Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

TIỂU LUẬN CAO học VAI TRÒ của KHOA học kỹ THUẬT đối với lực LƯỢNG sản XUẤT ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (99.77 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU...................................................................................Trang 2
CHƯƠNG 1:KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI..........................3
1.1 LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT- VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT........................................................................................................................3
1.1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa MacLênin..........................................................................................................................3
1.1.2 Vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội.............4
1.2 Khoa học công nghệ - Vai trò của khoa học công nghệ............................6
1.2.1 Khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội loài người..............6
1.2.2 Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất......................................................................................................................7
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỐI VỚI LỰC
LƯỢNG SẢN XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY......................................................9
2.1 Những thành tựu đạt được.........................................................................9
2.2 Những yếu điểm còn tồn tại....................................................................12
2.3 Nguyên nhân chủ yếu..............................................................................14
2.4 Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa tại nước ta hiện nay.................15
2.5 Công nghiệp hóa – hiện đại hóa tác động vào lực lượng sản xuất trong
nền kinh tế tri thức...................................................................................................17
KẾT LUẬN...................................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................24


PHẦN MỞ ĐẦU
Ngày nay khoa học công nghệ đã trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển,
là lực lượng sản xuất trực tiếp của nền kinh tế toàn cầu. Điều này được phản ánh
rõ trong việc hoạch định các chính sách và chiến lược phát triển khoa học, cụng
nghệ và kinh tế của nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào trình độ
sự phát triển cụ thể của từng nước mà xây dựng chiến lược, chính sách phát
triển khoa học cụng nghệ mang tính đa dạng và đặc thù đối với từng giai đoạn


phát triển cụ thể phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện cơ sở vật chất của mỗi quốc
gia.
Trong quá trình hội nhập thế giới, nước ta ngày càng được tiếp cận với
nhiều nguồn khoa học công nghệ hiện đại. Nhận thức được vai trò quan trọng
của khoa học công nghệ, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều nghị quyết quan
trọng về khoa học cụng nghệ và khẳng định: "Cùng với giáo dục, đào tạo khoa
học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế -xã hội, là
điều kiện cần thiết để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá- hiên đại hoá đất nước bằng cách dựa vào khoa
học, cụng nghệ "
Nhằm giải thích rõ hơn vai trò của khoa học kỹ thuật đối với lực lượng
sản xuất, từ đó áp dụng vào trong điều kiện đất nước ta hiện nay để phát triển
khoa học cụng nghệ phù hợp với vài trò "Là lực lượng sản xuất hàng đầu trong
quá trình công nghiệp hoá- hiên đại hoá ", chúng em xin chọn đề tài “Vai trò của
khoa học công nghệ đối với lực lượng sản xuất”.
Vì đây là một đề tài lớn, với tiềm lực và khả năng còn hạn chế, chúng em
chỉ xin phân tích vai trò của khoa học công nghệ đối với quá trình công nghiệp
hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay. Bằng sự tham khảo từ nhiều nguồn, đặc biệt
là sự chỉ dạy tận tình của thầy, chúng em đã hoàn thành bài tiểu luận này. Tuy
còn sơ xài, nhưng hy vọng nó cũng làm rõ được phần nào vai trò của khoa học
công nghệ đối với lực lượng sản xuất, đưa ra đường lối đúng đắn của Đảng và
Nhà nước trong giai đoạn hiện nay, nhằm đưa đất nước phát triển, nhanh chóng


tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới, khẳng
định vị thế của đất nước.


CHƯƠNG 1:
KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG SỰ

PHÁT TRIỂN CỦA XÃ HỘI LOÀI NGƯỜI
1.1

LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT- VAI TRÒ CỦA LỰC LƯỢNG SẢN

XUẤT
1.1.1 Khái niệm lực lượng sản xuất theo quan điểm của chủ nghĩa MacLênin
Trong xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của loài người, con người
không ngừng tác động vào tự nhiên, sản xuất ra nhiều sản phẩm phục vụ cho
nhu cầu vật chất, tinh thần của mình. Trong quá trình lao động tạo ra của cải vật
chất của mình, con người không thể tách rời khỏi các mối quan hệ với tự nhiên,
với con người. Như vậy, quá trình sản xuất vật chất của con người dựa trên mối
quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Trong đó lực lượng sản
xuất "biểu hiện cho mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, thể hiện năng lực
thực tiễn của con người trong qúa trình sản xuất ra của cải vật chất". Lực lượng
sản xuất bao gồm người lao động với kĩ năng lao động của họ và tư liệu sản
xuất mà trước hết là công cụ lao động . Sức lao động của con người và tư liệu
sản xuất, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Và quan hệ sản xuất là
"quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất". Mỗi phương thức sản
xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế -xã hội nhất định, nó là sự thống nhất
giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng,
đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính
trị, văn hoá và xã hội. Và lịch sử xã hội loài người chẳng qua là lịch sử phát
triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất cũ, lạc
hậu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn. Trong mỗi
phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động đóng vai trò quyết
định. Lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn của con người trong
quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển xã hội loài
người, làm thay đổi mối quan hệ giữa người với người và từ đó dẫn tới sự thay



đổi các mối quan hệ xã hội. Trong tác phẩm "Sự khốn cùng của triết học", Mác
viết: " Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản
xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình,
loài người thay đổi tất cả những mối quan hệ xã hội của mình". Khi lực lượng
sản xuất thay đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất tất yếu cũng thay đổi và phát
triển theo, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, lực lượng sản xuất chính là toàn bộ các nhân tố vật chất, kỹ
thuật của quá trình sản xuất, chúng tồn tại trong mối quan hệ biện chứng với
nhau tạo ra sức sản xuất cải biến các đối tượng trong quá trình sàn xuất, tức tạo
ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên theo
nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
Lực lượng sản xuất là những nhân tố có tính sáng tạo và tính sáng tạo đó
có tính lịch sử. Cũng do đó, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phản ánh
trình độ chinh phục giới tự nhiên của con người: trình độ thủ công của lực
lượng sản xuất phản ánh trình độ chinh phục giới tự nhiên thấp hơn rất nhiều so
với lực lượng sản xuất ở trình độ kỹ thuật công nghiệp và công nghệ cao.
Trong các nhân tố tạo thành lực lượng sản xuất, “người lao động” là nhân
tố giữ vai trò quyết định bởi vì suy đến cùng các tư liệu sản xuất chỉ là sản
phẩm lao động của con người, đồng thời giá trị và hiệu quả thực tế phụ thuộc
vào trình độ sử dụng và sang tạo của người lao động. Mặt khác, trong tư liệu sản
xuất thì nhân tố công cụ lao động là nhân tố phản ánh rõ nhất trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất và thể hiện tiêu biểu trình độ con người chinh phục giới
tự nhiên. Ngày nay, tri thức khoa học, kỹ thuật, công nghệ có được nhờ những
quá trình nghiên cứu khoa học đã ngày càng trở thành những nhân tố quan trọng
hàng đầu trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, thúc đẩy lực lượng
sản xuất phát triển và từ đó dẫn đến sự hình thành những nhân tố cơ bản nhất
của xu hướng phát triển kinh tế tri thức.
1.1.2 Vai trò của lực lượng sản xuất đối với sự phát triển của xã hội



