoáy vào những chi tiết nổi bật của sự kiện
6

6



+ Ngoài ra tác giả còn có thể sự dụng kết hợp nhiều thủ pháp khác như
liên tưởng, hồi tưởng, trình bày số liệu hoặc viện dẫn chứng những chi tiết khác
để góp phần làm sáng tỏ sự kiện.
+ Tác phẩm ghi nhanh thường tuân theo một kết cấu đặc trưng gồm ba
phần chính
+ Nêu sự kiện trung tâm (thời điểm, hoàn cảnh, tính chất, ý nghĩa và cả
những câu hỏi và vấn đề đặt ra…)
+ Minh họa, soi sáng sự kiện từ những góc độ khác nhau (thông qua
những chi tiết tiêu biểu, điển hình, phản ánh đúng bản chất của sự kiện. Trong
đó đặc biệt chú ý đến những cuộc phỏng vấn ngắn đối với các nhân chứng trực
tiếp liên quan đến sự kiện).
+ Tóm lược những nét chính, khẳng định hoặc nhấn mạnh ý nghĩa những
vấn đề mà sự kiện đã đặt ra
+ Ba phần nêu trên tạo thành một mô hình kết hợp giữa diễn dịch và quy
nạp. Tuy nhiên, tùy theo tính chất, tầm quan trọng của mỗi sự kiện và sự thârm
định của tác giả trước sự kiện đó mà mỗi phần trong kết cấu nói trên có thể được
co ngắn hay nhấn mạnh để làm nổi bật chủ đề của bài viết.
Ngôn ngữ độc đáo, dễ hiểu cao và có sức biểu cảm.
+Ngôn ngữ của ghi nhanh có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ
thông tin thời sự và ngôn ngữ giàu tính chất văn học.


Tóm lại, ghi nhanh là một thể kí báo chí nhạy bén trong việc thông tin thời sự về
những sự kiện (hoàn cảnh, tình huống…) vừa mới nảy sinh. Bằng việc đem đến
cho công chúng một phác thảo ban đầu của sự kiện, nó thỏa mãn nhu cầu thông
tin ngay lập tức của công chúng. Tuy nhiên, khả năng thông tin thời sự cũng tạo
ra những giới hạn nhất định đối với thể loại này trong việc phản ảnh hiện thực.
Nhìn chung ghi nhanh không có khả năng trả lời hết những câu hỏi mà sự kiện

sinh ra. Là một thể loại xung kích, cũng như tin, ghi nhanh tạo tiền đề cho
những thể loại khác đi sâu vào phản ảnh sự kiện.
Ví dụ: Tại 5 huyện, thành phố của tỉnh Sơn La là Sông Mã, Sốp Cốp,
Mộc Châu, Mai Sơn và thành phố Sơn La, 600 tân binh thuộc các dân tộc Kinh,
7

7


Thái, Mông, Mường, Khơ Mú, La Ha, Dao, Xinh Mun, Lào đã thể hiện quyết
tâm và nhiệt huyết của tuổi trẻ khi vinh dự được đứng trong Quân đội nhân dân
Việt Nam.
Tại điểm giao quân thành phố Sơn La, từ sáng sớm trên các đường phố,
nhiều dòng người đã náo nức đổ về khu vực tổ chức giao nhận quân để tiễn
thanh niên lên đường nhập ngũ. Tren gương mặt của các tân binh, niềm vui, sự
phấn khởi trước giờ phút lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự cũng đã thể hiện
rõ. Tân binh Tòng Văn Trịnh, dân tộc Thái ở bản Pảng, xã Chiềng Đen, thành
phố Sơn La chia sẻ: “ Được đứng vào hàng ngũ quân đội nhân dân Việt Nam là
niềm tự hào của em và gia đình. Em sẽ cố gắng phấn đấu học tập, rèn luyện sẵn
sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, không phụ lòng tin
tưởng của gia đình và đơn vị.”
Trong giây phút chia tay đầy lưu luyến và bịn rịn, không dấu khỏi niềm
xúc động , bà Lò Thị Yên, mẹ của tân binh Cà Văn Bình, ở bản Hìn, xã Chiềng
An thành phố Sơn La cho biết: “Xác định việc nhập ngũ là thể hiện trách nhiệm
và niềm vinh dự của mỗi thanh niên, gia đình đã động viên cháu yên tâm lên
đường làm nghĩa vụ quân sự” (trích: Ghi nhanh “sôi nổi lễ tòng quân”)
c) Tường thuật:
- Khái niệm: “Tường thuật là một trong những thể loại thuộc nhóm các
thể loại báo chí thông tấn, trong đó nhà báo thuật, tả, bình một cách tường tận,
chi tiết sinh động diễn biến của một sự kiện quan trọng xảy ra bằng cách chứng

kiến hoặc tham gia trực tiếp vào quá trình diễn ra sự kiện đó”.
- Đặc điểm:
Tính thời sự và trực tiếp:
+ Đặc điểm này cho thấy người làm tường thuật phải có mặt tại nơi xảy ra
sự kiện. Điều đó cho phép bài tường thuật như một bản sao tức thời về điều kiện
đó. Bằng thế mạnh của ngôn ngữ, cảm xúc, cảm hứng, quan sát trực tiếp và kết
hợp cả ba phương pháp thuật, tả , bình quá trình diễn biến của sự kiện một cách
chân thực, sinh động và hấp dẫn
8

