Tín dụng và vấn đề bảo đảm an toàn tín dụng Ngân hàng
I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1. Sự ra đời của Ngân hàng Thương mại:
Ngân hàng Thương mại xuất hiện trước khi có chủ nghĩa tư bản. Ngân
hàng đầu tiên xuất hiện trong lịch sử không phải là Ngân hàng nhà nước
(Ngân hàng phát hành) mà là Ngân hàng thương mại. Nó được hình thành từ
những thương nhân là nghề kinh doanh tiền tệ từ đó họ có thể chuyển từ việc
chỉ làm nghề giữ hộ tiền (vàng) sang đổi tiền hộ và dần họ tiến hành cho vay
mà lúc này hoạt động giữ hộ tiền và thu lệ phí chuyển sang hoạt động huy
động vốn tiền tệ thu vốn nhàn rỗi trong xã hội.
Ngoài 2 nghiệp vụ huy động và cho vay các doanh nghiệp còn tiến hành
nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng và thu lệ phí, khi cả 3 nghiệp vụ nói trên
hình thành đồng bộ thì lúc đó Ngân hàng theo đúng nghĩa là xuất hiện. Sự phát
triển của Ngân hàng phải liền với trình độ xã hội hoá sản xuất...
Ở Việt Nam Ngân hàng quốc gia Việt Nam được thành lập từ 5/1951 ở
các vùng tự do, sau ngày miền Nam giải phóng cả nước tồn tại 1 hệ thống
Ngân hàng nhà nước từ Trung ương đến các chi nhánh tỉnh, thành phố và các
chi điểm của Huyện. Hệ thống Ngân hàng Việt Nam là hệ thống Ngân hàng 1
cấp vừa thực hiện chức năng quản lý về nhà nước và thực hiện chức năng kinh
doanh tiền tệ, tín dụng .
Hoạt động của Ngân hàng theo mô hình gắn với cơ chế kế hoạch hoá tập
trung quan liêu tất yếu làm nảy sinh nhiều nhược điểm và tỏ ra không phù hợp
với mô hình Ngân hàng hoạt động trong điều kiện kinh tế thị trường sự nghiệp
đổi mới nền kinh tế do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 (12/86) khởi xướng
trong đó chủ trương xoá bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp
thực hiện theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước thực hiện chủ
trương trên ngành Ngân hàng tiến hành thí điểm và trên cơ sở thí điểm đã
được tổng kết. Hội đồng Bộ trưởng ra nghị định số 53/HĐBT về tổ chức bộ
máy Ngân hàng nhà nước.
Phân định rõ ràng chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và
chức năng kinh doanh tiền tệ của các doanh nghiệp.
Từ tháng 9/1990 HĐNN đã ban hành 2 pháp lệnh: Pháp lệnh Ngân hàng
nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính .
Trong đó pháp lệnh Ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính đã
định nghĩa Ngân hàng thương mại như sau:
"Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ
yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả và sử dụng số tiền đó để cho vay thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và các
phương tiện thanh toán...".
Như vậy Ngân hàng thương mại khác Ngân hàng nhà nước. Ngân hàng
thương mại thực hiện các chức năng kinh doanh tiền tệ của mình theo sự qui
định của Ngân hàng nhà nước cũng như các tổ chức kinh doanh khác trong
nền kinh tế - Ngân hàng thương mại cũng tổ chức kinh doanh song đầu vào và
đầu ra của Ngân hàng thương mại đều là tiền.
Còn Ngân hàng nhà nước, chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối
với các Ngân hàng Thương mại việc phát hành tiền tập trung vào Ngân hàng
nhà nước .
2. Hoạt động của Ngân hàng thương mại
Nếu như hoạt động của Ngân hàng nhà nước gắn với chức năng quản lý
vĩ mô thì hoạt động của các Ngân hàng thương mại lại gắn liền với chức năng
kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường với tư cách là
một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, các Ngân hàng thương mại phải là một
doanh nghiệp.
- Có tư cách pháp nhân, tự chủ về tài chính hoạt động theo nguyên tắc
hạch toán kinh tế, quản trị, điều hành hoạt động dưới quyền quản trị của Hội
đồng quản trị và quyền điều hành của giám đốc.
- Chịu sự quản lý vĩ mô của Ngân hàng nhà nước.
