Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SÔ KINH NGHIỆM CHỈ ĐẠO RÈN ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 4,5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.99 KB, 21 trang )

SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5

Ι

A-PHẦN MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ :

Ở bậc Tiểu học, bộ môn Tiếng Việt nói chung, môn Tiếng Việt lớp 4,5 nói riêng có
một vị trí đặc biệt trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho các em. Học
xong Tiểu học, học sinh phải đạt được những kỹ năng sử dụng Tiếng Việt đó là
( nghe, nói ,đọc,viết ) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa
tuổi nó là cơ sở ban đầu rất quan trọng để các em học lên lớp trên. Chính vì vậy các
tác giả của phân môn Tập đọc bậc Tiểu học đã đặc biệt chú ý đến nội dung chương
trình và đã chọn lọc những tác phẩm mang nội dung sâu sắc, có tính nghệ thuật cao,
phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh Tiểu học. Nó cung cấp những kiến thức cơ bản
khác để hình thành kỹ năng sử dụng Tiếng Việt, bồi dưỡng cho học sinh có óc thẩm
mỹ, có tâm hồn cao đẹp. Phân môn Tập đọc không những rèn cho học sinh kỹ năng
đọc mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các em học tốt những môn học khác. Để giúp
học sinh đọc tốt thì người thầy phải có hình thức tổ chức dạy học phù hợp với đặc
trưng bộ môn, phù hợp với khả năng nhận thức của học sinh ở lớp mình địa phương,
nơi mình công tác. Từ đó giúp các em hiểu được nội dung của bài học, gây cho các
em lòng say mê hứng thú học tập, yêu trường, yêu lớp, ham đọc sách, thích học môn
Tiếng Việt. Để giúp cho giáo viên và học sinh thực hiện tốt môn học này đòi hỏi
người cán bộ quản lý cần có kế hoạch, biện pháp phù hợp tác động đến việc dạy và
học môn Tiếng Việt nói chung và phân môn Tập đọc nói riêng, nhằm nâng cao hơn
nữa chất lượng đọc cho học sinh đặc biệt là phần đọc diễn cảm.
Trong quá trình công tác người cán bộ quản lý cần phải tập trung chỉ đạo đội ngũ
giáo viên của nhà trường vận dụng và thực hiện các phương pháp hình thức tổ chức
dạy học sao cho linh hoạt và phù hợp với thực tế của lớp mình chủ nhiệm.
Qua quá trình dự giờ thăm lớp, tôi thấy việc giảng dạy phân môn tập đọc nói chung
phần luyện đọc diễn cảm nói riêng của giáo viên còn nhiều hạn chế. Cách dạy còn


đơn điệu, gò ép. Nhiều kiến thức giáo viên còn áp đặt, nặng về truyền đạt, ít gợi ý để
học sinh tìm hiểu khám phá. Học sinh còn thụ động trong quá trình khám phá kiến
thức mới. Có những tiết tập đọc giáo viên xa vào việc giảng giải nội dung bài. Giáo
viên còn nói nhiều ,học sinh làm việc ít. Chỉ biết nghe đọc nhất là khâu rèn đọc diễn
cảm còn mang tính chung chung. Từ phần đọc vỡ và tìm hiểu bài, học sinh chưa tìm
ra được cách đọc hay, đọc diễn cảm cho từng đoạn và toàn bài. Giáo viên đôi lúc
chưa chú ý đến khâu rèn đọc.
Đối với học sinh là một trường vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn của
huyện Bá Thước học sinh còn đọc sai, phát âm sai theo lỗi phát âm do đặc thù của địa
phương, ngắt nghỉ không đúng, không biết đọc phân biệt lời người dẫn chuyện, lời
nhân vật. Không thể hiện giọng đọc cho phù hợp với đoạn văn, thơ. Bởi lẽ giáo viên
cứ sợ hết thời gian nên việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh rất hạn chế.
Từ thực tế dạy môn Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập đọc nói riêng hiện nay
với trách nhiệm là người quản lý tôi thấy băn khoăn về việc dạy và học tập đọc, đặc
biệt là phần rèn đọc diễn cảm của trường mình đó là học sinh học song chương trình
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

1


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
Tiểu học chưa biết đọc diễn cảm, đọc còn sai nhiều. Vì vậy làm thế nào để nâng cao
chất lượng đọc cho học sinh hơn nữa để đáp ứng mục tiêu đào tạo hiện nay mà người
cán bộ quản lý cần phải quan tâm. Từ đó tôi đưa ra sáng kiến: “Một số kinh nghiệm
chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5 tại trường Tiểu học Lũng Cao II”.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN:

Trường Tiểu học Lũng Cao II là trường đặc biệt khó khăn học sinh ở đây là dân tộc
Thái và dân tộc Mường nhân dân chủ yếu làm nghề thuần nông, không có nghề phụ.
Bởi vậy điều kiện kinh tế địa phương còn thấp, dẫn đến đời sống văn hoá của nhân

dân còn nhiều hạn chế. Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học hành của
con em mình, thường phó mặc các em cho nhà trường.
1. Về phía giáo viên: Hầu hết các giáo viên dạy lớp 4,5 đều được đào tạo chính quy,
vốn kiến thức bản thân cũng như trình độ chuyên môn tương đối vững vàng .Một số
giáo viên dạy lớp 4,5 liên tục nhiều năm nên tích luỹ được ít nhiều kinh nghiệm dạy
học. Tuy nhiên, nội dung dạy học phân môn Tập đọc nhất là phần rèn đọc diễn cảm
nếu chỉ dạy theo sách giáo khoa, sách giáo viên mà không tìm hiểu thêm sách tham
khảo và không nghiên cứu kĩ tình hình học thực tế của học sinh thì rất khó cho việc
rèn đọc diễn cảm và luyện đọc từ khó mà địa bàn xã Lũng Cao hay phát âm sai. Thêm
nữa một số ít giáo viên do kiến thức bản thân hạn chế, đôi khi còn phát âm chưa
chuẩn, đọc chưa diễn cảm rồi còn lúng túng khi dạy đọc diễn cảm cho học sinh: Cần
đọc bài tập đọc với giọng như thế nào? làm thế nào để các em đọc hay hơn, diễn cảm
hơn?
2. Thực trạng của việc dạy phân môn tập đọc :
2.1. Thuận lợi:
Phần lớn các bài tập đọc (bài văn, bài thơ, kịch, truyện, ca dao, tục ngữ) đưa vào
chương trình sách Tiếng Việt 4,5 đều phù hợp với lứa tuổi và vừa sức đối với học
sinh. Hệ thống bài học được nâng dần từ dễ đến khó. Các bài được tuyển chọn vào
chương trình phần lớn là viết cho thiếu nhi có chất lượng cao về nghệ thuật, được sắp
xếp theo ( hai tập ) Lớp 4: gồm 10 đơn vị học, mỗi đơn vị ứng với một chủ điểm học
trong 3 tuần ( trừ chủ điểm Tiếng sáo diều ở tập 1 học trong 4 tuần ) .Tập một gồm 5
chủ điểm ,học trong 18 tuần :Thương người như thể thương thân, Măng mọc thẳng,
Trên đôi cánh ước mơ, Có chí thì nên, Tiếng sáo diều .Tập hai gồm 5 chủ điểm ,học
trong 17 tuần :
- Người ta là hoa đất, Vẻ đẹp muôn màu, Những người quả cảm, khám phá thế giới,
Tình yêu cuộc sống.
Lớp 5: Được sắp xếp theo mười chủ điểm: Việt Nam Tổ quốc em, Cánh chim hoà
bình, Con người với thiên nhiên, Giữ lấy màu xanh, Vì hạnh phúc con người, Người
công dân, Vì cuộc sống thanh bình, Nhớ nguồn, Nam và nữ, Những chủ nhân tương
lai. Nếu như ở các lớp dưới, chủ điểm học tập được xoay quanh những lĩnh vực rất

gần gũi với học sinh như gia đình, trường học, thiên nhiên và xã hội thì ở lớp 4,5, chủ
điểm là những vấn đề đời sống tinh thần của con người như tính cách, đạo đức, năng
lực ,sở thích,...Trình bày rõ kiến thức cơ bản về Tiếng Việt, đảm bảo tính khoa học,
hệ thống và dễ hiểu đối với học sinh Tiểu học. Số lượng các bài tập đọc phong phú,
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