C.Mác viết:"Những thời đại kinh tế khác nhau không phải ở chỗ chúng
sản xuất ra cái gì, mà là ở chỗ chúng sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu
lao động nào".
Mỗi phương thức sản xuất đặc trưng cho một hình thái kinh tế -xã hội
nhất định, nó là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định
và quan hệ sản xuất tương ứng, đóng vai trò quyết định đối với tất cả các mặt
của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội. Và lịch sử xã hội loài
người chẳng qua là lịch sử phát triển kế tiếp nhau của các phương thức sản xuất.
Phương thức sản xuất cũ, lạc hậu được thay thế bằng phương thức sản xuất mới
tiến bộ hơn. Trong mỗi phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố
động đóng vai trò quyết định. Lực lượng sản xuất là thước đo năng lực thực tiễn
của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên nhằm đảm bảo cho sự tồn tại và
phát triển xã hội loài người, làm thay đổi mối quan hệ giữa người với người và
từ đó dẫn tới sự thay đổi các mối quan hệ xã hội. Khi lực lượng sản xuất trước
hết là tư liệu sản xuất thay đổi và phát triển thì quan hệ sản xuất tất yếu cũng
thay đổi và phát triển theo, khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã
hội. Như vậy, lực lượng sản xuất không chỉ là yếu tố khách quan, năng động
nhất của phương thức sản xuất mà còn là yếu tố cấu thành nền tảng vật chất của
toàn thể nhân loại.
Theo quan niệm của Mác, mỗi hình thái kinh tế-xã hội được hình thành từ
nhiều yếu tố, nhiều mối quan hệ như: mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng…Các yếu tố, các
mối quan hệ này luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau tạo thành động lực nội tại
của sự phát triển xã hội, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Xuất phát từ quan niệm đó,
CacMác đã cho rằng ngay trong cùng một hình thái kinh tế-xã hội thì không
phải bất cứ lúc nào nó cũng được thể hiện dưới một hình thức giống nhau.
Chính vì lẽ đó, Mác đòi hỏi phải vận dụng phương pháp phân tích lịch sử cụ thể
khi sử dụng phạm trù hình thái kinh tế-xã hội vào vệc xem xét, phân tích một xã
hội cụ thể, phải làm rõ được vai trò, vị trí và sự tác động của những quan hệ xã



hội đó trong đời sống xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thể rút ra những
kết luận có tính quy luật của một xã hội cụ thể khi áp dụng phạm trù hình thái
kinh tế-xã hội vào việc nghiên cứu xã hội đó. Và xét cho đến cùng, thì sự sản
xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực xã hội mới là yếu tố quyết định tiến
trình phát lịch sử của nhân loại hàng nghìn năm qua. Ph.Anghen nói: '' Theo
quan niệm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong quá trình lịch sử xét đến
cùng là sản xuất và tái sản xuất đời sống hiện thực. Cả tôi lẫn Mác chưa bao giờ
khẳng định gì hơn thế…". Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau, ứng với mỗi giai đoạn của sự phát triển đó là một hình thái
kinh tế xã hội nhất định, và sự tiến bộ xã hội chính là sự vận động theo hướng
hoàn thiện dần của các hình thái kinh tế xã hội, là sự thay đổi hình thái kinh thái
kinh tế lạc hậu lỗi thời bằng hình thái kinh tế xã hội tiến bộ, hiện đại hơn mà
gốc rễ sâu xa của nó là sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất. Nó là
nền tảng, là cơ sở vật chất-kĩ thuật, là yếu tố quyết định sự hình thành, phát triển
và thay thế lẫn nhau của các hình thái kinh tế-xã hội.
Trong thời kỳ công xã nguyên thủy, con người tạo ra của cải vật chất
bằng săn bắt, hái lượm, nên lượng của cải tạo ra ít và không ổn định. Khi các
công cụ lao động bằng kim loại xuất hiện, con người biết chuyển từ săn bắt, hái
lượm sang chăn nuôi, trồng trọt, năng suất lao động tăng lên, của cải tạo ra dư
thừa, dẫn đến sự thay đổi từ hình thái công xã nguyên thủy thành chiếm hữu nô
lệ. Trải qua thời kỳ chiếm hữu nô lệ, khi lực lượng sản xuất ( người nô lệ) mâu
thuẫn với quan hệ sản xuất (chủ nô) dẫn tới một hình thức xã hội khác là thời kỳ
phong kiến. Xã hội phong kiến kết thúc khi mâu thuẫn giữa người nông dân và
địa chủ phong kiến, kết hợp với sự ra đời của máy móc kỹ thuật dẫn đến hình
thành một hình thái kinh tế xã hội mới là tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, qua các giai đoạn lịch sử của xã hội loài người, khi lực lượng
sản xuất phát triển đến một mức giới hạn nhất định, sẽ dẫn đến thay đổi các
quan hệ sản xuất tương ứng và hình thành một hình thái kinh tế xã hội mới cao

hơn, năng suất lao động ngày càng cao.