8


+ Nếu so sánh với tin là thể loại khả năng thông báo, phản ánh sự kiện
đơn lẻ trên diện rộng của đời sống xã hội thì tường thuật có ưu thế hơn trong
việc trình bày một cách tỉ mỉ, chi tiết và sâu sắc diễn biến của sự kiện. Ưu thế
này làm cho công chúng có thể hình dung tương đối đầy đủ như thể họ đang có
mặt, đang tận mắt chứng kiến sự kiện đó.
+ Tin thỏa mãn công chúng bằng những thông báo mới nhất về sự kiện
đó, còn tường thuật lại đáp ứng nhu cầu muốn biết sự kiện một cách trực tiếp,
nóng hổi đầy đủ. Đặc biệt tường thuật trực tiếp của phát thanh truyền hình công
chúng còn thấy được hình ảnh sống động, nghe được âm thanh náo nhiệt của
hiện trường, nghe được lời nói của phóng viên, phát thanh viên và nhân vật.
Những yếu tố đó làm cho công chúng hòa nhập và cuốn hút vào diễn biến sự
việc, sự kiện, đảm bảo tiếp nhận sự kiện một cách đầy đủ và hào hứng. Tính thời
sự và trực tiếp là một trong những thế mạnh của tường thuật so với các thể loại
báo chí khác
Tính tổng hợp:
+ Tường thuật là sự kết hợp một cách linh hoạt, chủ động, sáng tao yếu tố
ngắn gọn, cô đọng, súc tích của tin, tư liệu xác thực của hệ thống và lí lẽ chặt

chẽ, hung hồn của bình luận hay xã luận, yếu tố cảm xúc, hình ảnh, ngôn ngữ
của phóng sự, kí sự hay tiểu luận…Tính tổng hợp của tường thuật còn thể hiện
sự hấp dẫn của hai yếu tố
+ Là một sự chắt lọc, kết tinh những tài liệu thực tế mà người tường thuật
thu thập được, hay là văn phong bút pháp, hình ảnh và cảm xúc của tác giả.
Ngoài ra trong quá trình tường thuật nhà báo có thể cung cấp bức tranh sinh
động về sự kiện bằng cách sử dụng những số liệu, tư liệu, hồi kí và các thông tin
khác có liên quan đến sự kiện để làm nổi bật ý nghĩa của vấn đề


Như vậy, tường thuật là sự hội tụ lượng thông tin phong phú, đa dạng về một sự
kiện. Thể loại này mang lại cho công chúng sự liên tưởng và hình dung toàn vẹn
về một sự kiện.
Tính sáng tạo và nghệ thuật:
9

9


+ Đây là một trong những đặc điểm nổi bật của tường thuật. Tính nghệ
thuật thể hiện trước hết ở chỗ sự kiện được thuật lại một cách sinh động, xác
thực và khách quan với thời gian và không gian nhất định
+ Tính sang tạo thể hiện ở chỗ người tường thuật phải trình bày được tư
tưởng cốt lõi của sự kiện đã và đang diễn ra như một bức tranh sinh động.
Tường thuật là sự diễn tả, thuật lại qua lăng kính của người tường thuật để
truyền đạt một ý tưởng nào đó theo mục đích nhất định. Tính sáng tạo ở đây
không phải là sự bịa đặt, suy diễn tô hồng hay hư cấu mà là sự phát hiện, chắt
lọc lựa chọn chi tiết, số liệu, hiện tượng, hình ảnh, nhân vật trong diễn biến sự
kiện để truyền đạt cho công chúng. Sáng tạo trong báo chí là sáng tạo theo tư
duy thực chứng, khách quan trên cơ sở sự thật của đời sống.

Sự kiện diễn biến theo tiến trình:
+ Tường thuật bám sát quá trình diễn biến của sự kiện theo tiến trình phát
sinh, phát triển và kết thúc để phản ánh, thuật, tả và bình theo ý đồ của người
tường thuật hay cơ quan báo chí. Trong một số trường hợp đặc biệt, do sự kiện
có quá nhiều chi tiết, tác giả bài tường thuật có thể sắp xếp lại, lựa chọn hoặc
loại bớt một số chi tiết không cần thiết của sự kiện sao cho logic, hợp lí để công
chúng hình dung về sự kiện hơn. Tuy nhiên thao tác này phải đảm bảo tính chân
thực của sự kiện và duy trì được trình tự chính của sự việc.


Tóm lại, tường thuật là phản ánh những sự kiện quan trọng, đặc sắc có ý nghĩa
thời sự được nhiều người quan tâm đón đọc. Bày tỏ quan điểm của mình nhằm
định hướng thông tin, dư luận xã hội. Sự kiện nổi bật trong đời sống kinh tế,
chính trị xã hội, liên quan mật thiết đến đời sống dân cư thông qua sự việc thông
tin tường tận theo diễn biến sự kiện, đảm bảo đúng chật tự như sự kiện diễn ra.
Tuyệt đối không được thêm bớt một số tình tiết nào. Bám sát làm rõ những biến
cố chính xảy ra, những nhân vật chính của sự kiện, làm rõ môi trường, quan sát
theo dõi từ đầu cho đến kết thúc sự kiện.
Ví dụ: Bản tin kinh tế về kết quả đầu tư tại Bình Dương: Trong tháng 4
đầu năm 2006, Tỉnh đã cấp phép đầu tư cho 54 dự án có vốn đầu tư nước ngoài,
tăng 12,5% so với cùng kỳ năm trước, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 127,6
10

10


triệu USD, tăng 35,5%. Được biết, phần lớn các dự án được đầu tư vào ngành
công nghiệp dưới hình thức 100% vốn đầu tư nước ngoài, các đối tác chủ yếu là
Hàn Quốc với 18 dự án, đạt 27 triệu USD, Đài loan 10 dự án đạt 11,3 triệu USD
và có thêm 38 doanh nghiệp đăng ký bổ sung thêm 50 triệu USD vốn đầu tư.