2


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
đa dạng, hay về nội dung, hấp dẫn về hình thức, có hiệu quả thiết thực và được sắp
xếp hợp lý nhằm giúp cho giáo viên và học sinh dễ dạy, dễ học.
2.2. Khó khăn: Trong quá trình làm công tác quản lí những năm qua, tôi nhận
thấy thực trạng của việc dạy đọc diễn cảm cho các em như sau: hầu hết các em chỉ
mới dừng lại ở mức độ đọc thông thạo, các em còn đọc đều đều chứ chưa chú ý đến
việc đọc hay, đọc diễn cảm. Các em thường bắt chước giọng đọc mẫu của thầy cô,
chưa tìm ra cách đọc đúng, sáng tạo trong quá trình luyện đọc, thậm chí nhiều em còn
phát âm sai nhất là những từ ngữ do ảnh hưởng của tiếng địa phương. Mặc dù các em
đã học đến lớp 4 và lớp 5 rồi nhưng kết quả học đọc chưa đáp ứng được nhu cầu của
việc hình thành kĩ năng đọc cao nhất là kĩ năng đọc diễn cảm. Việc hiểu và giải nghĩa
từ, cảm thụ và hiểu kĩ nội dung văn bản còn hạn chế nên dẫn đến đọc sai ngữ điệu,
thể hiện sai hoặc chưa tốt sắc thái giọng, chưa phân biệt được sự cần thiết khi đọc
diễn cảm thơ, văn, truyện hay bất cứ một văn bản nào.
Giọng đọc của các em đều đều không nhấn mạnh những từ ngữ cần thiết, tốc độ
đọc, cường độ đọc hay ngắt giọng chưa được các em chú trọng, các em còn ngắt hơi
tuỳ tiện do chưa có ý thức tự giác trong quá trình luyện đọc.
Đặc biệt với đối tượng học sinh miền núi như học sinh trường tôi (có tới 100%
học sinh dân tộc), việc nghe và nói tiếng phổ thông còn hạn chế thì việc đọc diễn cảm
tương đối khó. Thêm nữa chất giọng của các em bị ảnh hưởng nhiều bởi sự giao thoa
của ngôn ngữ địa phương và ngôn ngữ phổ thông dẫn đến phát âm còn chưa đúng

chính âm. Ngay cả cha mẹ là người thân của các em trong từng câu nói, câu viết hay
đọc bài thơ, bài văn thì đọc diễn cảm còn rất hạn chế. Do vậy đã ảnh hưởng không
nhỏ đối với lứa tuổi các em, lứa tuổi hiếu động, hay bắt chước, có thói quen học vẹt,
chưa ý thức rõ về cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ.
Một thực trạng nữa là gia đình các em chưa quan tâm đến việc học của con cái
mình. Phần lớn phụ huynh đều phó mặc việc học của con cái cho thầy cô.
Qua thực tế kiểm tra giáo án và dự giờ ở 4 giáo viên với 4 tiết dạy thì kết quả như
sau:
- Thực hiện tốt nội dung rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5:
- Đạt 1 tiết = 25%
- Thực hiện đạt yêu cầu khá 1 tiết = 25%
- Thực hiện đạt yêu cầu 2 tiết = 50%
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Từ những khó khăn trong việc soạn giảng của thầy và học tập của trò, tôi đã cùng
với ban giám hiệu nhà trường Tiểu học Lũng Cao II tìm ra một số giải pháp như sau:
- Chỉ đạo các tổ khối thực hiện tốt khâu soạn bài, nhất là phần đọc vỡ ( tức là phần
luyện đọc từ khó, luyện đọc câu dài, phần tìm hiểu bài) từ đó học sinh hiểu bài và tìm
ra cách đọc hay đọc diễn cảm cho từng đoạn, cho cả bài.
- Tổ chức tốt các buổi sinh hoạt chuyên môn, nêu rõ mục đích yêu cầu của việc
thực hiện nội dung này. Trước khi soạn một bài, yêu cầu giáo viên phải đọc kỹ bài
dạy tự luyện giọng đọc. Tránh tình trạng giáo viên còn đọc sai lỗi theo tiếng địa
phương. Bản thân mỗi giáo viên phải có nhận thức đúng đắn về việc dạy kĩ năng đọc
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

3


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
diễn cảm của lớp mình phụ trách, suy nghĩ, tìm tòi những phương pháp giảng dạy phù
hợp để giúp học sinh phát âm chuẩn thể hiện được tình cảm của nhân vật thông qua

mẩu chuyện, đoạn văn, đoạn thơ, nhận thức của các em được nâng lên, hiểu biết của
các em về kỹ năng đọc diễn cảm được mở rộng. Từ đó xây dựng ý thức tự giác tự
luyện đọc diễn cảm cho các em.

I- Hoạt động chuyên môn.
Qua nghiên cứu các bài tập đọc trong chương trình môn Tiếng Việt lớp 4,5 và các
tài liệu về môn Tiếng Việt, tôi đã trao đổi để giáo viên hiểu sâu sắc hơn các bước cơ
bản khi soạn và dạy phần rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5 để đạt kết quả cao
hơn ban giám hiệu và giáo viên cần phải vận dụng một số biện pháp sau.
Biện pháp 1: Nâng cao năng lực đọc của giáo viên:
Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt thì giáo viên phải đọc mẫu tốt vì đọc
mẫu của giáo viên có tác dụng truyền cảm qua kĩ thuật đọc, nó có tác dụng rất quan
trọng đến sự rung động tâm hồn của các em về một tác phẩm văn chương. Để đọc
mẫu đúng và hay giáo viên phải không ngừng rèn luyện để nâng cao năng lực của
mình, phải biết tự điều chỉnh giọng đọc cho phù hợp với mỗi một tác phẩm văn
chương. Bắt đầu từ việc giáo viên phải đọc đúng chính âm, trọng âm, đọc đúng ngữ
điệu, biết ngắt nghỉ đúng chỗ và phù hợp, biết thay đổi giọng linh hoạt tuỳ theo yêu
cầu từng phần, từng nội dung mà đọc lên giọng hay xuống giọng. Tuy nhiên cái hồn
của bài đọc lại có khả năng cảm nhận ở mỗi người một khác nhau, thể hiện sự rung
động cá nhân khác nhau. Việc đọc mẫu của giáo viên cũng vô cùng quan trọng nhưng
không phải là một cách áp đặt về cách đọc diễn cảm của giáo viên để học sinh có thể
bắt chước theo một cách ấy. Vì vậy, trong việc chuẩn bị bài, giáo viên phải xác định
được cách đọc diễn cảm của mình. Trong giờ học, sau khi trình bày phần đọc mẫu
giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh biết tại sao lại đọc như vậy và gợi ý để học
sinh trao đổi về cách đọc diễn cảm của bài đọc. Giáo viên không nên áp đặt sẵn giọng
đọc của bài.
Vậy để nâng cao năng lực đọc của giáo viên tôi luôn hướng dẫn cho tất cả các giáo
viên, khi đứng trước bất kì một văn bản nào các đồng chí hãy suy nghĩ, tìm tòi để tìm
ra cách đọc hay nhất để hướng dẫn học sinh đọc và thể hiện được cái hay của tác
phẩm văn chương một cách trọn vẹn.

Biện pháp 2:Sửa lỗi phát âm:
Như chúng ta đã biết nếu phát âm không đúng thì đọc sẽ sai và không thể đọc
diễn cảm được. Vì vậy cho nên để đọc diễn cảm được đầu tiên các đồng chí giáo
viên phải quan tâm đến việc hướng dẫn học sinh phát âm đúng chuẩn những âm khó
đọc và đặc biệt những âm mà địa bàn xã Lũng Cao hay phát âm sai.
Qua thực tế dự giờ kiểm tra giáo án tôi thấy. Trước hết giáo viên cần cho các em
thấy rõ tầm quan trọng của việc phát âm đúng. Có thể đưa ra một số truyện gây cười
do phát âm sai như: Thưa thầy cho em về lấy vợ (vở),…để các em thấy tác hại của
việc phát âm sai.
Một yếu tố rất quan trọng là giáo viên cần phát âm chuẩn xác ở tất cả các giờ
học, trong mọi lúc giao tiếp để học sinh bắt chước và làm theo. Giáo viên phải là tấm
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

4


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
gương sáng cho học sinh noi theo, mọi cử chỉ, hành động của giáo viên phải mẫu
mực. Tuyệt đối giáo viên không được phát âm sai.
Các đồng chí giáo viên phải luôn luôn có ý thức, thói quen sửa lỗi phát âm cho
học sinh trong tất cả các môn học cũng như trong giao tiếp giữa thầy và trò. Đặc biệt
cần chú ý đến tiết Tập đọc phân môn được đọc và phát âm nhiều. Khi thấy học sinh
phát âm sai giáo viên phải hướng dẫn tỉ mỉ, kiên trì giúp các em phát âm đúng, đọc
đúng. Khi học sinh có sự tiến bộ cần khen ngợi, động viên kịp thời, khuyến khích các
em tiến bộ.
Giáo viên cần tạo hứng thú học tập cho các em không chỉ trong giờ Tập đọc mà
cả trong các giờ học khác hướng sự chú ý của các em vào việc nói và trả lời đúng
chuẩn. Ngoài việc hướng dẫn trong giờ học, trước lớp…Giáo viên cũng cần phải giúp
các em hiểu nghĩa của các từ để giúp cho việc phát âm đúng, đọc đúng. Có đọc đúng
thì mới viết đúng và đọc diễn cảm được.