1.2

Khoa học công nghệ - Vai trò của khoa học công nghệ

1.2.1 Khoa học công nghệ trong sự phát triển của xã hội loài người.
Từ khi xuất hiện, con người không ngừng nỗ lực cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của mình. Với sự lao động sáng tạo, con người đang dần dần
khám phá, nghiên cứu, phát triển và ứng dụng nhiều dụng cụ, máy móc, quy
trình để giúp đỡ giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Trải qua từ thời kỳ công
xã nguyên thủy cho đến hình thái phong kiến, khoa học công nghệ chưa thật sự
phát triển, chưa có nhiều công cụ lao động được tạo ra. Chỉ đến thế kỷ 18, khoa
học công nghệ mới thật sự phát triển, đánh dấu bằng cuộc cách mạng khoa học
lần thứ nhất. Với sự phát minh ra động cơ hơi nước, con người đã có thể tạo ra
nhiều máy móc thay thế sức lực của súc vật và con người, từ đó năng suất lao
động được nâng cao. Qua đến cuộc cách mạng khoa học lần thứ 2, sự xuất hiện
của động cơ đốt trong thay thế cho động cơ hơi nước đã tạo được sự đột phá
trong các lĩnh vực sản xuất.
Tới đầu thế kỷ 20 mối quan hệ mật thiết giữa khoa học- công nghệ đã tạo
nên cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại của xã hội loài người, đánh
dấu "quá trình khoa học công nghệ biến thành lực lượng sản xuất trực tiếp là
điều kiện cần để đưa lực lượng sản xuất lên một bước phát triển mới". Cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự thay đổi căn bản trong bản thân
các lĩnh vực khoa học công nghệ cũng như mối quan hệ và chức năng xã hội
của chúng, khiến cho cơ cấu và động thái phát triển của các lực lượng sản xuất
cũng bị thay đổi hoàn toàn. Ở nét khái quát nhất có thể định nghĩa cuộc cách
mạng khoa học công nghệ hiện đại là sự biến đổi tận gốc lực lượng sản xuất của
xã hội. Có thể nói rằng sự phát triển của khoa học kỹ thuật đã đưa văn minh

nhân loại sang một giai đoạn phát triển mới về chất. Đó là kết quả của quá trình
tích luỹ lâu dài các kiến thức khoa học của việc đổi mới kỹ thuật sản xuất, và
việc tăng quy mô sử dụng kỹ thuật mới.Cho đến ngày nay, khoa học và công
nghệ đã không ngừng phát triển, tạo ra nhiều bước đột phá trong mọi lĩnh vực
như:


- Trong lĩnh vực năng lượng, con người từ sử dụng năng lượng nước, gió,
than, dầu, mặt trời, năng lượng nguyên tử và hiện nay chính là năng lượng nhiệt
hạch. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người đang tìm kiếm
một nguồn năng lượng sạch, an toàn và vô tận.
- Trong lĩnh vực sản xuất, từ hợp tác lao động giản đơn, trải qua giai đoạn
công trường thủ công rồi tiến lên phương thức sản xuất đại cơ khí với các quy
trình sản xuất và kỹ thuật được cơ giới hoá đến việc áp dụng các hệ thống máy
móc tự động vào trong sản xuất, giúp cho năng suất lao động ngày càng tăng
cao.
- Trong sản xuất vật liệu, chuyển từ vật liệu có sẵn trong tự nhiên, đến
việc sử dụng kim loại, rồi các vật liệu tổng hợp, vật liệu siêu dẫn, và gần đây là
các loại vật liệu thông minh, vật liệu tàng hình…
Như vậy, với việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào nhiều lĩnh vực, con
người ngày càng phát triển văn minh, tiến bộ, ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu
của con người.
1.2.2 Vai trò của khoa học công nghệ đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất
Theo học thuyết Mac-Lenin, lực lượng sản xuất bao gồm con người lao
động và tư liệu sản xuất, trong đó, nhân tố “người lao động” giữ vai trò quyết
định. Còn tư liệu sản xuất bao gồm đối tượng lao động, công cụ lao động, các tư
liệu phụ trợ của quá trình sản xuất…
Về mặt “người lao động”, từ thời kỳ công xã nguyên thủy, cho đến phong
kiến, sự phát triển của khoa học công nghệ còn non yếu, sức lực của con người

vẫn còn chiếm chủ yếu trong các hoạt động sản xuất của cải vật chất cho xã hội.
Nhưng từ thế kỷ 18 đến nay, trước sự phát triển không ngừng của khoa học và
công nghệ, nhiều máy móc ra đời, thay thế dần sức lao động của con người
trong việc sản xuất. Như vậy, vai trò của công cụ lao động đang dần thay thế
cho yếu tố con người.


Về mặt “đối tượng lao động”, ta có các đối tượng lao động thuộc hoàn
toàn về tự nhiên, đó là các loại tài nguyên thiên nhiên sẵn có và các đối tượng
lao động có mang yếu tố con người, tức là các đối tượng lao động đã qua chế
biến của con người. Trong hai loại đối tượng lao động này, tài nguyên thiên
nhiên thì không vô hạn, nên cần có sự phát triển của khoa học kỹ thuật để có thể
sử dụng một cách hiệu quả nhất.
Như vậy có thể thấy, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, lực lượng
sản xuất ngày càng được cải thiện và nâng cao, từ đó giúp tăng năng suất lao
động, tạo ra nhiều của cải vật chất cho xã hội.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới tiếp tục phát triển
với nhịp độ ngày càng nhanh, có khả năng tạo ra những thành tựu mang tính đột
phá, có ảnh hưởng to lớn tới mọi mặt của đời sống xã hội loài người.
Nhờ những thành tựu to lớn của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin - truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, v.v..., xã
hội loài người đang trong quá trình chuyển từ nền văn minh công nghiệp sang
thời đại thông tin, từ nền kinh tế dựa vào các nguồn lực tự nhiên sang nền kinh
tế dựa vào tri thức, mở ra cơ hội mới cho các nước đang phát triển có thể rút
ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Khoa học và công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, hàng
đầu. Sức mạnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc phần lớn vào năng lực khoa học
công nghệ. Lợi thế về nguồn tài nguyên thiên nhiên, giá lao động rẻ ngày càng
trở nên ít quan trọng hơn. Vai trò của nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn,
có năng lực sáng tạo, ngày càng có ý nghĩa quyết định trong bối cảnh toàn cầu