d) Phóng sự:
- Khái niệm: “Phóng sự là một thể tài báo chí, phản ánh những vấn đề có
tính thời sự, có ý nghĩa chính trị xã hội được bạn đọc quan tâm. Phóng sự có thể
viết bằng bút pháp mang tính văn học. Trong phóng sự có nhân vật và cái tôi
trần thuật. Phóng sự giúp bạn đọc hiểu sâu hơn, rõ hơn sự việc và chia sẻ với tác
giả những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm.”
- Đặc điểm: Cũng như các loại báo chí khác, phóng sự có mục đích cung
cấp cho công chúng những tri thức phong phú đầy đủ, chính xác để họ có nhận
thức, đánh giá đúng người mà việc họ đang quan tâm theo dõi. Ngoài việc thông
tin về người thật, việc thật trong một quá trình phát sinh phát triển, phóng sự còn
cố gắng thẩm định hiện thực và trả lời những câu hỏi mà hiện thực đặt ra. Ví dụ:
Phóng sự “tôi kéo xe” của Tam Lang đã phản ánh cuộc đời cực nhọc của người
phu kéo xe… Những phóng sự đề cập đến vấn đề như tham nhũng, ma túy…
Trong báo chí hiện đại qua các phóng sự của Xuân Ba, Huỳnh dũng Nhân…
Tính đặc trưng trong phản ánh sự thực của phóng sự ở chỗ tác giả phải là
người tận mắt chứng kiến sự việc hoặc tự mình tìm hiểu vấn đề thông qua những
nhân chứng đáng tin cậy. Không chỉ dừng lại trong việc phản ánh một hiện
tượng, một sự kiện đơn lẻ mà phóng sự còn trình bày một chuỗi các sự kiện. Các
sự kiện, sự việc được đặt ra trong tiến trình lịch sử, quá trình phát sinh, phát
triển khiến người đọc dễ dàng theo dõi và nắm bắt được vấn đề.
Viết phóng sự phải có nhân vật
+ Phóng sự là một thể tài của báo chí nhưng lại gần gũi với văn học,
thường viết về những vấn đề của xã hội và viết về những con người trong một
hoàn cảnh điển hình. Trong một chuẩn mực nào đó những nhân vật này đều có
số phận và hoàn cảnh riêng. Một bài phóng sự không có nhân vật thì không phải
11

11



là bài phóng sự, không thể để tác giả nói mà hay để cho nhân vật được nói bạn
đọc muốn biết số phận của nhân vật từ câu chuyện và hình ảnh của chính họ
- Vai trò của cái tôi trần thuật trong phóng sự
+ Trong phóng sự, cái tôi trần thuật đóng vai trò rất quan trọng đó là cái
tôi vừa logic, lí trí, giàu lí lẽ và trong chừng mực nào đó, còn sử dụng sức mạnh
của cảm xúc thẩm mĩ
+ Cái tôi-tác giả trong phóng sự vừa là người dẫ chuyện, vừa là người
trình bày, người lí giải, người kết nối các dữ kiện mà tác phẩm vừa đề cập tới. Ở
một khía cạnh khác cái tôi trần thuật còn góp phần tạo ra giọng điệu của tác
phẩm xuất phát từ đối tượng miêu tả nhằm thẩm định đối tượng đó, giọng điệu
của phóng sự rất sinh động. Khi nghiêm túc, lí lẽ, lúc hài hước, châm biếm khi
lại tràn đầy cảm xúc
+ Thực chất cái tôi tác giả trong phóng sự là sự pha chộn của nhiều cái
tôi: Cái tôi nhân chứng, cái tôi trần thuật, cái tôi thẩm định và cái tôi cảm xúc.
Những cái tôi này không tách bạch riêng lẻ mà xen kẽ một cách hài hòa và uyển
chuyển, tạo lên những giá trị cho tác phẩm phóng sự
+ Không có sự tách bạch rạch ròi nào giữa những cái tôi trong một phóng
sự, mà chỉ có sự nổi trội của yếu tố này hay yếu tố khác. Trong cái tôi đó, các
yếu tố này luôn kết hợp chặt chẽ với nhau. Nhờ sự kết hợp linh hoạt giữa các
yếu tố này mà bức tranh của hiện thực được tái hiện xác thực, sống động, sắc
nét, truyền tải được tư tưởng theo góc độ nhìn nhận và quan điểm của người
viết, có chiều sâu nội tâm và quan điểm của tác giả
- Phóng sự sử dụng bút pháp linh hoạt, giàu hình ảnh, gần với văn học.
+ Phóng sự là thể tài duy nhất có thể trình bày một bức tranh vừa có tính
khái quát, vừa chi tiết, vừa cụ thể về một hiện thực đa dạng, bề bộn, đồng thời lí
giải những vấn đề đặt ra từ hiện thực ấy một cách thảo đáng. Trong tác phẩm
phóng sự, tác giả vẫn có thể sử dụng bút pháp vừa là thông tin thời sự, vừa là
thông tin thẩm mĩ để tạo ra giọng điệu ba thanh.

12


12


+ Phẩm chất văn học trong phóng sự không phải là cách tác giả thêm thắt
vào trong tác phẩm mà phẩm chất đó tồn tại ngay trong hiện thực, có bao nhiêu
là sự kiện, cuộc đời đầy kịch tính, đầy sống động.
- Phóng sự sử dụng bút pháp miêu tả tường thuật kết hợp với nghị luận
+ Miêu tả, tường thuật là những bút pháp được sử dụng ngay từ khi những
phóng sự đầu tiên ra đời. Nó giúp người đọc cảm nhận, hình dung được sự kiện,
con người lồ lộ như đang hiện ra trước mắt họ. sự miêu tả dẫn dắt người đọc tới
gần sự kiện hơn. Chính vì vậy mà phóng sự có ưu thế cung cấp thông tin cho
người đọc một cách chi tiết, đầy đủ nhất.
- Phóng sự có tính văn học:
+ Tính văn học trong phóng sự là cách hành văn. Nhưng còn cách thủ
pháp văn học cũng phải biết dung sao cho đúng. Biết tường thuật khi cần tường
thuật, biết miêu tả khi cần miêu tả. Sử dụng văn học trong phóng sự là sử dụng
ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật sao cho linh hoạt, sinh động giàu hình ảnh.