Ví dụ: Sửa lỗi phát âm ở các cặp phụ âm và các cặp vần mà do ảnh hưởng của
tiếng địa phương nên các em đọc sai: v –b, ch – tr, x – s, d – r – gi; ong - ông.
-Bước đầu tiên giáo viên cho học sinh nêu các từ trong bài mà các em hay đọc sai
,giáo viên có thể bổ sung thêm.
*Ví Dụ: Khi dự giờ bài: “Thư thăm bạn” (TV4- tập 1 trang 25) học sinh thường
đọc sai phụ âm đầu:
bạn các em hay đọc thành vạn
vừa các em đọc thành bừa
chắc các em đọc thành trắc
trào các em đọc thành chào
*Ví dụ: Bài: “ Người ăn xin” ( TV4- tập 1 trang 30) học sinh thường đọc sai phụ
âm:
xin các em hay đọc sin
sưng các em hay đọc xưng
*Ví dụ: Bài “ Chị em tôi” ( TV4- tập 1 trang 59) học sinh thường đọc sai các vần:
ong (trong) các em hay đọc ông (trông)
ông các em hay đọc ong
- Giáo viên phát âm mẫu từng tiếng. Tiếp đó giáo viên dùng lý thuyết giảng giải
cho học sinh cách phát âm, cho học sinh phát âm thử từng âm, khi được rồi mới ghép
các phụ âm đó vào tiếng. Chẳng hạn:
+ Âm v: là âm tắc vang nên khi phát âm đầu lưỡi thẳng.
+ Âm b: là phụ âm sát vang nên khi phát âm đầu lưỡi cong, vòm miệng trên hơi
thoát ra ngoài.
+ Âm tr: khi phát âm lưỡi cong và chạm nhẹ vào hàm trên, độ mở của miệng hơi
rộng.
+ Âm ch: khi phát âm lưỡi không cong hàm trên chạm vào lưỡi nhiều, độ mở của
miệng hẹp.
Tương tự như trên, giáo viên cũng hướng dẫn cách đọc, phân biệt các cặp , x - s, d
– r – gi cùng với các tiếng khó đọc để hướng dẫn học sinh đọc đúng, chính xác. Giáo
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II


5


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
viên cần trực tiếp hướng dẫn, sửa cho từng em phát âm sai rồi yêu cầu em đó đọc
nhiều lần.
Biện pháp 3: Rèn kĩ năng đọc đúng chính âm, trọng âm:
Đọc đúng chính âm, trọng âm là yêu cầu cần thiết của việc đọc diễn cảm. Nhiều
học sinh hay phát âm sai chính âm trọng âm và sai thanh hỏi thành thanh ngã, thanh
ngã thành thanh hỏi. Vì vậy cần rèn luyện cho các em phát âm theo chính âm (Bắc
Bộ)
Ví dụ: Dạy học sinh phát âm đúng thanh hỏi, thanh ngã trong các tiếng: xã - xả,
ngả - ngã. Giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc cao giọng ở tiếng có thanh ngã, đọc
thấp, trầm giọng ở tiếng có thanh ngả và quan trọng là cách phát âm mẫu của thầy
giáo để học sinh phát âm sau.
Ngoài đọc đúng chính âm, học sinh cần phải đọc đúng trọng âm ( độ vang, độ
mạnh, khi phát ra tiếng). Nhiều khi học sinh thường đọc các hư từ với trọng âm tạo ra
những cách đọc sai nghĩa hoặc đọc nhấn vào từng tiếng đều đều như đọc chính tả,
không diễn cảm được.
Ví dụ: Học sinh đọc câu: Tàu đu đủ, chiếc lá sắn / héo lại mở năm cánh vàng tươi. (
Quang cảnh làng mạc ngày mùa ) Tạo ra cách hiểu sai là: Chiếc lá sắn bị héo lại. Vì
học sinh đọc nhấn vào tiếng sắn mà không nhấn vào cả 2 tiếng sắn và héo. Vì thế học
sinh xác định chỗ ngắt nghỉ trong câu văn chưa hợp lý dẫn đến chỗ học sinh đọc sai.
Đối với những trường hợp trên, giáo viên cần phải hướng dẫn học sinh nhấn giọng
vào cả 2 tiếng sắn héo và không ngắt giọng giữa 2 tiếng.
Biện pháp 4: Phân loại các dạng văn bản để lựa chọn giọng cho phù hợp:
1. Đối với văn bản nghệ thuật:
Giáo viên hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở để
học sinh thể hiện tình cảm thái độ qua giọng đọc phù hợp với hình ảnh, cảm xúc

trong bài thơ; sự việc, tính cách nhân vật trong bài văn, vở kịch...
2. Đối với văn bản phi nghệ thuật:
Giáo viên hướng dẫn học sinh xác định ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục
đích thông báo giúp cho người nghe tiếp nhận được những vấn đề quan trọng trong
văn bản.
Biện pháp 5: Giúp học sinh hiểu và cảm thụ tác phẩm để tìm giọng đọc cho toàn
bài:
Trước hết giáo viên cần cho học sinh tiếp xúc với tác phẩm, tìm hiểu hoàn cảnh
sáng tác của tác giả và vị trí của bài văn, bài thơ trong sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Tiến tới phân tích tìm hiểu văn bản, ngữ nghĩa, thủ pháp nghệ thuật, bố cục gồm mấy
phần? Kết cấu như thế nào? Nội dung và chủ đề chứa chất lý lẽ, tư tưởng tình cảm gì?
Thái độ, hành động, tính cách của nhân vật, tiến triển của sự việc có mối liên hệ ra
sao với hoàn cảnh tâm lý xã hội với điều kiện sống thực tại của mỗi con người. Sau
khi giáo viên đã giúp học sinh làm rõ những câu hỏi trên thì chuyển qua đàm thoại
bằng các câu hỏi gợi mở để tìm ra những yếu tố chính, từ đó học sinh sẽ xác định
được cảm xúc của bài: vui, buồn, tự hào, thiết tha, trang nghiêm, sâu lắng, ngợi ca...
nhịp điệu của bài: Nhanh, hơi nhanh,chậm, hơi chậm... Có hiểu được nội dung tư
tưởng của tác giả thì mới xác định được giọng đọc toàn bài ( nếu là đọc thơ phải chú
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

6


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
ý đến tính nhịp điệu của ngôn ngữ thơ ca tức là chất nhạc của thơ, tránh dừng lại máy
móc cuối mỗi dòng).
Ví dụ: qua tìm hiểu bài thơ “Truyện cổ nước mình”( Trang 19 – TV4- Tập 1),
học sinh nắm được nội dung chính của bài là: Ca ngợi kho tàng truyện cổ của đất
nước. Đó là những câu chuyện vừa nhân hậu, vừa thông minh, chứa đựng kinh
nghiệm sống quý báu của cha ông. Học sinh đã nắm được các hình ảnh, các từ ngữ,

chi tiết đẹp, những biện pháp nghệ thuật đã sử dụng trong bài thơ…Từ đó, học sinh
sẽ tìm được giọng đọc toàn bài đọc với giọng tự hào, trầm lắng phù hợp với âm điệu,
vần nhịp với từng câu thơ lục bát.
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu / lại tuyệt vời sâu xa
Thương người / rồi mới thương ta
Yêu nhau / dù mấy cách xa cũng tìm
Như vậy, hiểu nội dung văn bản là rất quan trọng để luyện đọc đúng, luyện đọc
diễn cảm.
Biện pháp 6: Rèn kỹ năng đọc đúng ngữ điệu:
1. Sắc thái giọng đọc:
Sắc thái giọng đọc là sự thể hiện những nét khác nhau của thái độ tình cảm, tính
cách của con người thông qua giọng đọc như: trang trọng, vui tươi, nhí nhảnh,nhẹ
nhàng, hóm hỉnh, gay gắt châm biếm, buồn rầu, bực tức. Đối với học sinh lớp 4,5 thì
khi đọc diễm cảm sắc thái giọng đọc chỉ đặt ra sau khi tìm hiểu từng phần hoặc toàn
bộ nội dung bài giáo viên không nên “chỉ thị”cho các em về giọng đọc buồn hay vui
đoạn văn, bài văn. Sự diễn cảm chỉ đạt được tính chất thật, sinh động và phong phú
khi giáo viên gợi được ở học sinh khả năng truyền đạt cho người nghe những điều mà
các em đã học. Việc ấy chỉ có thể thực hiện được với điều kiện là các em nhận thức
sâu sắc nội dung và biết lựa chọn cách diễn đạt thích hợp dưới sự hướng dẫn của giáo
viên. Giọng đọc của mỗi tác phẩm thường mang một sắc thái riêng biệt, đó là kết quả
của việc tìm hiểu và cảm thụ của học sinh. Trong một bài thơ, bài văn giọng đọc của
đoạn này có âm sắc khác giọng đọc của đoạn kia, lời của nhân vật này đọc lên âm sắc
khác với lời nói của nhân vật khác, ta có thể thấy rõ điều đó qua ví dụ sau:
Ví dụ: Khi học sinh đọc diễn cảm lời đối thoại của các nhân vật trong bài “Thái
sư Trần Thủ Độ” TV5 – tập 2 như sau:
- Đoạn 1 (Từ đầu đến ông mới tha cho): câu giới thiệu về Trần Thủ Độ - đọc với
giọng chậm rãi, rõ ràng. Chuyển giọng hấp dẫn khi kể sự kiện Trần Thủ Độ giải quyết
việc một người được Linh Từ Quốc Mẫu xin cho chức câu đương. Câu nói của Trần
Thủ Độ (Ngươi có phu nhân xin…phải chặt một ngón chân để phân biệt.) -đọc với

giọng nghiêm, lạnh lùng.
- Đoạn 2 (từ Một lần khác đến Nói rồi, lấy vàng, lụa thưởng cho.): lời Linh Từ Quốc
Mẫu ấm ức; lời Trần Thủ Độ - ôn tồn, điềm đạm.
- Đoạn 3 (phần còn lại): lời viên quan tâu với vua – tha thiết; lời vua – chân thành, tin
cậy; lời Trần Thủ Độ – trầm ngâm, thành thật, gây ấn tượng bất ngờ về cách ứng xử
của Trần Thủ Độ.
2. Đọc đúng chỗ ngắt:
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