hoá kinh tế.
Thời gian đưa kết quả nghiên cứu vào áp dụng và vòng đời công nghệ
ngày càng rút ngắn. Lợi thế cạnh tranh đang thuộc về các doanh nghiệp biết lợi
dụng các công nghệ mới để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ mới, đáp ứng nhu
cầu đa dạng và luôn thay đổi của khách hàng. Với tiềm lực hùng mạnh về tài


chính và khoa học công nghệ, các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia đang
nắm giữ và chi phối thị trường các công nghệ tiên tiến.
Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ
cấu kinh tế theo hướng tăng nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm
lượng công nghệ cao, công nghệ thân môi trường; đẩy mạnh chuyển giao những
công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước
đang phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân
lực khoa học công nghệ trình độ cao, tăng mức đầu tư cho nghiên cứu và đổi
mới công nghệ, nhất là một số hướng công nghệ cao chọn lọc; tăng cường cơ sở
hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng
cách phát triển.
CHƯƠNG 2:
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC KỸ THUẬT ĐỐI VỚI LỰC LƯỢNG SẢN
XUẤT Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
Xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng gia tăng. Đây
vừa là quá trình hợp tác để phát triển vừa là quá trình đấu tranh giữa các nước
để bảo vệ lợi ích quốc gia.
Để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt,
những yêu cầu về tăng năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao
chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức tổ chức quản lý,
đang đặt ra ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh
tế, các thành tựu to lớn của công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ
cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, ngân hàng điện

tử, Chính phủ điện tử, v.v... đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc
gia và từng doanh nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động chuẩn bị về nguồn
nhân lực, tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - viễn thông, điều chỉnh các quy
định về pháp lý, v.v... thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và thua thiệt trong quan
hệ trao đổi quốc tế là điều khó tránh khỏi.


Trước xu thế toàn cầu hóa này, nước ta đang từng bước cải thiện nền khoa
học công nghệ của mình, tuy còn nhiều khó khăn và thử thách.
2.1 Những thành tựu đạt được
- Tiềm lực khoa học và công nghệ đã được tăng cường và phát triển
Nhờ có sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước, trong nhiều thập kỷ
qua, chúng ta đã đào tạo được trên 1,8 triệu cán bộ có trình độ đại học và cao
đẳng trở lên với trên 30 nghìn người có trình độ trên đại học (trên 14 nghìn tiến
sĩ và 16 nghìn thạc sĩ) và khoảng hơn 2 triệu công nhân kỹ thuật; trong đó, có
khoảng 34 nghìn người đang làm việc trực tiếp trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ thuộc khu vực nhà nước. Đây là nguồn nhân lực quan trọng cho hoạt động
khoa học và công nghệ của đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ này có khả năng
tiếp thu tương đối nhanh và làm chủ được tri thức, công nghệ hiện đại trong một
số ngành và lĩnh vực.
Thời gian qua, đã xây dựng được một mạng lưới các tổ chức khoa học và
công nghệ với trên 1.100 tổ chức nghiên cứu và phát triển thuộc mọi thành phần
kinh tế, trong đó có gần 500 tổ chức ngoài nhà nước; 197 trường đại học và cao
đẳng, trong đó có 30 trường ngoài công lập. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của các
viện, trung tâm nghiên cứu, các phòng thí nghiệm, các trung tâm thông tin khoa
học và công nghệ, thư viện, cũng được tăng cường và nâng cấp. Đã xuất hiện
một số loại hình gắn kết tốt giữa nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ với
sản xuất - kinh doanh.
Mặc dù ngân sách nhà nước còn hạn hẹp, nhưng với sự nỗ lực rất lớn của

Nhà nước, từ năm 2000 tỷ lệ chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công
nghệ đã đạt 2%, đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình thực hiện chính
sách đầu tư phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà nước.
- Khoa học và công nghệ đóng góp tích cực trong phát triển kinh tế - xã
hội.
Khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần quan trọng lý giải và khẳng
định giá trị khoa học và thực tiễn của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin và Tư tưởng Hồ


Chí Minh, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cung cấp luận cứ
khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới nói chung và vào
quá trình đổi mới tư duy kinh tế nói riêng.
Các kết quả điều tra cơ bản và nghiên cứu về điều kiện tự nhiên, tài
nguyên thiên nhiên đã phục vụ xây dựng luận cứ khoa học cho các phương án
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc tiếp thu, làm
chủ, thích nghi và khai thác có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài. Nhờ
đó, trình độ công nghệ trong một số ngành sản xuất, dịch vụ đã được nâng lên
đáng kể, nhiều sản phẩm hàng hoá có sức cạnh tranh cao hơn. Đặc biệt, trong
lĩnh vực nông nghiệp khoa học và công nghệ đã tạo ra nhiều giống cây trồng,
vật nuôi có chất lượng và năng suất cao, góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế
nông thôn, đưa nước ta từ chỗ là nước nhập khẩu lương thực trở thành một
trong những nước xuất khẩu gạo, cà phê, v.v... hàng đầu trên thế giới.
Các chương trình nghiên cứu trọng điểm về công nghệ thông tin, công
nghệ sinh học, công nghệ vật liệu, tự động hoá, công nghệ cơ khí - chế tạo máy,
đã góp phần nâng cao năng lực nội sinh trong một số lĩnh vực công nghệ tiên
tiến, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của nhiều ngành kinh tế.
Khoa học và công nghệ trong những năm qua đã góp phần đào tạo và
nâng cao trình độ nhân lực, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, bảo vệ môi trường,

giữ gìn bản sắc và phát huy truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc.
- Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ từng bước được đổi mới
Hệ thống quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ được tổ chức từ
trung ương đến địa phương đã đẩy mạnh phát triển khoa học và công nghệ, góp
phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của ngành và địa phương.
Thực hiện Luật Khoa học và công nghệ, các chương trình, đề tài, dự án
khoa học và công nghệ đã bám sát hơn nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Cơ