Như vậy, phóng sự là một thể tài báo chí quan trọng nhất có khả năng thông tin
thời sự về người thật, việc thật một cách sâu sắc trong quá trình diễn biến. Vừa
thông tin sự kiện, phóng sự còn có khả năng thông tin lí lẽ, thông tin thẩm mĩ.
Chính sự kết hợp giữa các yếu tố đó đã tạo cho phóng sự một khả năng riêng
trong việc phản ánh hiện thực, nó có thể thỏa mãn nhu cầu hiểu biết và khám
phá hiện thực của công chúng.
Ví dụ: Trong chương trình Thời sự của Đài THVN có đưa tin về hỏa hoạn
của một trạm xăng dầu ở Hà Nội từ sự bất cẩn của con người. Từ sự kiện này,
ngay sau đó phóng viên có thể đưa ra những đề tài như: Công tác đảm bảo an
toàn vệ sinh lao động – phòng cháy chữa cháy ở các cây xăng trên địa bàn Ninh

Bình như thế nào? Hay công tác kiểm tra của các cơ quan chức năng đối với các
trạm xăng như thế nào? Ý thức của chủ doanh nghiệp, người lao động về phòng
cháy chữa cháy ở Tỉnh Ninh Bình đồng thời trên toàn cả nước...
e) Phỏng vấn:
- Khái niệm: Thuật ngữ phóng vấn là một khái niệm rộng có thể hiểu dưới
nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên có thể hiểu “phỏng vấn báo chí là một trong
13

13


những thể loại thuộc cái thể loại báo chí thông tấn, trong đó trình bày cuộc nói
chuyện giữa nhà báo với một hoặc một nhóm người về vấn đề mà xã hội quan
tâm, phải có ý nghĩa chính trị - xã hội nhất định được đăng phát trên các thông
tin đại chúng”
- Đặc điểm:
+ Phỏng vấn với tư cách là thể loại báo chí độc lập, mặc dù có liên quan
mật thiết với các thể loại báo chí khác, nhưng phỏng vấn có những nét riêng,
khó lẫn với các thể loại khác, phỏng vấn có những đặc chưng cơ bản sau:
+ Phỏng vấn là một cuộc hỏi – đáp giữa người này với người khác bằng
cách trực tiếp hoặc gián tiếp về một số vấn đề, sự kiện nào đó mà xã hội quan
tâm. Có thể nói một trong những điểm khó nhất khi làm phỏng vấn là đặt câu
hỏi
+ Về mặt lí thuyết, có thể phỏng vấn (hỏi chuyện bất cứ người nào mà nhà
báo cần, song trên thực tế để có bài phỏng vấn thành công nhà báo thường chọn
những người có “thẩm quyền”, có “tiếng tăm”, có “địa vị xã hội” để hỏi nhằm
khai thác thông tin cung cấp. Nhà báo đóng vai trò gợi mở, dẫn dắt mối trung
gian giữa tòa soạn – người được phỏng vấn với công chúng. Điều đó cho thấy
trong phỏng vấn nhà báo không phải hỏi cho mình và hỏi cho biết mà là hỏi cho
công chúng.

+ Phỏng vấn không chỉ là phương pháp thu thập thông tin mà còn trở
thành cuộc khảo sát tri thức, chính kiến, thái độ, quan điểm, tình cảm… của hai
bên (nhà báo và người được phỏng vấn)
+ Thông qua gặp gỡ, trao đổi, nói chuyện khi phỏng vấn mà hình thành
xây dựng mối quan hệ. Có thể nói phỏng vấn là một trong những phương thức
tốt nhất để làm truyền thông giữa người với người trong xã hội. Những đặc
trưng trên cho thấy phỏng vấn có ưu thế nhất định. Vì vậy, nó được sử dụng phổ
biến và rộng rãi trên các loại hình báo chí.
Ví dụ: Hãy cho tôi biết về anh/chị?
Điểm mạnh của anh/chị là gì?
Tại sao anh/chị muốn làm việc cho công ty chúng tôi?
14

14


2. Đặc điểm của nhóm các thể loại báo chí chính luận:
Nhóm các thể loại báo chí chính luận gồm xã luận, bình luận, chuyên
luận, điều tra, bài phê bình…với chất trí tuêj, tư duy, lý luận, lý lẽ, hùng biện
trong tác phẩm.
Người viết các thể loại trong nhóm này phải huy động kinh nghiệm, trí
tuệ, kiến thức tổng hợp, kết luận tư duy khoa học và tư duy logic, các luận cứ,
luận chứng chặt chẽ trong mạch tư duy nhất quán để lí giải vấn đề. Nhà báo lão
thành Hoàng Tùng cây bút viết chính luận tên tuổi của báo chí nước ta cho rằng
“Luận là hướng dẫn tư tưởng, hướng dẫ suy nghĩ, phân tích tình hình, sự kiện
trên một dòng biến đổi, phát triển không ngừng. Người viết luận phải nắm được
đường lối, chính sách, lý luận, am hiểu sâu công việc. Mỗi ý kiến khái quát đều
dựa trên vốn tri thức được rút ra từ các hoạt động xã hội. Viết luận phải sáng tạo,
không lặp lại. Phải truyền sức sống vào những điều mà mình cho vào nguyên
lý”. Đó là những lí do cơ bản để lý giải vì sao các bài xã luận, bình luận lại quan

trọng, có tiếng vang và hiệu quả như vậy trong những thời điểm lịch sử nhất
định của đất nước.
Một yêu cầu nữa đối với các thể loại này là khi xem xét, đánh giá hay
bình luận một sự kiện, vấn đề nào đó, nhà báo không chỉ nêu hiện tượng bên
ngoài mà còn phải chỉ ra nguyên nhân bản chất bên trong của vấn đề. Thái độ,
quan điểm, chính kiến của người viết cũng phải thể hiện rõ rang, nhất quán và
công khai trước vấn đề mình cần đề cập. Với những vấn đề xã hội phức tạp,
người viết cần có những đề xuất, gợi mở, hướng dẫn để giúp tháo gỡ vấn đề.
Điều này thể hiện tính xây dựng, đạo đức, trách nhiệm xã hội và nghĩa vụ công
dân của nhà báo, góp phần xây dựng một nền “báo chí có giải pháp” để đóng
góp hữu hiệu cho xã hội.
Điều lưu ý nữa là, các thể loại trong nhóm này phải dựa trên cơ sở tư liệu,
sự kiện, hiện tượng, quá trình có hệ thống để đánh giá, phân tích, bình luận và lí
giải vấn đề theo mục đích và ý đồ nhất định của nhà báo hay cơ quan báo chí.
Có thể nói, các thể loại này thuyết phục công chúng, giúp công chúng hiểu được
15

15


sự thật bằn luận cứ, luận chứng và lý lẽ hay nói cách khác “tính trội của nhóm
các thể loại báo chí chính luận là thông tin lý lẽ”.
a) Chính luận
• Quan niệm chung của chính luận:
1. Quan niệm 1: Chính luận là một nhóm thể tài báo chí. Nó có chung
hình thức và thông tin chính luận. Chính luận bao gồm một số thể tài độc lập
(bản than nó chứa đựng phương pháp, bản chất riêng không phụ thuộc vào thể
tài khác): xã luận, bình luận, tiểu luận, chuyên luận, điểm báo…
2. Quan niệm 2: Trong thực tế, những quan niệm về chính luận và các thể
tài trong nhóm chính luận hiện nay không thống nhất.