7


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
Trong văn bản, những dấu câu thể hiện chỗ ngắt giọng khi đọc. Vì vậy giáo viên
phải lưu ý học sinh khi đọc phải ngắt giọng ở các dấu câu ( Ngắt giọng lôgic). Dấu
phẩy phải thể hiện bằng chỗ ngắt hơi; sau dấu chấm nghỉ hơi lâu hơn 2 lần so với
ngắt hơi sau dấu phẩy; sau dấu chấm xuống dòng phải ngừng lâu gấp đôi so với chỗ
ngừng sau dấu chấm.
Bên cạnh những chỗ ngắt giọng được thể hiện trên chữ viết bằng dấu câu thì một
số chỗ ngắt giọng phản ánh các quan hệ ngữ pháp không được biểu hiện gì trên chữ
viết. Thường thì học sinh hay đọc sai ở những câu văn có cấu trúc phức tạp, câu dài
nhưng không có dấu phẩy thể hiện chỗ cần ngắt hơi, đối với những trường hợp đó,
giáo viên cần phải hướng dẫn HS ngắt, nghỉ hơi, theo cấu trúc ngữ pháp hay dựa vào
ý nghĩa.
Ví dụ: Ta đọc liền mạch câu sau, nếu không ngắt giọng trong câu thì ý tứ sẽ
không rõ ràng “ Tôi dậy sớm ra sông lúc 5 giờ bắt đầu tắm.” Nếu ta đọc có ngắt
giọng như sau thì quan hệ ý nghĩa giữa các nhóm từ trong câu mới được hiểu chính
xác “Tôi dậy sớm/ ra sông/ lúc 5 giờ bắt đầu tắm.”Ví dụ: Với câu sau giáo viên phải
hướng dẫn học sinh đọc đúng là: “ Phải yêu mến cuộc đời trồng trọt, chăn nuôi lắm/
mới khắc được những tranh lợn ráy/…/những đàn gà con/ tưng bừng như ca múa bên

gà mái mẹ.”(Tranh làng Hồ) TV5 – tập 2.
Trong thơ, học sinh cũng thường hay ngắt nhịp sai. Cần chú ý hướng dẫn các em
cách ngắt nhịp cho đúng. Thường thì với thơ 4 tiếng ngắt nhịp 2/2, với thơ 5 tiếng
ngắt nhịp 2/3 hoặc 3/2 với thơ 7 tiếng ngắt nhịp 4/3,3/4 hoặc 2/2/3, thơ lục bát sẽ ngắt
theo nhịp chẵn 2/2/2. Có những câu thơ không được ngắt nhịp theo cách thông
thường như vậy thì phải hướng dẫn học sinh dựa vào nghĩa của từ và trọng âm trong
câu để ngắt nhịp cho đúng.
Ví dụ: Cây / rung theo gió, lá/ bay xuống đường. ( Chú đi tuần).
Trong câu thơ có nhiều cách ngắt nhịp thì hướng dẫn HS chọn cách ngắt nhịp hay
nhất thể hiện được nhiều hơn.
Ví dụ: Trời xanh đây là của chúng ta.( Đất nước).
Câu thơ trên ta có thể ngắt nhịp 3/4 hoặc 2/1/4 nhưng nên chọn cách ngắt 2/1/4
sẽ thể hiện được sự khẳng định, tự hào về chủ quyền của đất nước hơn:
Trời xanh/ đây/ là của chúng ta.
2. Ngắt giọng biểu cảm:
Bên cạnh việc dạy học sinh ngắt giọng thể hiện đúng quan hệ ngữ nghĩa - ngữ
pháp còn cần phải dạy học sinh biết ngắt giọng biểu cảm. Đó là chỗ ngừng lâu hơn
bình thường hoặc chỗ ngừng không lôgic ngữ nghĩa mà do dụng ý của người đọc
nhằm gây ấn tượng về cảm xúc. Các dấu (...) cũng có khi là sự ngừng giọng thể hiện
một sự ngập ngừng chưa nói hết hay sự bất ngờ mà người nghe đoán ra được.
Ví dụ: Trong bài Tiếng rao đêm, chỗ 3 chấm “ Ô...này” làm mọi người bất ngờ khi
phát hiện ra chiếc chân gỗ của người bán bánh giò.
Ngắt giọng biểu cảm còn thể hiện ở sự lựa chọn trong các cách ngắt nhịp, cách
ngắt nhịp có hiệu quả nghệ thuật hơn.
Ví dụ: Chọn cách ngắt:
Trời xanh/ đây/ là của chúng ta.
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

8



SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
Núi rừng /đây/ là của chúng ta
Chứ không chọn cách ngắt 3/4 Vì nếu ngắt theo nhịp 2/1/4 thì đây sẽ được đứng
một mình tạo ra điệp chữ ngữ làm cho câu thơ thắt lại, giọng đọc mạnh lên nhấn
mạnh lên, khẳng định hơn quyền sở hữu đất, trời, càng làm tăng thêm cảm xúc tự
hào. Hay ta sẽ chọn cách ngắt:“ Còi/ngân lên/khúc giã từ” (Cửa sông) để tiếng vang
ngân mãi của khúc còi từ giã khi con tầu rời cửa sông ra biển.
4. Nhấn giọng: Các từ trong câu, các câu trong đoạn văn không phải đọc với
giọng đều đều như nhau mà có từ, có câu đọc nhấn mạnh hơn, đó là những từ
câu mang ý nghĩa nổi bật hơn và nó bộc lộ chủ đề của bài văn, bài thơ.
Ví dụ: Quan nói sư cụ biện lễ cúng Phật, rồi gọi hết sư vãi, kẻ ăn người ở trong
chùa ra, giao cho mỗi người cầm một nắm thóc và bảo:(Phân xử tài tình TV5 trang
46). Khi đọc câu trên giáo viên hướng dẫn sao cho học sinh biết đọc nhấn giọng
những từ ngữ in đậm để người nghe hiểu và nắm bắt được chủ đề của bài học một
cách chính xác. Hay khi hướng dẫn học sinh đọc khổ thơ sau:
Rồi đến chị rất thương
Rồi đến em rất thảo
Ông lành như hạt gạo
Bà hiền như suối trong.
(Cao Bằng)
Các từ ngữ được in đậm là những từ ngữ được đọc nhấn mạnh nhưng đọc với
giọng nhẹ nhàng hơn, tình cảm hơn, thiết tha hơn để gây ấn tượng đặc biệt, gây xúc
động đến người nghe.
5. Đọc đúng ngữ điệu bài văn:
Trong cách hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm đoạn văn, bài văn, giáo viên không
chỉ dừng lại ở những chỉ dẫn: Em cố gắng đọc hay hơn, cố gắng đọc diễn cảm hơn,
cố gắng đọc vui hơi, đọc cho thiết tha hơn !... Mà giáo viên phải hướng dẫn bằng
cách chỉ dẫn rõ ràng, nghĩa là: Cần đọc to lên, nhỏ đi, cao giọng lên, hạ giọng xuống,
ngắt nghỉ ở chỗ này, chỗ kia ; kéo dài tiếng này, lớn giọng tiếng kia... phải dạy học

sinh làm chủ được chỗ ngắt giọng ( kỹ thuật ngắt giọng biểu cảm), làm chủ tốc độ
( độ nhanh, chậm, chỗ ngân, hay là việc dãn nhịp đọc), làm chủ cường độ giọng đọc
(đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay lơi giọng) và làm chủ các độ ( độ cao của giọng đọc,
lên giọng hay hạ giọng).
Ví dụ: - Tốt cái bụng đó, cô giáo ạ! (Buôn Chư Lênh đón cô giáo)
Giáo viên hướng dẫn học sinh biết đây là lời nói của ai? Cần đọc với giọng như thế
nào? (Đây là lời nói của già làng nên đọc với giọng trầm và hạ giọng xuống).
- Bây giờ cho người già xem cái chữ của cô giáo đi! (Buôn Chư Lênh đón cô giáo)
Với câu này giáo viên hướng dẫn cho học sinh đọc tương tự câu trên nhưng cần
phải hướng dẫn để học sinh phát hiện thêm, ngoài giọng đọc trầm, hạ giọng xuống thì
còn phải đọc với giọng vui hơn để thể hiện niềm vui mừng của già làng khi chuẩn bị
được xem “cái chữ” của cô giáo.
6. Đọc đúng kiểu câu:
Ngữ điệu câu được chia thành: Ngữ điệu cầu khiến, ngữ điệu mệnh lệnh, ngữ điệu
kết thúc, ngữ điệu chưa kết thúc, ngữ điệu hỏi, ngữ điệu liệt kê...như vậy đối với kiểu
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

9


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
câu cảm, cầu khiến, mệnh lệnh mà trên chữ viết biểu thị bằng dấu “!” thì phải đọc
mạnh. Những câu cầu khiến mời mọc đề nghị nhẹ nhàng mà trên chữ viết thường ghi
bằng dấu chấm sẽ được đọc giọng nhẹ hơn. Ví dụ: Mời em vào nhà chơi. Những câu
hỏi thường phải đọc cao ở cuối câu. Ví dụ: Bà để nó chỗ nào? ( Lòng dân). Những
câu chưa kết thúc còn bỏ lửng trên chữ viết thường thấy dấu (...) thì sự ngập ngừng
thường đọc nhỏ và lơi giọng ( Ngữ điệu yếu) Ví dụ: Thưa...có phải ngọc thật không?(
Chuỗi ngọc lam).
7. Đọc đúng nhịp điệu:
Nhịp điệu là sự thể hiện của giọng đọc nhanh hay chậm, khẩn trương hay vừa nhịp