- Có quan hệ với khách hàng theo nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về vật
chất và hành chính đối với tài sản tiền vốn và cam kết giữ bí mật về số liệu và
hoạt động cũ như tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng có quan hệ với tổ
chức tín dụng khác theo nguyên tắc bình đẳng tự nguyện cũng có lợi vừa hợp
tác vừa cạnh tranh với nhau trong khuôn khổ pháp luật các hoạt động chủ yếu:
1. Nghiệp vụ huy động vốn:
Là nghiệp vụ đầu tiên của các Ngân hàng thương mại nhằm tạo nguồn
vốn làm tiền đề cho vay vốn của Ngân hàng dùng để cho vay vốn gồm:
- Vốn điều lệ là vốn ban đầu khi Ngân hàng được thành lập vốn này, có thể
do Nhà nước cấp (nếu là Ngân hàng quốc doanh) có thể do các cổ đông góp
vốn nếu là Ngân hàng thương mại cổ phần...
Qui mô hay mức vốn điều lệ của Ngân hàng thương mại khi thành lập
được quy định.
- Vốn huy động: loại vốn này chiếm tỷ trọng ngày càng tăng trong nguồn
vốn của Ngân hàng thương mại, vốn được huy động dưới hình thức tiền gửi
tiền tiết kiệm (có kỳ hạn, không kỳ hạn) tiền phát hành trái phiếu, kỳ phiếu
theo mức của Ngân hàng nhà nước cho phép. Trong từng thời gian nhất định
Ngân hàng thương mại được quyền sử dụng có thời hạn và hoàn trả cả vốn, lãi
cho chủ sở hữu.
- Vốn tiếp nhận: loại vốn này gồm tài trợ, vốn đầu tư phát triển, uỷ thác
đầu tư để cho vay, theo các chương trình dự án xây dựng cơ bản chung của
nhà nước.
- Vốn đi vay: gồm vốn vay của Ngân hàng nhà nước vay vốn của Ngân
hàng nước ngoài, và các tổ chức tín dụng, Ngân hàng thương mại có trách
nhiệm sử dụng đúng mục đích có hiệu quả hoàn trả đúng thời hạn cả gốc và
lãi.
- Nghiệp vụ cho vay vốn là nghiệp vụ thông qua đó các nguồn vốn huy
động được đem cho vay nhằm phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tuỳ theo tiêu thức phân loại có các hình thức cho vay khác như cho vay
ngắn hạn, trung và dài hạn, cho vay sản xuất kinh doanh, cho vay thanh toán,
cho vay dự trữ.
- Nghiệp vụ thanh toán là nghiệp vụ của Ngân hàng thương mại thực hiện
trên cơ sở sự uỷ nhiệm của khách hàng trong khâu thanh toán hộ, giữ hộ đòi
nợ... thông qua các hình thức chuyển tiền, thanh toán, chứng từ và phát hành
chứng khoán.
* Các nghiệp vụ huy động, cho vay và thanh toán có mối quan hệ với nhau,
cấu thành nội dung hoạt động của Ngân hàng thương mại trong đó nghiệp vụ
huy động vốn là tiền, để phát triển nghiệp vụ cho vay, đến lượt nó, việc cho vay
càng mở rộng sẽ thúc đẩy nghiệp vụ huy động ngày càng tăng lên trong quá
trình thực hiện 2 nghiệp vụ này dưới hình thức "nợ", "có" sẽ có tác động làm
tăng nghiệp vụ trung gian - nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng nhờ đó các
khoản tiền phải trả được tập trung để bổ sung cho nghiệp vụ vay và huy động
vốn thúc đẩy hoạt động tín dụng phát triển nhanh chóng..."