Cụ thể: + không thống nhất trong bản thân những người nghiên cứu báo
chí
+ không thống nhất giữa báo chí của ta với thế giới.
Trên thế giới không có nhóm chính luận mà có từng thể tài cụ thể. Còn ở
Việt Nam, bản thân xã luận, bình luận…là một thể loại riêng nhưng được xếp
vào một nhóm là chính luận. Nhưng trong đó các thể tài có tính chất, bản chất
khác nhau.
3. Quan niệm 3: Mặc dù còn nhiều quan điểm chưa thống nhất nhưng ở
những điểm cơ bản thì nó có được sự thống nhất như: về phạm vi, nó đề cập đến
những cái khái quát mang tính tiêu biểu, chỉ ra hướng vận động, thống nhất về
đối tượng tác động. Trong tác phẩm chính luận, các sự kiện riêng rẽ không được
xem xét một cách có hệ thống, có logic.
• Khái niệm và đặc điểm chính luận
- Khái niệm: Chính luận là nhóm thể tài báo chí dung lý lẽ để soi sáng sự
kiện, giúp công chúng hiểu đúng sự thật hướng họ đến hoạt động tích cực, phù
hợp với quan điểm tư tưởng và ý đồ của tác giả
- Đặc điểm: Chính luận mang đặc điểm chung của báo chí. Ngoài ra,
chính luận còn có những đặc điểm riêng sau:
a) Chính luận báo chí là nhóm thể tài báo chí dung lý luận để soi sáng sự
kiện
16

16


Mục đích: nhằm thay đổi mục đích, tư duy lí luận của công chúng chứ
không phải để cung cấp thông tin
b) Chính luận báo chí coi là một dạng văn nghị luận (là một dạng văn mà
ở đó người ta dung lý lẽ, dẫn chứng để bàn bạc, làm rõ vấn đề nào đó nhằm để
cho người đọc, người nghe hoạt động theo)

Chính luận thể hiện trực tiếp quan niệm của chủ thể sáng tạo để công
chúng hiểu và hoạt động theo
Biểu hiện:
+) Lối tư duy trong văn nghị luận khác với lối tư duy trong văn phản ánh
(lối tư duy hình tượng). Trong chính luận là lối tư duy logic, nó dựa trên những
dữ kiện, phán đoán để tư duy.
+) Hình thức: thông thường, lối thể hiện của văn là tình tiết, diễn biến
được thể hiện, triển khai theo mạch cảm xúc. Còn trong văn chính luận, nó lại
diễn biến theo diễn biến của sự kiện đó hoặc diễn biến theo trình tự nhận thức và
theo cách khai triển vấn đề. Cụ thể, nếu trong văn học được thể hiện qua các tình
tiết, hành động, lời nói thì trong chính luận, chủ đề tác phẩm được thể hiện qua
hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng. Nói cách khác, văn nghị luận là văn
được thể hiện qua phương pháp nghiên cứu khoa học rất chặt chẽ.
+) Có 2 loại chính luận: chính luận nghệ thuật và chính luận báo chí. Tuy
nhiên sự phân biệt này chỉ mang tính chất tương đối.
c) Chính luận thể hiện rõ nét, tập trung tư tưởng tác giả
+) Bản thân báo chí là phương tiện định hướng tư tưởng. Bởi lẽ chính
luận báo chí là nhóm những thể tài không phản ánh hình thức mà phản ánh bên
trong, làm thay đổi nhận thức của công chúng về sự kiện ấy. Do đó tác giả phải
bày tỏ quan điểm, tư tưởng của mình để định hướng cho nhận thức hoạt động.
Nói cách khác, chính luận báo chí là xem xét, soi sáng những sự kiện bằng lí
luận, mà đặc trưng của lý luận là tính chất định hướng, chỉ đường. Do đó tác giả
phải bày tỏ quan điểm, thái độ.

17

17


+) Thái độ, quan điểm của tác giả được bày tỏ bao nhiêu thì càng có khả

năng định hướng bấy nhiêu. Những sự kiện trong tác phẩm chính luận được soi
sáng bởi tư duy lí luận, tư duy logic
- Vai trò của chính luận trong hoạt động báo chí:
Có thể nói rằng, chính luận là nhóm thể tài có vai trò quan trọng trong
hoặt động báo chí. Nó có khả năng giáo dục, tuyên truyền, lí luận cho công
chúng. Cụ thể: là nhóm thể tài có khả năng truyền tải thông tin tổng hợp, khái
quát cao. Có khả năng truyền tải thông tin định hướng, chiến lược. Tọa ra cho
công chúng một tầm nhận thức mới cao hơn, khái quát hơn.
Ví dụ: Văn bản chính luận bao gồm các cương lĩnh; các bài Tuyên Ngôn
độc lập; lời phát biểu; lời kêu gọi toàn dân, toàn quốc góp phần tham gia các bảo
vệ độc lập dân tộc...
b) Bình luận
• Quan niệm chung về bình luận:
+ Bản chất của bình luận là thể hiện bình phẩm, đánh giá của mình về sự
vật, sự việc, con người…và thể hiện quan điểm và thái độ của mình.
+ Không phải là khi có báo chí thì mới xuất hiện bình luận. Bình luận vốn
là phương pháp được con người sử dụng để lựa chọn thông tin và định hướng
cho người khác.
+ Khi có báo chí thì báo chí nhận thức được vai trò cũng như ý nghĩa to
lớn của bình luận nên mới coi bình luận là một trong những thể tài thông tin
quan trọng của mình
+ Cùng với sự phát triển của xã hội thì các nhu cầu thông tin, thưởng thức
các giá trị được tạo ra. Và thể tào bình luận ngày càng được rèn dũa và hoàn
thiện hơn. Ngày nay nó trở thành một thể tài mang tính chiến đấu rất cao của
báo chí.
• Sự hình thành và phát triển của bình luận
+ Bình luận là một thể tài báo chí xuất hiện tương đối muộn so với những
thể tài báo chí khác trên thế giới. Nửa đầu thế kỷ 19, thể tài này mới xuất hiện
trên báo chí của nước tiến bộ ở Châu Âu. Theo Karenstorkal thì bình luận xuất
18