điệu đọc do nội dung hay bài văn qui định và có biến đổi từ đoạn này sang đoạn khác,
yêu cầu cơ bản của tốc độ đọc diễn cảm là làm sao cho vừa tầm với tốc độ của ngôn
ngữ nói. Nếu học sinh đọc nhanh quá, chậm quá đều ảnh hưởng đến tốc độ của người
nghe. Tuy nhiên tuỳ theo văn cảnh mà tốc độ đọc sẽ thay đổi cho thích hợp với nội
dung. Thay đổi tốc độ đọc cũng là biện pháp tốt để làm cho ngôn ngữ sinh động, có
màu sắc nhất là tiết tấu khi đọc thơ.
Ví dụ: Khi đọc khổ thơ sau:
“ Hạt gạo làng ta
Có bão tháng bảy
Có mưa tháng ba
Giọt mồ hôi sa
Những trưa tháng sáu
Nước như ai nấu
Chết cả cá cờ
Cua ngoi lên bờ
Mẹ em xuống cấy.”
Giáo viên hướng dẫn học sinh tốc độ tiết tấu khi đọc các câu thơ trên hơi nhanh,
đọc câu trước vắt sang câu sau, nhấn mạnh và kéo dài các tiếng có vần với nhau ở
cuối dòng thơ để diễn tả nỗi khó nhọc, vất vả của người mẹ.
8. Tốc độ:
Giáo viên cần giúp học sinh hiểu đọc nhanh không phải là đọc liến thoắng. Tốc
độ đọc nhanh chấp nhận được khi trùng với tốc độ lời nói. Nhưng tốc độ đọc còn phụ
thuộc vào nội dung bài đọc: một bản tin phải đọc nhanh hơn một văn bản văn chương
hay đọc truyện phải nhanh hơn đọc thơ trữ tình vì thơ trữ tình cần có thời gian để bộc
lộ cảm xúc.
Khi đọc văn bản có nội dung miêu tả một cảnh lộn xộn, hoảng loạn thì phải đọc
với nhịp nhanh, gấp gáp: cảm xúc vui hay tả một công việc dồn dập khẩn trương cũng
phải đọc nhịp nhanh. Ví dụ cần đọc nhanh câu: “Những đợt sóng khủng khiếp phá
thủng khoang tàu, nước phun vào khoang như vòi rồng” để diễn tả cảnh bất ngờ ập
đến gây tai nạn khủng khiếp của cơn bão trong bài: “Một vụ đắm tàu”. Hay đoạn lấy

lửa chuẩn bị nấu cơm ở bài: ’’Hội thổi cơm thi ở Đồng Vân” cần đọc dồn dập náo
nức. Cảm xúc vui tự hào cũng cần được thể hiện với tốc độ nhanh.
Ví dụ :
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

10


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
( Đất nước)
Những bài văn xuôi, trữ tình, chứa chan cảm xúc cần phải đọc chậm, những đoạn
văn diễn tả tâm trạng miên man suy nghĩ, ví dụ như “ Ông Nhụ bước ra võng. Cái
võng làm bằng lưới đáy vẫn buộc lưu cữu ở ngoài hàng hiên. Ông ngồi xuống võng
vặn mình. Hai má phập phồng như người súc mệng khan...” ( Lập làng giữ biển).
Những chỗ có ba chấm trong văn bản mô phỏng âm thanh kéo dài của giọng như “
Bánh giò...ò...ò” ( Tiếng rao đêm) cần phải đọc kéo dài. Những chỗ thay đổi tốc độ sẽ
gây được sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt.
Ví dụ : Khi đọc bài “ Những cánh buồm” nếu câu cuối “Cha gặp lại mình trong
những ước mơ con” đọc chậm lại, nhịp dãn ra thì sẽ gây được ấn tượng cho người
đọc, người nghe hơn là đọc với tốc độ bình thường như những câu khác.
Ở những bài có câu ngắn, câu dài thì những câu ngắn được nén lại và phải đọc với
nhịp nhanh, gấp gáp hơn nhất là khi những câu điệp cú pháp, những câu có tính chất
liệt kê. Những câu dài thì đọc nhịp trải dài ra.
* Cường độ:
Khi đọc trước nhiều học sinh phải tính đến người nghe, phải đọc sao cho cả tập
thể nghe rõ, nghĩa là phải đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe thấy mới
thôi. Nhưng như thế giáo viên phải hướng cho học sinh không đọc quá to hay gào lên
để gây sự chú ý. Ví dụ: ở những câu thơ:

Khói hình nấm là tai hoạ đấy
Bom H, bom A không phải bạn ta
Cần đọc với giọng vang, để thể hiện lời khẳng định không thể có bạn bè với
những thứ vũ khí nguy hiểm, kẻ thù của sự bình yên. Ngược lại, âm hưởng chung của
bài “ Bầm ơi” là một giọng lắng vì đây là giọng điệu nội tâm, tâm tình, nhất là hai câu
thơ đầu:
Ai về thăm mẹ quê ta
Chiều nay có đứa con xa nhớ thầm....
Cần đọc với giọng trầm diễn tả nỗi nhớ mong sâu nặng của người chiến sỹ với mẹ
nơi quê nhà, hay câu nói của Ma-ri-ô: “ Giu-li-ét-ta, xuống đi! Bạn còn bố mẹ...”
( Một vụ đắm tàu) là mệnh lệnh, cần phải đọc với cường độ mạnh để cho câu văn
vang lên thể hiện sự mong mỏi thôi thúc mạnh mẽ, nhưng ở câu nói của Giu-li-ét-ta
cuối bài: “ Vĩnh biệt Ma-ri-ô! “ Cần đọc với giọng trầm thể hiện sự đau xót nghẹn
ngào.
* Cao độ: Rèn cho học sinh cách lên giọng, xuống giọng đúng với nội dung, dụng ý
nghệ thuật. Ví dụ: Khi đọc câu cảm thường đọc với cường độ mạnh, cao giọng:
Và con sẽ nói giùm với mẹ
Cha đi vui, xin mẹ đừng buồn! ( E- mi- li, con....)
Cần đọc hạ giọng để thể hiện sự nghẹn ngào, đau thương. Câu cuối trong bài: “
Tác phẩm của Si-le và tên phát xít” được đọc hạ giọng, ngưng một lát trước từ “ vở”
và nhấn vào “ Những tên cướp” để thể hiện ngụ ý hóm hỉnh, sâu cay của ông cụ. “ Đó
là vở Những tên cướp” hay câu hỏi thường đọc cao giọng ở cuối câu như ở câu “ và
giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc hoạ?” trong bài ( E-mi-li, con...) lại hạ giọng
để thể hiện sự đau xót. Cần kết hợp giữa cao độ và cường độ trong giọng đọc để
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

11


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5

phân biệt lời tác giả và lời nhận vật: chương trình 2000 hiện nay có rất nhiều văn bản
kể chuyện, ở đó luôn có sự xen kẽ lời nhân vật và lời tác giả, lời dẫn chuyện. Khi đọc
những lời dẫn chuyện cần đọc với giọng nhỏ hơn, thấp hơn những lời nói trực tiếp
của nhân vật. ở đây có sự chuyển giọng mà những lời dẫn như nền thấp để cho những
lời hội thoại nổi lên. Đọc văn bản kịch ( Lòng dân, Người công dân số Một) cũng như
vậy.
Biện pháp 7: Tổ chức giờ học sôi nổi gây hứng thú cho học sinh:
Học sinh Tiểu học thường thì học mà chơi, chơi để mà học. Nếu giờ học diễn ra
đều đều, chỉ luyện đọc và trả lời câu hỏi thì giờ học sẽ rất tẻ nhạt. Để giờ học diễn ra
sôi nổi gây hứng thú học tập cho học sinh, các thầy cô giáo nên kết hợp cho học sinh
tham gia trò chơi học tập.
1. Đối với giờ Tập đọc có lời văn đối thoại:
Giáo viên xây dựng màn kịch gắn với nội dung bài học.
Ví dụ: Bài “ Lòng dân” TV5- Tập 1 Trong phần đọc diễn cảm nên tổ chức phân vai
cho học sinh.
*Phần 1:
- Giọng cai và lính: hống hách, xấc xược.
- Giọng dì Năm và chú cán bộ ở đoạn đầu: tự nhiên, ở đoạn sau: dì Năm rất khéo giả
vờ than vãn khi bị trói, nghẹn ngào nói lời trối trăng với con khi bị doạ bắn chết.
- Giọng An: giọng một đứa trẻ đang khóc (An tham gia rất tự nhiên vào vở kịch do
má em dàn dựng. Trong tình huống nguy hiểm, em khóc vì thực sự lo cho má).
*Phần 2:
- Giọng cai và lính: khi dịu giọng để mua chuộc, dụ dỗ, lúc hống hách để doạ dẫm,
lúc ngọt ngào xin ăn.
- Giọng An: thật thà, hồn nhiên.
- Giọng dì Năm và chú cán bộ: tự nhiên, bình tĩnh.
Giáo viên tổ chức cho cả lớp luyện diễn phân vai theo nhóm, sau đó gọi học sinh thi
đua lần lược lên bảng và nhập vai, tất cả các học sinh đều được hoạt động, đều được
luyện nói, được thể hiện bằng cử chỉ, nét mặt thông qua các nhân vật mà mình nhập
vai.