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng
a. Tín dụng đối với Ngân hàng
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mục tiêu hàng đầu của doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế là tối đa hoá lợi nhuận, mục tiêu hàng đầu của
Ngân hàng - Một tổ chức kinh doanh tiền tệ cũng không nằm ngoài phạm vi đó
Ngân hàng thu được lợi nhuận thông qua các hoạt động dịch vụ, cung cấp cho
khách hàng như thanh toán, tư vấn nhưng quan trọng nhất là hoạt động cho
vay (hoạt động tín dụng)
Thật vậy, Ngân hàng với tư cách là một trung gian tài chính kinh doanh
trên nguyên tắc nhận tiền gửi của khách hàng (nghiệp vụ huy động vốn) dưới
hình thức tài khoản vãng lai và tài khoản tiền gửi tiền trên cơ sở đó tiến hành
các hoạt động cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo yêu cầu vay
của khách hàng. Sự chênh lệch giữa tiền lãi kiếm được qua hoạt động và tiền
lãi phải trả cho các khoản huy động là lợi nhuận thu được. Đây chưa phải là
toàn bộ lợi nhuận của Ngân hàng, tuy nhiên, nó chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng
số lợi nhuận của Ngân hàng.
Ngày nay hoạt động trong môi trường cạnh tranh của cơ chế thị trường
hoạt động tín dụng Ngân hàng càng trở nên sôi động, đa dạng. Đối với các
Ngân hàng thương mại để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh
tranh, góp phần thúc đẩy nền kinh tế xã hội. Hệ thống Ngân hàng thương mại
luôn phải tìm cách nâng cao chiến lược tín dụng, đa dạng hoá các chất lượng
dịch vụ từng bước công nghệ hoá trong hoạt động tín dụng đảm bảo sự tồn tại
của Ngân hàng trong thời kỳ mới. b. Vai trò tín dụng đối với nền kinh tế
Có thể nói sẽ là không tưởng khi nói đến phát triển kinh tế mà không có
vốn hoặc không đủ vốn hay ở một khía cạnh khác sẽ là thiếu chính xác thiếu
biện chứng khi chỉ đề cập từ phía vốn đối với phát triển kinh tế bởi lẽ vốn được
bắt nguồn từ nền kinh tế, nền kinh tế ngày càng phát triển thì càng có điều
kiện tích tụ vốn nhiều hơn, phải chăng đây chính là mốc quan hệ nhân quả.
Vậy có thể nói vốn và sự phát triển kinh tế có độ chính xác hơn so với nói
vốn đối với sự phát triển kinh tế.
Đối với nước ta, tại đại hội đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của
Đảng đã chỉ rõ: " để công nghiệp hoá, hiện đại hoá cần huy động nhiều nguồn
vốn, sẵn có với sử dụng vốn có hiệu quả trong đó nguồn vốn trong nước là
quyết định, nguồn vốn bên ngoài là quan trọng..."
Khẳng định rằng nếu ta có quan niệm đúng về vốn thì sẽ giúp ta phát hiện
được những tiềm năng về vốn, cũng từ đó có biện pháp khai thác và sử dụng
đem lại hậu quả với mục tiêu của chúng ta là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vốn nước ngoài sẽ tạo ra cú "huých"
mạnh mẽ để nền kinh tế mau chóng cất cánh, nếu xét về vấn đề vốn nước
ngoài, trong quan hệ cung cầu thì cung vốn cho các nước đang phát triển thấp
hơn nhiều so với cầu về vốn của nước đo. Điều này cho thấy chúng ta sẽ gặp
phải những đối thủ cạnh tranh rất lớn mạnh trên lĩnh vực này nếu xem xét về
vốn trong quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước ngoài. Thì qua thực tiễn
những năm thực hiện công việc đổi mới vừa qua cho thấy mức độ "hấp thụ",
vốn nước ngoài tuỳ thuộc chủ yếu vào khả năng nguồn vốn bên trong của nền
kinh tế. Sự thật trên cảnh báo sẽ sai lầm nếu kỳ vọng quá lớn và nguồn vốn bên
ngoài trong khi không tận lực khai thác nguồn vốn sẵn có bên trong...
Tín dụng Ngân hàng đóng vai trò rất lớn trong sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội chúng ta đều biết rằng muốn phát triển kinh tế thì điều trước hết là
phải có vốn (vốn = tiền) mà để có vốn bằng tiền thì phải có tổ chức có đủ thẩm
quyền và chức năng huy động và tập trung đó trước khi đem sử dụng. Ở bất kỳ
quốc gia nào thì công việc này do hai tổ chức thực hiện:
Tổ chức Tài chính (quỹ tài chính) và tổ chức tín dụng.