chế tuyển chọn tổ chức, cá nhân chủ trì nhiệm vụ khoa học và công nghệ đã
bước đầu được thực hiện theo nguyên tắc dân chủ, công khai.
Hoạt động của các tổ chức khoa học và công nghệ đã mở rộng từ nghiên
cứu - phát triển đến sản xuất và dịch vụ khoa học và công nghệ. Quyền tự chủ
của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động KH&CN bước đầu được tăng cường.
Quyền tự chủ về hợp tác quốc tế của tổ chức, cá nhân hoạt động khoa học và
công nghệ được mở rộng.
Vốn huy động cho khoa học và công nghệ từ các nguồn hợp đồng với khu
vực sản xuất - kinh doanh, tín dụng ngân hàng, tài trợ quốc tế và các nguồn
khác, tăng đáng kể nhờ chính sách đa dạng hoá nguồn vốn đầu tư cho khoa học
và công nghệ. Đã cải tiến một bước việc cấp phát kinh phí đến nhà khoa học
theo hướng giảm bớt các khâu trung gian .
Việc phân công, phân cấp trong quản lý nhà nước về khoa học và công
nghệ từng bước được hoàn thiện thông qua các quy định về chức năng, nhiệm
vụ và trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
- Trình độ nhận thức và ứng dụng khoa học và công nghệ của nhân dân
ngày càng được nâng cao
Nhờ có sự quan tâm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp, hoạt động
tích cực của các tổ chức khoa học và công nghệ, các tổ chức khuyến nông, lâm,
ngư và công tác phổ biến, tuyên truyền rộng rãi về tác động của khoa học và

công nghệ đến sản xuất và đời sống, nhận thức và khả năng tiếp thu, ứng dụng
tri thức khoa học và công nghệ của người dân trong thời gian qua đã tăng lên rõ
rệt. Hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng được xã hội hoá trên phạm vi
cả nước.
2.2 Những yếu điểm còn tồn tại:
Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định, nhưng nhìn chung khoa
học và công nghệ nước ta còn nhiều mặt yếu kém, còn có khoảng cách khá xa


so với thế giới và khu vực, chưa đáp ứng được yêu cầu là nền tảng và động lực
phát triển kinh tế - xã hội.
Năng lực khoa học và công nghệ còn nhiều yếu kém:
Đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ còn thiếu cán bộ đầu đàn giỏi, đặc
biệt là thiếu cán bộ khoa học và công nghệ trẻ kế cận có trình độ cao. Cơ cấu
nhân lực khoa học và công nghệ theo ngành nghề và lãnh thổ còn nhiều bất hợp
lý.
Đầu tư của xã hội cho khoa học và công nghệ còn rất thấp, đặc biệt là đầu
tư từ khu vực doanh nghiệp. Trang thiết bị của các viện nghiên cứu, trường đại
học nhìn chung còn rất thiếu, không đồng bộ, lạc hậu so với những cơ sở sản
xuất

tiên

tiến

cùng

ngành.

Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực

khoa học và công nghệ chất lượng cao, đặc biệt đối với những lĩnh vực khoa
học và công nghệ tiên tiến; chưa đáp ứng yêu cầu phát triển khoa học và công
nghệ cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hệ thống dịch vụ khoa học và công nghệ, bao gồm thông tin khoa học và
công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn - đo lường chất lượng còn yếu kém cả về cơ sở vật chất và năng lực cung cấp dịch vụ đáp
ứng các yêu cầu của hội nhập khu vực và quốc tế.
Thiếu sự liên kết hữu cơ giữa nghiên cứu khoa học và công nghệ, giáo
dục - đào tạo và sản xuất - kinh doanh; thiếu sự hợp tác chặt chẽ giữa các tổ
chức nghiên cứu - phát triển, các trường đại học và doanh nghiệp.
So với các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta còn có khoảng
cách rất lớn về tiềm lực và kết quả hoạt động khoa học và công nghệ: tỷ lệ cán
bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ trong dân số và mức đầu tư cho nghiên
cứu khoa học theo đầu người thấp; các kết quả nghiên cứu - phát triển theo
chuẩn

mực

quốc

tế

còn

rất

ít.

Nhìn chung, năng lực khoa học và công nghệ nước ta còn yếu kém, chưa giải



đáp được kịp thời nhiều vấn đề của thực tiễn đổi mới, chưa gắn kết chặt chẽ và
đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế - xã hội.
Trình độ công nghệ của nhiều ngành sản xuất còn thấp và lạc hậu:
Ngoài những công nghệ tiên tiến được đầu tư mới trong một số ngành, lĩnh vực
như bưu chính - viễn thông, dầu khí, hàng điện tử tiêu dùng, sản xuất điện, xi
măng, nhìn chung trình độ công nghệ của các ngành sản xuất nước ta hiện lạc
hậu khoảng 2 - 3 thế hệ công nghệ so với các nước trong khu vực. Tình trạng
này hạn chế năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế trong bối
cảnh

hội

nhập

kinh

tế

quốc

tế



khu

vực.

Cơ chế quản lý khoa học và công nghệ chậm được đổi mới, còn mang nặng tính
hành


chính:

Quản lý hoạt động khoa học và công nghệ còn tập trung chủ yếu vào các yếu tố
đầu vào, chưa chú trọng đúng mức đến quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra và
ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn. Các nhiệm vụ khoa học và công
nghệ chưa thực sự gắn kết chặt chẽ với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Công
tác đánh giá nghiệm thu kết quả nghiên cứu chưa tương hợp với chuẩn mực
quốc tế.
Cơ chế quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ không phù hợp với
đặc thù của lao động sáng tạo và thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Các tổ chức khoa học và công nghệ chưa có được đầy đủ quyền tự
chủ về kế hoạch, tài chính, nhân lực và hợp tác quốc tế để phát huy tính năng
động,

sáng

tạo.

Việc quản lý cán bộ khoa học và công nghệ theo chế độ công chức không phù
hợp với hoạt động khoa học và công nghệ, làm hạn chế khả năng lưu chuyển và
đổi mới cán bộ. Thiếu cơ chế đảm bảo để cán bộ khoa học và công nghệ được tự
do chính kiến, phát huy khả năng sáng tạo, tự chịu trách nhiệm trong khuôn khổ
pháp luật. Chưa có những chính sách hữu hiệu tạo động lực đối với cán bộ khoa
học và công nghệ và chính sách thu hút, trọng dụng nhân tài, chế độ tiền lương
còn nhiều bất hợp lý, không khuyến khích cán bộ khoa học và công nghệ toàn


tâm


với

sự

nghiệp

khoa

học



công

nghệ.

Cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động khoa học và công nghệ chưa tạo thuận
lợi cho nhà khoa học, chưa huy động được nhiều nguồn vốn ngoài ngân sách
nhà nước; cơ chế tự chủ về tài chính của các tổ chức khoa học và công nghệ
chưa đi liền với tự chủ về quản lý nhân lực nên hiệu quả còn hạn chế.
Thị trường khoa học và công nghệ chậm phát triển. Hoạt động mua, bán
công nghệ và lưu thông kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ còn bị hạn
chế do thiếu các tổ chức trung gian, môi giới, các quy định pháp lý cần thiết,
đặc biệt là hệ thống bảo hộ hữu hiệu quyền sở hữu trí tuệ.
Tóm lại, công tác quản lý nhà nước về khoa học và công nghệ còn chưa
đổi mới kịp so với yêu cầu chuyển sang kinh tế thị trường.
2.3 Nguyên nhân chủ yếu:
Đường lối chính sách phát triển khoa học và công nghệ của Đảng và Nhà
nước chưa được quán triệt đầy đủ và chậm được triển khai trong thực tiễn:
Quan điểm khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực phát triển đất nước

đã được khẳng định trong các nghị quyết của Đảng nhưng trên thực tế chưa
được các cấp, các ngành, các địa phương quán triệt đầy đủ và triển khai trong
thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội.
Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khoa
học và công nghệ chậm được thể chế hoá bằng các văn bản quy phạm pháp luật;
việc tổ chức, chỉ đạo thực hiện chính sách thiếu kiên quyết nên kết quả còn hạn
chế.
Năng lực của các cơ quan tham mưu, quản lý khoa học và công nghệ các cấp
còn

yếu

kém:

Cơ chế kế hoạch hoá, tập trung, bao cấp ăn sâu vào tiềm thức và thói quen của
không ít cán bộ khoa học và công nghệ và quản lý khoa học và công nghệ đã tạo
ra sức ỳ không dễ khắc phục trong cơ chế mới, không đáp ứng được yêu cầu về
đổi mới quản lý khoa học và công nghệ trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế.


Chưa làm rõ trách nhiệm của Nhà nước đối với những hoạt động khoa
học và công nghệ mà Nhà nước cần đầu tư phát triển như: các lĩnh vực khoa học
và công nghệ trọng điểm, ưu tiên; nghiên cứu chiến lược, chính sách phát triển;
nghiên cứu cơ bản; nghiên cứu mang tính công ích, v.v...; cũng như chưa có cơ
chế, chính sách phù hợp đối với các hoạt động khoa học và công nghệ cần và có
thể vận dụng cơ chế thị trường, như nghiên cứu ứng dụng và phát triển công
nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ.
Quản lý nhà nước đối với khu vực hành chính và khu vực sự nghiệp trong
hệ thống khoa học và công nghệ chưa được tách biệt rõ ràng, làm cho công tác

quản lý các tổ chức khoa học và công nghệ còn mang nặng tính hành chính.
Chậm tổng kết thực tiễn để nhân rộng các điển hình tiên tiến về gắn kết
giữa nghiên cứu khoa học và công nghệ với giáo dục - đào tạo và sản xuất kinh doanh.
Đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ còn hạn hẹp:
Đầu tư xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ trong thời gian dài còn
chưa được chú trọng đúng mức, thiếu tập trung vào lĩnh vực trọng điểm, ưu tiên,
dẫn đến cơ sở hạ tầng khoa học và công nghệ lạc hậu, hiệu quả đầu tư thấp.
Thiếu quy hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học trình độ cao ở các lĩnh
vực khoa học và công nghệ ưu tiên, đặc biệt là cán bộ khoa học và công nghệ
đầu ngành, các "tổng công trình sư".
Cơ chế quản lý kinh tế chưa tạo môi trường thuận lợi cho phát triển khoa
học và công nghệ:
Cơ chế quản lý kinh tế hiện nay còn duy trì sự bao cấp gián tiếp của Nhà
nước, độc quyền của doanh nghiệp trong nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh,
làm cho các doanh nghiệp nhà nước có tư tưởng ỷ lại, chưa quan tâm đến ứng
dụng các kết quả nghiên cứu khoa học và công nghệ và đổi mới công nghệ.
Thiếu cơ chế, chính sách hữu hiệu để gắn kết giữa khoa học và công nghệ với
sản xuất - kinh doanh và khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng kết quả nghiên
cứu khoa học và công nghệ. Hệ thống tài chính, tiền tệ kém phát triển cũng


không tạo điều kiện cho doanh nghiệp tự huy động được nguồn vốn để đầu tư
cho khoa học và công nghệ.
2.4 Quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa tại nước ta hiện nay
Đối với các nước quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, dù đã
có công nghiệp, có cơ sở vật chất- kĩ thuật của chủ nghĩa tư bản tiến bộ đến đâu
cũng chỉ là những tiền đề vật chất chứ chưa phải là cơ sở vật chất- kĩ thuật của
chủ nghĩa xã hội, các nước này phải thực hiện quy luật nói trên bằng cách tiến
hành cách mạng xã hội chủ nghĩa về quan hệ sản xuất; tiếp thu vận dụng và phát
triển cao hơn những thành tựu khoa học- công nghệ vào sản xuất; hình thành cơ

cấu kinh tế mới xã hội chủ nghĩa có trình độ cao và tổ chức, sắp xếp lại nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa một cách hợp lý, hiệu quả hơn.
Đối với các nước có nền kinh tế kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội như nước ta, xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật cho chủ nghĩa xã hội phải
thực hiện từ đầu, từ không đến có, từ gốc đến ngọn thông qua công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
C.Mác đã từng khẳng định một cách đúng đắn rằng, một xã hội chỉ có thể
phát triển cao với một nền đại công nghiệp. Lý tưởng cao đẹp của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta là xây dựng Việt Nam thành một nước xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh và văn minh. Để thực hiện lý tưởng đó, Nghị quyết Đại hội lần thứ
VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra: từ nay đến năm 2020 chúng ta phải
phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp hiện đại.
"Mục tiêu công nghiệp hoá - hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”.
(Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam)
Như vậy, công nghiệp hoá không phải chỉ là phát triển nền công nghiệp,
mà là phát triển mọi lĩnh vực từ sản xuất vật chất và dịch vụ của nền kinh tế,


cho đến các khâu trang thiết bị, phương pháp quản lý, tác phong lao động, kỹ
năng sản xuất…
Hiện đại hoá cũng không có nghĩa chỉ là đưa khoa học - công nghệ - kỹ
thuật thông tin - vi điện tử hiện đại vào các lĩnh vực hoạt động kinh tế, mà là
quá trình vận dựng tất cả những phương tiện đó vào tổng thể hệ thống kinh tế,
chính trị, xã hội, nó đòi hỏi phải thực hiện cách mạng công nghệ trong các cơ
cấu kinh tế - xã hội một cách hợp lý, cân đối, tạo lập cơ chế quản lý xã hội ở
trình độ chuyên môn cao với phương pháp quản lý hiện đại.