Qua các giờ học như vậy học sinh yếu có tiến bộ rõ rệt, các em tự tin ở bản thân
mình hơn. Giờ học diễn ra sôi nổi, học sinh hứng thú học bài.
2. Đối với bài tập đọc khác:
Giáo viên tổ chức trò chơi truyền điện, giáo viên gọi học sinh đọc bài, học sinh đó
đọc được một đoạn văn, một khổ thơ hay một câu văn, câu thơ, đột nhiên học sinh đó
dừng lại và gọi học sinh khác đọc tiếp bài của mình, cứ như vậy cho đến hết.
Với cách học này, học sinh đều tập trung vào bài, số học sinh được luyện đọc
nhiều, lớp giữ trật tự.
Giáo viên chia lớp thành các tổ hoặc nhóm để thi đua đọc xem nhóm nào, tổ nào
đọc diễn cảm nhất. Khi học sinh đọc bài giáo viên lắng nghe để kịp thời sửa chữa cho
những học sinh đọc sai, khen ngợi kịp thời đối với học sinh đọc diễn cảm hay có sự
tiến bộ hơn.
Tổ chức thi đọc diễn cảm dẫn đến tiết học hấp dẫn và đạt hiệu quả.
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

12


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
Biện pháp 8: Rèn tư thế, nét mặt khi đọc diễn cảm:
Tư thế, nét mặt, ánh mắt là những biểu hiện bên ngoài của người đọc có tác dụng
bổ sung cho ngữ điệu khi đọc diễn cảm.
Tư thế có thể đứng hoặc ngồi, song giáo viên hướng dẫn học sinh sao cho tự
nhiên, ung dung, đĩnh đạc tránh đi lại lăng xăng gò bó. Giáo viên hướng dẫn học sinh
nét mặt luôn phải thể hiện được thái độ của người đọc đối với nội dung tác phẩm một
cách tự nhiên. Đọc một câu chuyện vui nét mặt phải tươi sáng, đọc một câu chuyện
buồn nét mặt lộ rõ u buồn. Người đọc tỏ thái độ gì sẽ hạn chế sự cảm nhận của người
nghe tới nội dung bài học. Khi đọc không nên chú ý vào sách hoàn toàn mà cần có sự
giao cảm qua ánh mắt với người nghe. Nếu hướng dẫn học sinh thực hiện tốt điều này
thì thành công trong việc đọc diễn cảm sẽ rất cao.

Biện pháp 9: Tổ chức tốt phong trào thi đua “ Rèn kỹ năng đọc diễn cảm” cho
học sinh và giáo viên:
1. Đối với ở lớp:
Trong gần cả năm học, các giáo viên phải duy trì tốt phong trào “ Rèn đọc diễn
cảm” . Cứ hai tuần lại tổ chức cho học sinh cả lớp thi “Đọc diễn cảm” một lần, các
em bắt thăm được bài nào thì đọc bài ấy.
-Những học sinh nào đọc hay đọc tốt sẽ được thưởng hoa điểm tốt, điểm số của các
em sẽ được ghi vào bảng theo dõi treo trên tường lớp. Những em được điểm cao và
những em có sự tiến bộ các giáo viên phải kịp thời động viên, khen ngợi, sẽ được
tuyên dương trước lớp và được giữ cờ thi đua của lớp để gây thêm sự hứng thú học
tập cho các em, giúp các em có ý thức vươn lên trong học tập và luyện đọc ở mọi nơi,
mọi lúc. Có như vậy, các em mới thực sự đạt được kỹ năng đọc diễn cảm đối với yêu
cầu rèn đọc của học sinh lớp 4,5.
Tường của lớp học, dành một phần để treo bảng “ Hoa điểm tốt”, bảng theo dõi
“Kết quả thi đọc diễn cảm” của từng em.
Qua phong trào thi đua “Đọc diễn cảm” của các lớp, tôi thấy rằng học sinh các lớp
đều có ý thức học tập nói chung và việc rèn đọc diễn cảm nói riêng ngày một tiến bộ
hơn. Đặc biệt các em có tinh thần thi đua rất tốt, cho nên chất lượng đọc của các em
được nâng lên rõ rệt.
2. Đối với giáo viên:
Phong trào thi đua “ Đọc diễn cảm” được chuyên môn nhà trường thường xuyên
tổ chức. Trong năm học này, nhà trường tổ chức rất nhiều lần thông qua “Giao lưu
kiến thức trong khối”.Thi đọc diễn cảm của các giáo viên vào các lần sinh hoạt khối.
Nhà trường kết hợp với Đoàn đội tổ chức thi qua buổi “Giao lưu Tiếng Việt”. Qua
mỗi đợt thi, nhà trường đều tuyên dương, khen thưởng những giáo viên có phong trào
học tập tốt.
Qua phong trào này, tôi thấy rằng đây cũng là một động lực không nhỏ thúc đẩy
tinh thần học tập của các thầy cô giáo.
3.“Câu lạc bộ bạn yêu thơ”:
Giáo viên tổ chức cho cả lớp thi đua làm thơ hoặc sưu tầm các bài thơ theo các chủ

đề: Mái trường, tình thầy trò, quê hương, đất nước, bạn bè…
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

13


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
Cứ hai tuần, giáo viên lại tổ chức cho học sinh thi đọc diễn cảm các bài thơ mà
các em đã làm hoặc sưu tầm được vào tiết sinh hoạt thứ 6. Giáo viên cùng học sinh
cả lớp lắng nghe để sửa sai cho bạn sau đó cho điểm và thưởng những bông hoa điểm
tốt. Đặc biệt kịp thời khen ngợi, động viên những em làm thơ hay, sưu tầm được
những bài thơ có ý nghĩa và đọc diễn cảm tốt, những em tích cực tham gia “Câu lạc
bộ”, những em có sự tiến bộ trong học tập. Bài thơ nào hay, có ý nghĩa sẽ được treo
lên góc sáng tạo để mỗi khi đến lớp các em có thể đọc.
Mỗi lần sinh hoạt “Câu lạc bộ bạn yêu thơ” tôi thấy, tất cả các lớp đều rất thích thú
tham gia, học sinh nào cũng xung phong đọc những bài thơ mình làm hoặc sưu tầm
đến. Qua việc làm này đã rèn đọc diễn cảm cho học sinh rất nhiều và đạt hiệu quả.
Biện pháp 10: Rèn đọc diễn cảm cho học sinh ở những giờ học khác:
Ngoài việc đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ Tập đọc, cần kết hợp rèn đọc diễn
cảm cho học sinh trong các giờ học khác( Toán, Tập làm văn, Đạo đức, Khoa học,…).
Ví dụ: Trong giờ học Toán học sinh trả lời hay đọc yêu cầu bài toán, đề bài toán nếu
các em phát âm chưa chuẩn còn đọc sai thì giáo viên cần phải sửa sai cho các em
ngay vì các em nói, đọc đúng thì mới hiểu và nắm tốt được nội dung kiến thức của
bài học và vận dụng kiến thức đó để làm bài tập. Việc rèn đọc này nó sẽ góp phần
nào thành công khi đọc diễn cảm trong giờ Tập đọc. Cần đọc diễn cảm các bài: Tình
quê hương, Bà cụ bán hàng nước chè,…Trong các giờ Tập làm văn, Luyện từ & câu
hay những câu chuyện trong giờ Đạo đức…Bất kỳ một thể loại văn, thơ, truyện khi
đọc diễn cảm chúng ta đã khai thác một khía cạnh nào về nghệ thuật của nội dung để
làm rõ các nội dung được phản ánh trong tác phẩm. Và như vậy, việc rèn đọc diễn
cảm cho học sinh không chỉ ở phân môn Tập đọc mà còn rèn đọc diễn cảm cho học

sinh ở tất cả các phân môn và các môn học khác vào tất cả các thời điểm.
Ví dụ: luôn nhắc nhở học sinh, yêu cầu học sinh nói, đọc đúng chuẩn khi trả lời các
câu hỏi hoặc đọc một câu, một đoạn,…mà giáo viên yêu cầu trong bất kỳ trường hợp
nào.
Rèn đọc diễn cảm cho học sinh là cả một quá trình lâu dài và liên tục. Do vậy
ngoài tiết học chính khoá các giáo viên còn phải tổ chức rèn đọc diễn cảm, thi đọc
diễn cảm cho các em vào 15 phút đầu giờ. Ngoài ra, còn rèn đọc và tổ chức cho các
em thi đọc diễn cảm trong các buổi học thêm, các buổi giao lưu kiến thức trong khối
và còn có thể rèn đọc cho các em trong các buổi lao động nữa (Bởi vì muốn đọc diễn
cảm hay đầu tiên là phải đọc đúng, muốn đọc đúng được thì khi nói cũng phải nói
đúng chuẩn.)
Biện pháp 11: Kết hợp với gia đình học sinh:
Để rèn đọc diễn cảm cho học sinh có hiệu quả tốt hơn cần phải có sự kết hợp giữa
việc rèn luyện của giáo viên với sự quan tâm và giúp đỡ của gia đình học sinh. Vì
vậy, các đồng chí giáo viên phải tăng cường tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho các
bậc phụ huynh, bằng cách:
Trao đổi để phụ huynh biết tác hại của việc đọc sai và cách hướng dẫn con em
mình không chỉ rèn đọc diễn cảm mà còn cả trong lời nói giao tiếp hằng ngày cũng
phải nói đúng chuẩn. Thông báo tình hình học tập nói chung và việc đọc nói riêng của
các em cho phụ huynh biết để có kế hoạch dạy bảo con cái học tập. Cố gắng dành
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