Song chủ yếu vẫn là các tổ chức tín dụng. Vì rằng dưới đây Các Mác đã
viết "Một mặt Ngân hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người có
tiền cho vay, mặt khác đó là sự tập trung các người đi vay" vậy tín dụng Ngân
hàng đã đóng vai trò quan trọng từ buổi sơ khai đến mô hình Ngân hàng hiện
đại ngày nay với khái niệm ấy đối với riêng trong lĩnh vực tín dụng đã là một
vấn đề vô cùng quan trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội, có thể khái quát
qua thực tiễn cho thấy hiệu quả mang lại của tín dụng Ngân hàng, tín dụng
Ngân hàng đã góp phần làm giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, là đòn bảy kinh tế quan trọng thúc đẩy mở rộng mối quan hệ giao
lưu quốc tế tác động tích cực đến nhịp độ phát triển và thúc đẩy sự cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường nó góp phần lớn thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế, chống lạm phát tiền tệ và góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
Ý nghĩa to lớn ấy của vốn của vai trò tín dụng trong nền kinh tế thị
trường đòi hỏi chúng ta có nhận thức đứng đắn để ý nghĩa đó trở thành hiện
thực một khi vốn - tín dụng Ngân hàng thể hiện chức năng vai trò của bản thân
thì chắc rằng dù trong bất kỳ lĩnh vực nào của sự nghiệp phát triển kinh tế đều
đem lại những hậu quả nhất định, góp phần không nhỏ thực hiện thắng lợi
đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước...
3. Các hình thức tín dụng Ngân hàng
Như chúng ta đã biết Ngân hàng thu lợi nhuận thông qua các dịch vụ
cung cấp cho khách hàng như: thanh toán, tư vấn... nhưng quan trọng nhất là
hoạt động cho vay .
Tuỳ theo các tiêu thức: khác nhau và căn cứ vào đối tượng được cấp tín
dụng mà các khoản cho vay có thể được phân ra thành các hình thức cho vay
khác nhau như: cho vay theo mục đích, theo hình thức bảo đảm, kỳ hạn, theo
phương pháp hoàn trả. Ngoài ra còn có nhiều cách phân loại khác. Việc phân
loại như thế hoàn toàn mang tính chất tương đối, không hề tách rời bản chất
của tín dụng là hoạt động vay mượn có hoàn trả .
a. Cho vay theo mục đích
Cách phân loại này căn cứ vào mục đích hoặc việc sử dụng vốn vay như
cho vay bất động sản, cho vay thương mại, công nghiệp nông nghiệp, cho vay
cá nhân, cho vay đối với các tổ chức tài chính, chính quyền.
b. Cho vay có đảm bảo và không có đảm bảo
* Cho vay có đảm bảo
Hình thức cho vay biểu hiện bằng việc cho vay có cầm giữ các vật thế chấp
cụ thể nào đó. Vật thế chấp có thể gồm nhiều loại tài sản như bất động sản,
biên nhận ký gửi hàng hoá, các loại chứng khoán, vật đơn hàng hoá, sổ tiết
kiệm...
Yêu cầu cơ bản của vật thế chấp là dễ bảo quản, có chứng từ bảo hiểm
cần thiết và phải bán được.
Yêu cầu món vay phải được bảo đảm chỉ nhằm tạo điều kiện để người cho
vay giảm bớt mất mát trong trường hợp người vay không muốn hay không trả
nợ được. Nó tạo tâm lý yên tâm cho người đi vay.
Tuy vậy bảo đảm không nghĩa là món nợ sẽ đưa hoàn trả bởi lẽ trong
trường hợp thanh lý tài sản thế chấp, tài sản thế chấp có thể bị giảm giá hoặc
ép giá, điều này sẽ khiến nó không đủ vốn trả hết nợ.
* Cho vay không bảo đảm
Khác với cho vay có bảo đảm, cho vay không có bảo đảm được dựa trên
tính liêm khiết và từ tình hình tài chính của người vay, lợi tức có thể có được
trong tương lai và tình hình trả nợ trước đây. Hình thức này thường được
Ngân hàng áp dụng cho các khách hàng lớn và quen thuộc của Ngân hàng
trong nhiều trường hợp còn được hưởng lãi suất ưu đãi. Đó thường là các
công ty có cách quản lí hiệu quả, có các sản phẩm và dịch vụ được thị trường
chấp nhận, lợi nhuận ổn định và tình hình tài chính vững mạnh. Trên thực tế
nhiều khoản vay lớn nhất lại được thực hiện theo hình thức này.
c. Cho vay theo kỳ hạn
Các khoản cho vay của Ngân hàng được phân theo kỳ hạn trường hợp
hợp đồng cho vay: ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
Cho vay ngắn hạn: thời hạn tối đa là 12 tháng
Cho vay trung hạn: thời hạn từ 1-3 năm
Cho vay dài hạn: dưới 3 năm
Các khoản vay có thì hạn ngắn thường đáp ứng nhu cầu vốn lưu động của
khách.