18


hiện đầu tiên ở Anh và Pháp. Tuy nhiên trong thời gian mới xuất hiện thì bình
luận cũng chưa phát huy được sức mạnh của nó. Theo tác giả của một cuốn
“cách viết một bài báo” của NXB TTXVN (Hà Nội – 1978) trang 96 cho rằng:
“Bình luận có tác dụng soi sáng, giải thích một sự kiện, một vấn đề hoặc một
hiện tượng xã hội nào đó”.
+ Sau đó, bình luận phát triển rộng rãi ở nhiều nước trên Thế giới. Tuy
nhiên ở mỗi nước người ta sử dụng và có quan hệ về bình luận theo cách riêng
+ Công chúng được làm quen với chuyên mục: Toàn cảnh Thế giới, toàn
cảnh Châu Âu. Thể loại bình luận có nhiều điểm tương đồng với thể loại văn
nghị luận nên những nhà văn tham gia vào sáng tạo thể loại này nhiều.
+ Ở đầu thế kỷ 20, bình luận phát triển rộng rãi ở nhiều nước trên Thế
giới. Ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn. Khi xuất hiện ở Việt Nam, nó là thể loại
hoàn chỉnh của báo chí. Trong thực tế đời sống thì bình luận đã xuất hiện từ lâu
đời cùng sự phát triển của con người chứ không phải khi có báo chí mới có bình
luận.
+ Trước đây, về lý luận, ta kế thừa lý luận của báo chí Liên Xô, Trung
Quốc, sau này học giả Việt Nam mới nghiên cứu và đưa ra nhiều quan điểm.
+ Đối với thể loại bình luận, để có tên gọi bình luận thì nó phải trải qua
tên gọi khác nhau ở từng giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong tác phẩm “Nghề
nghiệp và công việc của nhà báo”
+ Hội nhà báo Việt Nam năm 1961 dùng thuật ngữ “ngôn luận báo chí” để
chỉ thể loại này. Vào những năm 1973 -1974 của thế kỷ trước, rất nhiều tài liệu
về báo chí theo xu hướng của Nga gọi thể loại này là luận văn. Sau giải phóng
miền nam (1976), học giả Lưu Quý Kỳ gọi thể loại này nghị luận. Thực ra nghị
luận là tên gọi của một thể loại văn trong văn học, thuật ngữ này xuất hiện ở
nước ta từ thời phong kiến. Sau đó khi cuốn “giáo trình nghiệp vụ báo chí” của

trường Tuyên huấn TW – 1978 gọi đây là bình luận báo chí.
• Khái niệm và đặc điểm
- Khái niệm:
19

19


+ Bình luận là một thể tài của báo chí, nó có nhiệm vụ diễn đạt tư tưởng
của cơ quan báo chí và một vấn đề đời song nào đó, rút ra được kết luận để từ đó
giúp người đọc hiểu và hành động theo một hệ thống quan điểm nhất định.
Nhưng cũng có quan điểm cho rằng bình luận là một cách bàn luận về một vấn
đề thời sự xã hội nào đó bằng tổng hợp các phương pháp như: phân tích, giải
thích, chứng minh…nhằm định hướng cho công chúng theo một quan điểm nhất
định.
+ Xuất phát từ vai trò của thể loại này mà nhiều ý kiến cho rằng bình luận
là thể loại hữu hiệu để giáo dục. Như vậy bình luận được hiểu trước hết là một
thể tài độc lập, nó sử dụng phương pháp thông tin tổng hợp. Mục đích của nó là
tạo ra một cách hiểu chung nhất của công chúng về một vấn đề thời sự xã hội
+ Như vậy, bình luận là một phương pháp vừa là một cách đánh giá, bàn
luận về một sự kiện, vừa là thể tài báo chí có khả năng chỉ ra bản chất của quan
hệ nhằm định hướng hành vi cho công chúng
- Đặc điểm:
+ Cũng giống như thể tài các báo chí khác, bình luận có những đặc điểm
chung của báo chí và có những đặc điểm của nhóm chính luận báo chí. Ngoài ra,
bình luận còn mang một số đặc điểm riêng. Theo quan điểm của Trần Quốc Việt,
bình luận có hai đặc điểm cơ bản là bình và luận. Bình được hiểu là bình phẩm,
đánh giá, phân tích. Luận thì bàn bạc liên hệ đối chiếu.
+ Ngoài ra bình luận bao giờ cũng phải bộc lộ quan điểm, chính kiến của
tác giả (là quan điểm chính thống của cơ quan báo chí) bởi mục đích của bình

luận là định hướng trực tiếp nhận thức của công chúng.
+ Trong quá trình bình luận, chủ thể sáng tạo không chỉ sử dụng những sự
kiện, hoạt động trong một lĩnh vực ở một thời điểm nhất định mà còn sử dụng
tất cả các dữ liệu có liên quan thuộc mọi lĩnh vực. Chẳng hạn kinh nghiệm có
trong chi thức chung của nhân loại, những lĩnh vực khác.
+ Tác giả bình luận không xem xét, đánh giá sự kiện đơn lẻ mà nhìn nhận
đánh giá theo một hệ thống quan điểm chặt chẽ, thống nhất. Có thể hiểu các sự
kiện trong bình luận có quan hệ chặt chẽ với nhau.
20