Công nghiệp hoá - hiện đại hoá phải hoàn thiện cơ cấu - tổ chức - vận
hành xã hội, chuyên môn hoá chức năng ngày càng sâu của các thể chế, nâng
cao chất lượng các phương tiện thông tin đại chúng và chất lượng sống: dân chủ
hoá đời sống xã hội trong khuôn khổ một Nhà nước pháp quyền, phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và dân đức thông qua việc phát triển nền giáo
dục quốc gia. Sau 20 năm đổi mới, quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa của
nước ta đã có những bước chuyển lớn:
-

Đã chuyển từ quan niệm công nghiệp hóa trong khuôn khổ cơ chế

kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang quan niệm công nghiệp hóa trên những
nguyên tắc của thị trường và kinh tế thị trường.
-

Gắn liền công nghiệp hóa với hiện đại hóa, đẩy mạnh công nghiệp

hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020, về cơ bản Việt Nam trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại.
-

Thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, hướng mạnh vào xuất khẩu,

đồng thời thay thế nhập khẩu ở những sản phẩm trong sản xuất có hiệu quả,
phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh của cả nước, từng vùng, từng
ngành, từng lĩnh vực, từng sản phẩm.
-

Định hình ngày càng rõ hơn quan điểm rút ngắn thời gian thực hiện


công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với
phát triển kinh tế trí thức và chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.


Quan điểm chỉ đạo của Đảng và nhà nước nhằm đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa:
-

Coi trọng việc đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp và nông thôn.
-

Ða dạng hóa các chủ thể thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa;

công nghiệp hóa là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế trong đó
kinh tế nhà nước là chủ đạo.
-

Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động

hội nhập kinh tế quốc tế; nội lực là quyết định, ngoại lực là quan trọng, kết hợp
tốt nội lực và ngoại lực trở thành nguồn lực tổng hợp của quốc gia để đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
-

Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng an

ninh.
2.5 Công nghiệp hóa – hiện đại hóa tác động vào lực lượng sản xuất trong

nền kinh tế tri thức.
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở
mức độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn
năm, phải dựa nhiều vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết... tức là
những tri thức cơ bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ công
lại quan trọng hơn, nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và
phát triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ
khí phục vụ sản xuất. Nhưng để hình thành được thị trường hàng hóa của kinh
tế công nghiệp cổ điển thì tài nguyên và vốn (tư bản) lại quan trọng hơn nên tri
thức cơ học cổ điển cũng chỉ có vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế công nghiệp cổ điển hết tiềm năng
phát triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày
càng nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên... Trong bối cảnh
đó cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển bùng


nổ, dựa trên những khối tri thức khổng lồ, rất mới và vô cùng phong phú về thế
giới vật chất vĩ mô và vi mô, với thuyết tương đối và thuyết lượng tử. Lực
lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo
nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh mà điển hình là máy tính
điện tử (máy điện toán) mô phỏng não người.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới một
hình thái kinh tế mới. Đó là một nền kinh tế trong đó việc sáng tạo tri thức, sự
lan truyền và quảng bá nhanh tri thức đưa vào ứng dụng là động lực chủ yếu của
tăng trưởng kinh tế, tạo ra của cải, tạo ra việc làm cho tất cả các ngành kinh tế.
Nhà kinh tế học P.F.Durker gọi đó là nền kinh tế tri thức và tên gọi này hiện nay
đã trở thành phổ biến với việc sử dụng chính thức của Ngân hàng thế giới.
Trong nền kinh tế mới, kinh tế tri thức sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn lực tri
thức. Tài nguyên và vốn dù quan trọng vẫn chỉ giữ vai trò thứ yếu.

Như vậy, trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại con người là
động vật duy nhất có năng lực sáng tạo tri thức, do đó biết lao động sản xuất và
tiến dần tới nền kinh tế dựa vào tri thức là chính. Bởi vậy, kinh tế tri thức là một
lịch sử tất yếu.
Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, khoảng từ giữa thế kỷ XX, dựa
trên những tri thức sáng tạo, đi sâu vào thế giới vĩ mô và thế giới vi mô, dẫn tới
sự phát minh ra các máy móc, thuộc loại hoàn toàn mới, gọi là máy móc thông
minh. Điển hình là máy điện toán, mô phỏng được những chức năng chủ yếu
của não người: biết nhớ, biết tính toán kể cả các bài toán rất phức tạp, biết thực
hiện các lệnh, biết tư vấn cho người dùng trong một số việc..., đóng vai trò
chính trong các hệ tự động hóa toàn phần của sản xuất và trong các mạng thông
tin toàn cầu. Máy móc thông minh kết hợp với tri thức sáng tạo trở thành nguồn
lực của các công nghệ cao như: công nghệ thông tin hoặc công nghệ thông tin
và truyền thông, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu tiên tiến - nano..., trong
đó công nghệ thông tin và truyền thông giữ vai trò dẫn đầu. Hệ thống công nghệ
cao là cốt lõi của lực lượng sản xuất mới. Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng


sản xuất mới đã thúc đẩy hình thành nền kinh tế tri thức trong nửa sau của thế
kỷ XX.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa thế giới, một số nước đang phát triển, tuy
chưa có công nghiệp hiện đại, công nghệ cao nhưng biết chủ động hội nhập kinh
tế, tranh thủ tiếp thu công nghệ cao trên cơ sở nguồn nhân lực thích hợp, thì vẫn
có thể bước đầu phát triển kinh tế tri thức.
Nước ta, tuy còn ở trong nền kinh tế nông nghiệp và là nước đang phát
triển thu nhập thấp, nhưng biết phát huy đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ
có năng lực tiếp thu và ứng dụng các công nghệ cao, qua chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế, vẫn có thể có cơ hội rút ngắn thời gian để tiến nhanh hơn. Muốn
vậy, phải đồng thời tiếp thu công nghệ cao của phát triển kinh tế tri thức và vận
dụng ngay vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong các lĩnh vực cần thiết. Ví dụ