Các khoản vay trung và dài hạn thường được áp dụng vào mục đích đầu
tư mua sắm máy móc, mở rộng phạm vi hoạt động.
d. Cho vay theo phương pháp hoàn trả:
Các khoản cho vay của Ngân hàng có thể hoàn trả 1 lần hoặc trả góp.
Những khoản cho vay trả 1 lần là những khoản cho vay thẳng nghĩa là
hợp đồng yêu cầu trả toàn bộ một lần vào thời gian đến hạn cuối cùng.
Cho vay trả góp đòi hỏi việc hoàn trả theo định kì. Việc hoàn trả có thể là
hàng tháng, hàng quí, hàng năm. Cho vay trả góp theo nguyên tắc trả dần
trong suốt thời hạn thực hiện hợp đồng. Nhờ vay việc hoàn trả không trở
thành gánh nặng lớn đối với người vay như trong trường hợp toàn bộ khoản
vay phải được trả 1 lần. Đối với nhiều người các khoản cho vay trả góp đóng
vai trò như một phương tiện góp qui. Hình thức này được dành nhiều cho các
món vay bất động sản và cho vay tiêu dùng.
Qua các hình thức cho vay nêu trên ta thấy rằng: Các khoản cho vay là
những sản phẩm hàng hoá của Ngân hàng thương mại trên thị trường kinh
doanh tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Nền kinh tế càng phát triển thì các nhu
cầu về tín dụng càng phong phú đa dạng. Ngân hàng cần phải tiếp cận và hoá
nhập với đời sống kinh tế xã hội để tạo nhiều hình thức tín dụng mới đáp ứng
nhu cầu của các nhà sản xuất và tầng lớp dân cư.
II. AN TOÀN TÍN DỤNG NGÂN HÀNG
Hoạt động với nguyên tắc "đi vay để cho vay" nên Ngân hàng cũng không
khác bất kỳ ngành kinh doanh nào, có thể gặp rủi ro, có thể mất tiền vốn - Hoạt
động Ngân hàng với bản chất của nó, chịu ảnh hưởng rất nhiều loại hình rủi
ro. Bản thân nhà quản lý và người lập chính sách cần phải biết được, hiểu
được những rủi ro để tìm mọi cách để chế ngự nó, hạn chế được những đổ vỡ
gây thiệt hại trước hết là với chính bản thân Ngân hàng sau phản ứng dây
chuyền là sự khủng hoảng trong cơ cấu của thành phần kinh tế trong nền kinh
tế, điều này cũng mang ý nghĩa đối với ngành Ngân hàng khi đứng trong môi
trường cạnh tranh của cơ chế thị trường.
1. Đảm bảo an toàn
Với chức năng quản lý và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng hoạt
động Ngân hàng mang tính chất đặc thù riêng mà các ngành kinh tế khác
không có được so với hoạt động kinh doanh của ngành kinh tế khác thì hoạt
động Ngân hàng là hoạt động gắn liền với rủi ro vì "đầu vào" và "đầu ra" của
ngành Ngân hàng. Đều là tiền, ngày nay trong cơ chế thị trường, ngành Ngân
hàng phải huy động và tạo mọi nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu tín dụng cho
mọi thành phần kinh tế, để đáp ứng nhu cầu đó, nâng cao hiệu quả kinh doanh
tăng lợi nhuận giúp Ngân hàng đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
Ngành Ngân hàng phải nâng cao chênh lệch hoạt động tín dụng và hiệu
quả sử dụng vốn cũng như việc quản lý nguồn vốn. Điều này chỉ có được khi
Ngân hàng tổ chức hợp lý khoa học quy trình cho vay của mình. Quy trình quản
lý tín dụng mang ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động của ngành bởi vì đối