20


• Các dạng bình luận
Hiện nay, việc phân chia dạng bình luận còn nhiều quan điểm khác nhau.
Trước đây trong giáo trình: “nghiệp vụ báo chí” chia các thể tài chính luận ra
làm hai loại là phản ánh và bình luận. Tuy nhiên cách chia đó tỏ ra không hợp lí.
+ Trong cuốn”nghề nghiệp và công việc của nhà báo” chia bình luận ra
làm một số dạng: bình luận trong ngày, bình luận trong tuần, bình luận bút chiến
và bình luận giải thích.
+ Tác giả Trần Thế Phiệt trong cuốn” tác phẩm báo chí” tập 3 cũng thống
nhất với quan điểm là chia bình luận thành bốn dạng như trên.
+ Cũng có nhà nghiên cứu chia theo lĩnh vực phản ánh: bình luận kinh tế,
bình luận thể thao…
+theo quan điểm của Trần Quang trong cuốn “các thể tài báo chí chính
luận” thì căn cứ cả nội dung lẫn hình thức để tiến hành phân chia: bình luận
chung, bình luận theo chủ đề, bình luận quốc tế. Sau này thêm dạng điểm thư.
* Bình luận chung:
- Bình luận chung được hiểu là dạng bình luận đề cập đến vấn đề chung
một cách thống nhất, khái quát nhất trong một thời gian nhất định.

- Bình luận chung có 2 biểu hiện:
+ vấn đề được bàn luận là vấn đề chung nhất. Vấn đề chung nhất ở đây
được hiểu không phải là vấn đề cộng lại mà nó chỉ ra một số vấn đề lớn, vấn đề
tiêu biểu nhất diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định. Vấn đề chung ở đây
có thể là vấn đề chung của cả nhân loại hoặc một châu lục, một khu vực, một
quốc gia… nhưng nó có tầm ảnh hưởng to lớn.
+ Bình luận chung đề cập đến vấn đề chung nhất, khái quát nhất về những
lĩnh vực tiêu biểu nhất của những quốc gia, khu vực hoặc đề cập đến mối quan
hệ tiêu biểu.
- Mức độ bình luận hay phạm vi bình luận rộng hay hẹp phụ thuộc vào
quy mô, tính chất, tôn chỉ, mục đích của từng tờ báo.
- Nói chung tính định kì của báo chí tương đối ổn định trên báo chí.
21

21


- Hiện nay, dạng bình chung có xu hướng xuất hiện trên báo chí ngày
càng nhiều, đặc biệt trên truyền hình và phát thanh
- Phương pháp: lựa chọn lĩnh vực điển hình nhất để bình phẩm, đánh giá
nó một cách chung nhất. Thông thường dạng bình luận chung thường xuất hiện
ở trên các tờ báo lớn. Tuy nhiên nói như vậy không có nghĩa là không xuất hiện
ở báo tỉnh, nhưng tần xuất thấp hơn.
- Hoàn cảnh xuất hiện: thường xuất hiện cùng ngày lễ lớn, mốc lịch sử
hay xuất hiện khi có hiện tượng, sự kiện thời sự quan trọng.
* Bình luận theo chủ đề:
- Đây là dạng bình luận mà nó xuất hiện tương đối phổ biến trên hầu hết
các loại hình báo chí. Bình luận theo chủ đề được hiểu là vấn đề tài bình luận chỉ
liên quan đến một trong nhiều lĩnh vực. Chính vì vậy, cho nên dạng bình luận
theo chủ đề có đối tượng phản ánh phong phú đa dạng. Một số mặt không được

đề cập trong bình luận chung lại có thể xuất hiện trong bình luận theo chủ đề.
- Bình luận theo chủ đề khác hẳn với bình luận chung về phương pháp.
Bình luận theo chủ đề rất cụ thể, chi tiết. Nếu như bình luận chung mục đích là
để công chúng thấy được bức tranh tổng thể, khái quát thì bình luận theo chủ đề
chính là một bức tranh chi tiết về một lĩnh vực trong xã hội. Tuy nhiên sự phân
biệt giữa hai loại bình luận chủ yếu ở phạm vi đề cập, mức độ đề cập.
- Nếu xét về mặt phương pháp thì bình luận theo chủ đề khai thác theo
chiều sâu của vấn đề. Do đó ngoài việc thể hiện quan điểm, tư tưởng. Bình luận
theo chủ đề là cơ hội để người viết thể hiện được năng lực của mình một cách rõ
nét nhất. Trong bình luận chung chỉ mang tính điểm lại. Người ta so sánh giữa
bình luận chung và bình luận theo chủ đề thì ta thấy được điểm chung về
phương pháp: điểm lại tình hình của vấn đề hoặc chỉ ra những vấn đề đó sau đó
lần lượt bình phẩm, đánh giá các sự kiện đó trên các phương tiện khác nhau
* Bình luận Quốc tế:
- Về mặt bản chất không có gì khác so với bình luận chung.
- Đề cập đến vấn đề ngoài nước
22

22


- Chia theo bình luận quốc tế vì nó diễn ra ở một nơi rất xa về mặt khoảng
cách đối với người Việt Nam nên nó cần phải được tổng hợp, đánh giá có hệ
thống để công chúng nhận thức được diễn biến ở Thế Giới theo một quan điểm
nhất định chính thống.
- Phương pháp thực hiện: Tùy theo từng vấn đề cụ thể mà người ta có thể
thực hiện một tác phẩm bình luận quốc tế theo phương pháp của bình luận
chung hay theo phương pháp của bình luận theo chủ đề.
- Trên thực tế báo chí hiện nay thì bình luận quốc tế có tần xuất cao, đặc
biệt trong những năm gần đây.