phát triển các phần mềm hệ điều hành máy, có thể đem ứng dụng với sự điều
chỉnh hợp lý, vào các máy trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Thực tế cho thấy khi chúng ta phát triển công nghệ thông tin và truyền
thông, internet, mạng viễn thông kỹ thuật số, điện thoại di động..., tức là phát
triển một số bộ phận của kinh tế tri thức thì mặc nhiên thúc đẩy hiện đại hóa, ở
trình độ cao, nhiều lĩnh vực của công nghiệp và xây dựng, nông nghiệp, dịch vụ.
Do đó việc kết hợp công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức vừa là cơ hội, vừa là yêu cầu trong đổi mới.
Nghị quyết Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tranh thủ thời cơ thuận
lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa
gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri thức, kết hợp việc sử dụng
nguồn vốn tri thức của người Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân loại. Như
vậy, lý luận và thực tiễn là căn cứ vững chắc để xây dựng đường lối đúng đắn,
tranh thủ thời cơ, rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa sớm đưa
nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.


Theo kinh nghiệm của nhiều nước, phát triển kinh tế tri thức phải tập
trung nguồn lực vào bốn hướng chính sau đây:
- Nhà nước phải xây dựng thể chế xã hội và chính sách kinh tế năng
động, rộng mở, khuyến khích sáng tạo và ứng dụng có hiệu quả những tri thức
mới. Thúc đẩy kinh doanh, tác động cho nở rộ doanh nghiệp mới làm ăn phát
đạt. Phải tạo dựng một nền hành chính có hiệu quả, tránh phiền hà, tham nhũng.
Giảm mạnh các chi phí hành chính, góp phần tăng sức cạnh tranh.
- Đào tạo nguồn nhân lực tài năng sáng tạo, biết phối hợp và chia sẻ ứng
dụng những thông tin, tri thức thành sản phẩm có sức cạnh tranh cao.
- Xây dựng một hệ thống đổi mới hiệu quả bao gồm: các doanh nghiệp,
các trung tâm nghiên cứu, các trường đại học, các tổ chức tư vấn và các tổ chức

khác liên kết, trao đổi thông tin, tri thức với nhau theo những mục tiêu đã xác
định. Họ phải thường trực tiếp cận các kho thông tin, tri thức của thế giới được
liên tục chất đầy, để tích cực "tiêu hóa" chúng và thích nghi hóa cho các nhu cầu
của mình và từ đó sáng tạo ra công nghệ cao mới.
- Tích cực xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông,
đẩy mạnh ứng dụng và phát triển ngành công nghệ cao dẫn đầu này. Tạo điều
kiện thuận lợi cho việc đánh giá, phổ biến và sáng tạo tri thức.
Như vậy, qua quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lực lượng sản xuất
của nước ta đã được cải thiện cả về mặt “người lao động” và “tư liệu sản xuất”.
Người lao động ngày càng được đào tạo với chuyên môn cao, năng lực làm việc
phát triển, công cụ lao động ngày càng được cải tiến với nhiều ứng dụng thành
tựu khoa học công nghệ của thế giới. Đặc biệt là ngành công nghệ thông tin, đã
từng bước thâm nhập vào tất cả các ngành nghề khác, trở thành trọng tâm, mũi
nhọn của sự phát triển, chi phối trong mọi quá trình sản xuất tạo ra của cải vật
chất.
Nhằm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển gắn liền với kinh tế tri thức, chúng ta cần có các giải
pháp thiết yếu để rút ngắn thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội.


Vấn đề quan trọng hàng đầu là, chúng ta phải chủ động phát huy năng lực
sáng tạo tri thức ở trong nước, đồng thời phải biết tranh thủ cơ hội tiếp thu tri
thức của thế giới toàn cầu hóa.
Thực vậy, trong điều kiện chưa có đủ nguồn lực để phát triển kinh tế tri
thức lên ngay trình độ cao, ta phải coi trọng chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
nhằm đẩy mạnh hợp tác về công nghệ cao trong nhiều lĩnh vực, trên cơ sở cùng
có lợi. Qua hội nhập và hợp tác cùng với việc gửi đi nâng cao trình độ ở nước
ngoài, các chuyên gia Việt Nam từng bước trưởng thành, có thể chủ động trong
ứng dụng các công nghệ cao và tiến tới sáng tạo tri thức mới rất cần thiết cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở trình độ cao. Nhiều ví dụ trong công nghiệp

điện tử, trong thiết lập mạng viễn thông quốc gia, trong công nghiệp chế biến
nông sản phẩm, trong chế tạo trang thiết bị cơ - điện tử... đã cho thấy kết quả tốt
và đạt bước tiến nhanh rõ rệt.
Để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhanh, nông nghiệp phải gắn kết với
phát triển ứng dụng tri sáng tạo mới, cụ thể là: phải chuyển giao tri thức về công
nghệ sinh học, tri thức về giống cây, con chất lượng và năng suất cao, về canh
tác và chăn nuôi hiện đại cho nông dân. Đồng thời phải cung cấp tri thức về tổ
chức sản xuất gắn với thị trường và về xây dựng nông thôn mới và đẩy mạnh
ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong mọi hoạt động hiện đại hóa
nông nghiệp.
Trong công nghiệp và xây dựng thì công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ gắn
kết thuận lợi với phát triển kinh tế tri thức vì công nghiệp trong kinh tế thị
trường là rất hiện đại dựa vào các công nghệ cao. Trước hết công việc thiết kế
của công nghiệp và xây dựng ở mọi cấp phải chuyển nhanh từ thiết kế thủ công
sang thiết kế dùng máy tính sẽ rất chính xác và nhanh chóng, tranh thủ khai thác
các phần mềm thiết kế và thư viện các thiết kế sẵn có. Ngành chế tạo cũng phải
chuyển nhanh sang sử dụng máy thông minh có "nhúng" máy điện toán tự động
hóa hoàn toàn hoặc robot, hoặc các dây chuyền máy tự động hóa toàn phần.


×