14


SK Mt s kinh nghim ch o dy c din cm cho hc sinh lp 4,5
nhiu thi gian qua tõm kốm cp, kim tra vic hc hnh ca con cỏi, thm chớ cú
th trao i, tranh lun núi ỳng chun cng nh c din cm hay nht.
II. Ch o son ging
Trờn c s 11 bin phỏp v ni dung rốn c din cm cho hc sinh lp 4,5 tụi ó

cựng vi cỏc t trng chuyờn mụn ch o son ging mt s tit hai khi lp ti
trng Tiu hc Lng Cao II. Trong khuụn kh ca bn kinh nghim ny, tụi khụng
th hin c ht mi tit 2 khi m tụi ch a ra một tiết chỳng ta cựng
tham kho. Khi dạy bài Ông Trạng thả diều Tiếng Việt 4 tập 1 trang
104
Tp c

ễNG TRNG TH DIU

I. Mc ớch yờu cu:
1. c trn tru, lu loỏt ton bi. Bit c din cm bi vn vi ging k chm rói,
cm hng ca ngi.
2. Hiu ý ngha cõu chuyn: Ca ngi chỳ bộ Nguyn Hin thụng minh, cú ý chớ vt
khú nờn ó Trng nguyờn khi mi 13 tui.
II. dựng dy hc :
Tranh v ch im Cú chớ thỡ nờn tranh minh ho ni dung bi tp c.
III. Cỏc hot ng dy hc:
A/ Gii thiu ch im:
*GV y/c HS quan sỏt tranh minh ha - Theo dừi trên bảng lớp.
trờn bng lp , gii thiu ch im.
Hi: Hóy núi nhng gỡ em thy trong TL: Bức tranh vẽ một chú bé ngồi
bc tranh ?
ngoài lớp học, vừa chăn trâu vừa
học bài, những cậu bé chăm
Gv cht li : Bc tranh v mt chỳ bộ chỉ miệt mài học tập nghiên
ngi ngoi lp hc va chn trõu va cứu.
hc bi, nhng em bộ i ma giú i
hc, nhng cu bộ chm ch mit mi
hc tp nghiờn cu, ó thnh nhng
ngi ti gii cú ớch cho xó hi.

Ch im cú chớ thỡ nờn tun ny s
gii thiu vi cỏc em nhng con ngi
cú ngh lc vn lờn trong cuc sng.
Hi: Vy tun ny cỏc em hc sang mt
ch mi cú tờn l gỡ ?
B. Dy bi mi:
TL: Có chí thì nên
1. Gii thiu bi: GV a bc tranh v
núi thy cú bc tranh v cnh mt cu
bộ ang ng ngoi ca lp nghe thy - Học sinh lắng nghe.
ging bi bit c cu bộ hc c
Trng Vn Long Phú hiu trng Trng Tiu hc Lng Cao II

15


SK Mt s kinh nghim ch o dy c din cm cho hc sinh lp 4,5
nhng gỡ ? v cú ý chớ nh th no trong
hc tp bi tp c ễng Trng th diu
s giỳp cỏc em bit c iu ú.
GV gi hc sinh nhc li u bi
GV ghi u bi lờn bng lp
2. Hng dn luyn c v tỡm hiu bi: - 2 học sinh nhắc lại. ễng Trng
- Y/c 1 HS c bi.
th diu
GV cho c lp c thm
Hi: Bi c chia lm my on ?
- 1HS c c bi lớp chú ý lắng
nghe.
TL: 4 đoạn

- Đoạn 1: Từ đầu đến lấy diều
để chơi
- HS luyn c ni tip 4 HS mi em - Đoạn 2: tiếp Lên sáu tuổi ...
c mt on.
thì giờ chơi diều
- Giỏo viờn sa li:
- Đoạn 3: từ Sau vì nhà
- Qua 4 em c giỏo viờn ghi cỏc t nghèo ... học trò của thầy
ng m hc sinh c sai lờn bng vớ Đoạn 4: Còn lại
d: trong lng, trang sỏch, lng trõu,
v trng
+ 4 HS c tip ni bi. Kt hp gii - HS luyện đọc các từ còn đọc
ngha t.
sai: trong làng, trang sách, lng
- Hc sinh c n on 2 giỏo viờn trâu, vỏ trứng...
cho hc sinh dng li hi:
- Hi: on 2 cú t kinh ngc vy
t kinh ngc c chỳ gii trong
sỏch ngha l gỡ?
Hc sinh c on cui GV hi: on -TL cảm thấy rất lạ trớc điều
cui ca bi cú t trng vy t trng hoàn toàn không ngờ.
c chỳ gii trong sỏch giỏo khoa l gỡ - HSTL: tức là trạng nguyên, ngời
?
đỗ đầu kì thi cao nhất thời xa.
- Y/C HS luyn c theo cp
+ 4 HS c 4 on ca bi.
Hi: Qua 4 bi c cỏc em cú nhn xột + HS luyn c theo cp
gỡ?
GV: Nhỡn chung c 4 bn c ó cú - HS theo dừi.
nhiu tin b nhng cỏc em cũn phi c

gng phỏt õm nhng t m a phng - HS trả lời
ta cũn hay phỏt õm sai ...
- GV c ton bi ging nh nhng,
chm rói, th hin s ca ngi.
b: Tỡm hiu bi :
GV gi 2 hc sinh c on 1 v 2
HS theo dừi.
Trng Vn Long Phú hiu trng Trng Tiu hc Lng Cao II

16


SK Mt s kinh nghim ch o dy c din cm cho hc sinh lp 4,5
Hi: Nguyn Hin sng i vua no?
Hon cnh gia ỡnh cõu ra sao?
Hi: cu bộ ham thớch trũ chi gỡ?
+ Tỡm nhng chi tit núi lờn t cht
thụng minh ca Nguyn Hin?
Hi: on 1,2 cho bit iu gỡ?
GV gi 2 hc sinh nhc li ý 1
- GV on 1 v 2 núi lờn t cht thụng
minh ca Nguyn Hin. bit c
chỳ bộ Nguyn Hin cú tip tc c
theo hc hay khụng v nu khụng c
theo hc chỳ s hc bng cỏch no thy
mi c lp c thm on 3 v trao i
theo cp tr li cõu hi 2 ca bi.
Hi: Nguyn Hin ham hc v chu khú
hc nh th no?
- GV dựng tranh gii thiu bi cho

HS thy cnh Nguyn Hin ng ngoi
ca lp nghe ging nh.
Hi: Qua phn chỳng ta va tỡm hiu
bn no cho lp bit on 3 núi lờn iu
gỡ?
GV: gi 2 hc sinh nhc li
GV: Thụng minh v ham hc Nguyn
Hin ó thu c nhng kt qu gỡ
trong hc tp thy mi 1 em c phn
cũn li ca bi.
Hi: Vỡ sao chỳ bộ Hin c gi l
ụng trng th diu?
Hi: on cui ca bi cho bit iu
gỡ ?
Gi 2 hc sinh nhc li
+ GV nờu cõu hi 4 SGK.
Gi HS tr li cõu hi 4 ( iu m cõu
chuyn khuyờn ta)
+ GV gi HS c li ton bi v nờu
ni dung bi.

- HS c thm .
- TL: vua Trần Thái Tông, gia
đình cậu rất nghèo.
- TL: Thả diều
TL: Hc n õu hiu ngay n y, trớ
nh l thng có hôm chú thuộc 20
trang sách mà vẫn có thời gian
chơi diều.
TL: ý 1: Nói lên t chất thông

minh của Nguyễn Hiền
Học sinh nhắc lại ý 1

- HS đọc thầm đoạn 3 của bài
trao đổi theo cặp trả lời câu
hỏi 2 của bài.
TL: Nh nghốo Hin phi b hc nhng
ban ngy i chn trõu, Hiền đứng
ngoài lớp nghe giảng nhờ. Tối
đến, đợi bạn học thuộc bài rồi
mợn vở của bạn. Sách của Hiền
là lng trâu, nền cát; bút là ngón
tay, mảnh gạch vỡ, đèn là vỏ
trứng thả đom đóm vào trong.
Mỗi lần có kỳ thi, Hiền làm bi
vo lỏ chui ri nh bn mang n thy
chm h.
TL: Nói lên đức tính ham học
và chịu khó học của Nguyễn
Hiền.(ý 2)
2HS nhắc lại ý 2

1 HS đọc đoạn 4
+ Vỡ Hin ó trng nguyờn khi mi
13 tui, khi vn cũn l chỳ bộ ham
thích chi diu.
TL: Nguyễn Hiền đỗ trạng
c: Hng dn HS luyn c din cm: nguyên ( ý 3)
- Y/C HS c ni tip 4 on,
2 học sinh nhắc lại ý 3

Trng Vn Long Phú hiu trng Trng Tiu hc Lng Cao II

17


SK Mt s kinh nghim ch o dy c din cm cho hc sinh lp 4,5
+HS tho lun theo cp ri tr li.
- Hi: nờu cỏch c tng on.
- TL có chí thì nên
Khi c cn nhn ging nhng t ng Câu chuyện ca ngợi Nguyễn
no?
Hiền thông minh có ý trí vợt khó
nên đã đỗ trang nguyên khi mới
13 tuổi.
- GV t chc cho hc sinh luyn c
din cm an 3 giỏo viờn treo bng ph
on cn luyn: cho hc sinh c thm
Hi: on ny cn nhn ging v ngt
nhng t ng no?
- Y/C HS luyn c theo cp.
*GV cho cỏc t thi c din cm
- GV tuyờn dng t cú bn c hay
nht
3/. Cng c, dn dũ:
- GV gi 1 hS c li bi v nờu ni
dung bi.
- Nhn xột, ỏnh giỏ gi hc.
*dn dũ:

- 4 HS c ni tip on v nờu cỏch c

tng on.
TL: Đoạn 1,2,3 đọc với giọng kể
chậm rãi, cảm hứng ca ngợi. Đoạn
4 đọc với giọng sảng khoái
-TL: Nhấn giọng ở những từ ngữ
nói về đặc điểm tính cách, sự
thông minh, tính cần cù, chăm
chỉ, tinh thần vợt khó của
Nguyễn Hiền. Nh: Ham thả
diều, kinh ngạc, lạ thờng, hai mơi, lng trâu, ngón tay, mảnh
gạch, vỏ trứng, bay cao, vi vu, vợt xa, mời ba tuổi trẻ nhất.
- HS đọc thầm
TL: nhấn gọng từ kinh ngạc, lạ
thờng, hai mơi, lng trâu, nền
cát, ngón tay, mảnh gạch vở,
ngắt sau các tiếng đó, nhng,
đèn.
- HS luyn c v thi c din cm on
vn, lp theo dừi nhn xột. Mỗi tổ 1
hs c .
- Các tổ nhận xét
Ni dung: Câu chuyện ca ngợi
Nguyễn Hiền thông minh có ý
trí vợt khó nên đã đỗ trang
nguyên khi mới 13 tuổi.
*Về nhà:
ễn bi

Trng Vn Long Phú hiu trng Trng Tiu hc Lng Cao II


18


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
Chuẩn bị bài sau.
III. Bồi dưỡng năng lực chuyên môn
Tổ chức cho giáo viên thi đọc diễn cảm, học sinh thi đọc đúng, đọc diễn cảm kết
hợp trong các lần giao lưu Tiếng Việt, hội thi giáo viên gỏi cấp trường. Có trao giải
để khuyến khích giáo viên và học sinh rèn đọc diễn cảm hiệu quả cao. Làm tốt các
buổi sinh hoạt khối về chủ đề này. Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn đưa những
vấn đề mà giáo viên còn vướng mắc về phần rèn đọc diễn cảm để cùng nhau trao đổi
và giả quyết. Ngoài việc rèn đọc diễn cảm ở tiết tập đọc giáo viên còn phải rèn kĩ
năng đọc diễn cảm ở các tiết học khác. Có thể nói quá trình rèn đọc được xuyên suốt
trong giờ dạy nhưng mức độ từng thời điểm dần được nâng lên, kết quả là: Học xong
bài tập đọc, học sinh có khả năng đọc hay, đọc thể hiện nội dung của bài. Có như vậy
học sinh mới đọc diễn cảm bài văn và hiểu được nội dung của bài. Từ đó các em
hứng thú say mê học phân môn tập đọc, kết quả giờ dạy mới đạt được mục tiêu yêu
cầu đề ra. Cùng với các bộ môn khác, việc chỉ đạo hình thành kĩ năng tự học cho giáo
viên về phương pháp dạy học, nhất là phần rèn kỹ năng đọc diễn cảm người tổ chức
và hướng dẫn học sinh đồng thời cung cấp cho học sinh phương pháp, cách thức, để
học sinh tiếp cận được kiến thức, từ đó có kỹ năng đọc tốt.
1. Kiểm tra, đánh giá kết quả giảng dạy: Tôi trực tiếp xem xét một số giờ dạy tập
đọc của giáo viên trên lớp, xem xét bài soạn của giáo viên và khảo sát trắc nghiệm
chất lượng của học sinh. Cùng với giáo viên chủ nhiệm nhận định và phân tích tổng
hợp về kết quả đọc của học sinh, kết quả cho thấy 70% số học sinh đạt yêu cầu.
Trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của các tổ, tôi trực tiếp tham dự và tham gia
đóng góp ý kiến xây dựng từng tiết dạy. Yêu cầu giáo viên xác định rõ mục đích, kiến
thức trọng tâm cần đạt trong mỗi bài học, đồng thời bổ sung về đổi mới phương pháp,
để nâng cao hiệu quả bài dạy. Từ đó có được các tiết học đạt kết quả ngày một khả
quan hơn.

2. Đúc rút kinh nghiệm thực tiễn.
- Nội dung các bài học ở một số bộ môn có thể rèn kỹ năng đọc cho học sinh. Khi
dạy cần tập trung vào yêu cầu chính của bài trong phân môn đó. Từ đó hướng cho
học sinh biết cách đọc hay, đọc diễn cảm. Bởi vậy giáo viên không chỉ dựa vào nội
dung sách giáo khoa mà còn rất cần đến các tư liệu tham khảo như : sách giáo viên,
thiết kế bài dạy, đồ dùng dạy học… để mở rộng hiểu biết, nội dung, phương pháp,
vốn kiến thức của mình.
3. Đẩy mạnh hoạt động tổ chuyên môn: Trao đổi, hội thảo, dạy thùc nghiệm… để
rút ra kinh nghiệm cho việc soạn giảng của mình, tự kiểm tra đánh giá phần rèn đọc
diễn cảm trong tổ chuyên môn.
- Chú trọng khâu thiết kế, soạn giáo án. Đây là khâu quyết định thành công cho
tiết dạy.
Thường xuyên dự giờ, thăm lớp, trao đổi góp ý cụ thể cho từng giáo viên trong
khối thấy rõ ưu, khuyết điểm của họ để nâng cao chất lượng giảng dạy.
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

19


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
Tăng cường bồi dưỡng nhân lực, cơ sở vật chất, xây dựng lực lượng nòng cốt, tạo
điều kiện cho giáo viên có trình độ tay nghề vững vàng để có thể làm tốt công việc
được giao.
- Khuyến khích sử dụng hợp lý các đồ dùng dạy, đồ dùng học tập sẵn có và tự làm,
tăng dần việc sử dông các nhóm thi đọc trong lớp trong khối để nâng cao chất lîng
dạy học phần rèn đọc diễn cảm.
Kết quả:
Qua một thời gian ngắn chỉ đạo việc soạn và dạy rèn đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 4,5 ở tiểu học Lũng Cao II , 100% giáo viên trong trường nắm vững phương pháp
giảng dạy. Đội ngũ giáo viên thực sự vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, có điều

kiện bồi dưỡng tay nghề và sẵn sàng dạy thực nghiệm đạt kết quả cao. Chất lượng
học tập của học sinh về kỹ năng đọc diễn cảm cao hơn.
Đa số học sinh đã mạnh dạn, hứng thú tự nhiên và yêu thích cảm nhận được nội
dung, kiến thức của bài: Khảo sát về kỹ năng đọc diễn cảm, 100% số học sinh đọc
đúng, đọc thạo, đọc bộc lộ được cảm xúc tự nhiên.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ

Với những kết quả đạt được nêu trên, bản thân tôi rút ra bài học kinh nghiệm sau:
Ban giám hiệu phải đi sâu, đi sát trong chỉ đạo chuyên môn, nắm vững những mặt
mạnh, mặt yếu và những hạn chế của từng giáo viên, thông qua việc đảm bảo kế
hoạch dự giờ, thăm lớp. Trong khi dự giờ, kịp thời phát hiện uốn nắn những nhược
điểm trong giảng dạy của giáo viên, đồng thời động viên khuyến khích kịp thời, đúng
mức những thành tích mà giáo viên đã đạt được. Trên cơ sở đó phát huy tính tự giác,
tự chủ, phấn đấu vươn lên trong chuyên môn của giáo viên.
- Xây dựng kế hoạch chỉ đạo chuyên môn sát với thực trạng dạy và học, điều kiện
cơ sở vật chất của nhà trường, đề ra những biện pháp thích hợp nhằm đổi mới và
nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chuyên môn.
- Qua sự tiến bộ vươn lên của học sinh mà khẳng định những đóng góp, phấn đấu
của giáo viên để có chế độ khen thưởng, động viên kịp thời cá nhân đó. Dạy đọc diễn
cảm ở Tiểu học là công việc gặp không ít khó khăn, giờ dạy giáo viên phải chú ý đến
rèn đọc. Qua rèn đọc giúp học sinh cảm nhận được cái hay, cái đẹp của văn chương.
Từ đó các em biết đọc hay đọc diễn cảm, đọc thể hiện được nội tâm của nhân vật,
ham thích học phân môn tập đọc.
Trong giờ học giáo viên phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa phương pháp rèn
đọc và tìm hiểu nội dung bài. Thông qua đọc mà học sinh cảm thụ được nội dung
nghệ thuật của bài. Các em thực sự tích cực tự giác tham gia hoạt động học tập, giờ
dạy nhẹ nhàng hiệu quả. Nếu có các giải pháp khắc phục khó khăn đó nhất định các
tiết dạy sẽ đạt kết quả cao hơn.
Trên đây là một số giải pháp tôi đã áp dụng để chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học
sinh khối 4,5 ở trường Tiểu học Lũng Cao II Bá Thước Thanh Hoá nhằm góp phần

nâng cao chất lượng toàn diện. Chắc chắn sáng kiến kinh nghiệm của tôi còn nhiều
hạn chế. Tôi rất mong các cấp quản lý, các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến, bổ sung
Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

20


SK Một số kinh nghiệm chỉ đạo dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4,5
giúp đỡ để tôi có nhiều kinh nghiệm, chỉ đạo hiệu quả hơn nữa góp phần nâng cao
chất lượng dạy và học ở trường của tôi.
Xin chân thành cảm ơn!
Lũng Cao, ngày 23 tháng 3 năm 2012
Người thực hiện

Trương Văn Long

Trương Văn Long Phó hiệu trưởng Trường Tiểu học Lũng Cao II

21



×