* Điểm thư:
- Tác giả Trần Quang xếp điểm thư là một dạng của bình luận. Đây là một
trong những điểm độc đáo. Trong thực tế báo chí nước ta, thể tài điểm thư cũng
mới được sử dụng trong những năm gần đây. Nếu xét về mặt lý luận thì còn rất
ít nghiên cứu về dạng này. Tuy nhiên ở báo chí phương Tây, từ lâu người ta đã
sử dụng rất phổ biến dạng này ở thời điểm xuất hiện những ngày trọng đại của
đất nước.
- Hiện nay, điểm thư trên báo chí ở nước ta sử dụng điểm thư hầu hết như
để trưng cầu ý kiến của công chúng về những quyết sách nào đó trong thực tế
mà nó mang tính bước ngoặt.
- Trong thực tế, điểm thư chính là hình thức tiếp nhận thông tin phản hồi
từ phía công chúng
- Trong thực tế, bản thân nội dung của thư đó đã mang tính bình phẩm,
đánh giá một cách rõ rệt
- Điểm thư chỉ điểm theo một chủ đề nhất định
- Trên báo chí hình thức điểm thư tương đối phong phú, đa dạng
- Phương pháp: điểm thư rất linh hoạt về phương pháp, nó có thể được sử
dụng theo phương pháp của bình luận chung hay bình luận theo chủ đề. Đương
nhiên trong bài điểm thư, chủ thể sáng tạo ngoài việc đánh giá thì phải rút ra
được quan điểm và kết luận xác đáng.
• Phương pháp sáng tạo của bình luận
23

23


- Xác định được chủ đề, đề tài dựa trên 2 cơ sở:
+ Căn cứ vào đề cương, kế hoạch tuyên truyền của cơ quan báo chí
+ Căn cứ vào những diễn biến trong thực tế đời sống xã hội
- Sau khi xác định được chủ đề, đề tài thì chủ thể sáng tạo phải thực hiện

việc thu thập tư liệu. Xử lí tư liệu – xây dựng bản thảo – kiểm tra bản thảo.
Ví dụ: Bình luận về một trấn đá bóng hoặc bình luận về một bản tin thời
sự.
(ví dụ: Bộ Trưởng bộ Tư pháp kí quyết định số 1212/ QĐ – BTP ngày
9/5/2006 về việc đình chỉ thi hành một hoặc toàn bộ nội dung văn bản trái pháp
luật về xử lí vi phạm hành chính do UBND 15 tỉnh ban hành...)
c) Xã luận:
*) Khái niệm và đặc điểm xã luận:
- Khái niệm:
+ Hiện nay, trong thực tế báo chí còn nhiều những khái niệm khác nhau
về thể loại xã luận. Tuy nhiên nó thống nhất với nhau ở những điểm cơ bản: đều
thừa nhận xã luận là bài báo quan trọng nhất của một số báo, nó nêu lập trường
quan điểm của một tờ báo về moọt số vấn đề quan trọng nào đó. Xã luận có thể
là sự tóm tắt và bình luận khái quát những hiện tượng, sự kiện quan trọng diễn
ra trong một ngày, một tuần,… Như vậy, có thể hiểu rằng yếu tố thời gian như
ngày, tuần, tháng, quý không phải là yếu tố cơ bản quyết định đến tính chất của
thể loại.
+ Xã luận là một bài bình luận tổng thể của cơ quan báo chí về một vấn đề
quan trọng nào đó, nó thực hiện quán triệt tư tưởng trung tâm và nêu lên nhiệm
vụ cần phải làm ngay. Trong thực tế có nhiều ý kiến cho rằng: xã lệnh là pháp
lệnh chính trị, là ngọn cờ chỉ đạo. Trên cơ sở đó ta hiểu rằng trong tác phẩm xã
luận thể hiện rất rõ tính chủ đạo.
- Đặc điểm: Đặc điểm của xã luận xác định trên cơ sở những điểm của
bình luận. Trong thực tế việc phân biệt một cách rõ ràng, rành mạch về ranh giới
bình luận và xã luận là rất khó. Tuy nhiên xét một cách khái quát, xã luận mang
những đặc điểm sau:
24

24



+ Là thể tài báo chí nên nó mang đặc điểm chung của báo chí và nhóm
chính luận báo chí
+ Mang 4 đặc điểm của nhóm chính luận
+ Ngoài ra nó còn mang những đặc điểm riêng sau:
• Bài xã luận là bài quan trọng nhất của tờ báo. Vì trong một tờ báo có
nhiều bài báo thuộc các thể loại khác nhau, nhưng xã luận là linh hoòn của tờ
báo đó. Xã luận quan trọng vì tính chất của thể taì này là mang thông tin lý luận,
lý lẽ, mang tính chủ đạo. Trên thực tế, xã luận bao giờ cũng được in ở trang
nhất, được biểu hiện bằng những đặc thù. Bài xã luận là một bài bình luận tập
thể của cơ quan báo chí, nó không chỉ mang quan điểm chung của cơ quan báo
chí mà còn là của tập đoàn, tổ chức, giai cấp tờ báo đó làm cơ quan chủ quản.
• Đối với bài xã luận không thể hiện dấu ấn cá nhân về mặt tư tưởng, vì
vậy bài xã luận không ghi tên tác giả mà chỉ ghi tập thể cơ quan báo chí nào đó
• Về mặt phương pháp, tác phẩm xã luận bàn luận về một vấn đề hoặc
những vấn đề quan trọng của xã hội một cách khái quát nhất chứ không cụ thể,
chi tiết như thể tài khác của báo chí. Hay nói cách khác, nó đề cập đến lĩnh vực,
vấn đề của cuộc sống dựa trên những nét tiêu biểu nhất. Có thể nói xã luận là
một bức tranh toàn cảnh của đời sống xã hội
• Định hướng cho công chúng một cách trực tiếp. Điều này thể hiện rất rõ
thông qua quan điểm của chủ thể sáng tạo trong tác phẩm. Trong tác phẩm xã
luận bao giờ cũng có kết luận thể hiện tính định hướng, lãnh đạo.
• Trong bài xã luận bao giờ cũng phải đề ra nhiệm vụ trước mắt cần phaỉ
giải quyết. Nếu xét ở góc độ hình thức của nội dung thì một tác phẩm xã luận
thông thường được chia làm 2 phần tương đối rõ rệt: giải quyết vấn đề và kết
luận vấn đề
• Ngôn ngữ trong xã luận nói riêng và chính luận nói chung là sự kết hợp
sức mạnh tổng hợp của các hình thức chứ không sử dụng phong cách ngôn ngữ
cụ thể nào. Nhưng trong xã luận, ngôn ngữ của nhân vật hay nhân chứng là rất
ít.

*) Các dạng xã luận:
25

25


×