Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

giup hoc sinh lam TN co hieu qua

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.96 MB, 18 trang )

TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU Sáng kiến kinh nghiệm

PHẦN I: MỞ ĐẦU
Vật lý học là một ngành khoa học tự nhiên. Nhiệm vụ chủ yếu của nó là
nghiên cứu các hiện tượng vật lý, tìm ra những nguyên nhân, khám phá
những đònh luật vật lý, nhằm phục vụ lợi ích của con người. Mọi hiện tượng
vật lý đều diễn ra theo một đònh luật xác đònh. Mục đích của các nhà vật lý
là khám phá nó. Để khám phá hoặc kiểm tra các hiện tượng, quy luật vật lý,
người ta phải làm các thí nghiệm vật lý. Khi làm thí nghiệm nhà vật lý phải
quan sát và đo đạc. Quan sát để biết đại lượng nào thay đổi ( tăng hoặc
giảm) hay không thay đổi. Đo đạc để biết đại lượng nào thay đổi nhiều ít bao
nhiêu, nhanh, chậm thế nào. Vì vậy việc quan sát và đo đạc rất quan trọng,
đòi hỏi độ chính xác cao để đi đến thành công một thí nghiệm vật lý.
Trong dạy học bộ môn vật lý ở trường trung học cơ sở hiện nay, hầu như mỗi
tiết dạy đều có thí nghiệm, thậm chí một tiết phải tiến hành nhiều thí nghiệm.
Để đảm bảo thời lượng một tiết cho thầy và trò hoàn thành tốt nhiệm vụ, mà
vẫn kết hợp tốt phương pháp tích cực “ thầy chủ đạo, trò chủ động” thật không
đơn giản. Tiết học có thành công hay không phụ thuộc vào kết quả thí nghiệm
thu được qua quá trình nghiên cứu, sự phối hợp nhòp nhàng giữa thầy và trò.
Thầy bao quát, hướng dẫn; trò nghiêm túc thực hiện dưới sự hướng dẫn của
thầy. Ngoài ra việc sử dụng thí nghiệm cũng là trong những biện pháp quan
trọng nhằm nâng cao chất lượng dạy học, góp phần tích cực hóa trong hoạt
động nhận thức của học sinh, giúp học sinh phát triển năng lực và quen dần với
phương pháp nghiên cứu khoa học.
Không phải thí nghiệm nào khi thực hiện đều thành công, do nhiều nguyên
nhân khác nhau ( do dụng cụ thí nghiệm, do sự sơ ý làm đổ bể khi thực hiện...).
Thì giáo viên lại là người xử lí tình huống, đó cũng là một điểm khó không
những cho tôi mà cho nhiều đồng nghiệp khác đang trực tiếp giảng dạy bộ môn
này.
Xuất phát từ đó tôi đã quan tâm đến vấn đề nghiên cứu “ làm thế nào để giúp
cho học sinh thực hiện thí nghiệm vật lý hiệu quả” là đề tài thảo luận trong tổ,


để áp dụng trong trường và cũng là đề tài mà tôi tham gia viết sáng kiến kinh
nghiệm.
GV thực hiện: Phan Thò Thanh Xuân
1
TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU Sáng kiến kinh nghiệm
PHẦN II : NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI:
Việc áp dụng rộng rãi các thí nghiệm vật lý ở nhà trường là một trong các biện
pháp rất quan trọng, để nâng cao chất lượng dạy và học, nhằm cho học sinh
hiểu sâu hơn giữa lý thuyết và thực tế để áp dụng vào thực tiễn. Thí nghiệm vật
lý có tác dụng rất to lớn trong việc phát triển năng lực và nhận thức khoa học
cho học sinh. Thí nghiệm vật lý được thực hiện ở trường phổ thông với những
mục đích khác nhau: Giáo viên trình bày thí nghiệm nhằm để chứng minh hay
minh họa một đònh luật, một quy tắc vật lý nào đó hoặc học sinh tự tay làm các
thí nghiệm để tìm hiểu các hiện tượng vật lý thường xảy ra trong tự nhiên,
nhằm đào sâu, củng cố kiến thức đã học. Đề tài đưa ra đòi hỏi các thầy cô dạy
bộ môn này phải đổi mới, cải tiến phương pháp dạy và học sao cho phù hợp với
yêu cầu mới hiện nay.

II. THỰC TRẠNG VẤÄN ĐỀ CẦN NGHIÊN CỨU.
1. Về phía giáo viên :
Giảng dạy thí nghiệm còn tương đối mới đối với bản thân tôi cũng như nhiều
đồng nghiệp. Qua quá trình giảng dạy, cũng như qua nhiều lần dự giờ, tôi nhận
thấy một số giáo viên thường mắc phải những vấn đề sau:
+ Không hướng dẫn cách sử dụng đồ dùng thí nghiệm cho hợp lí để không bò
hỏng ( đặc biệt là đồ dùng thuộc phần Điện ).
+ Khi sử dụng thí nghiệm trong dạy học, giáo viên mới chỉ chủ yếu quan tâm
đến việc làm thế nào để tiến hành thí nghiệm thành công, chỉ ra cho học sinh
thấy được kết quả của thí nghiệm phù hợp với kiến thức cần dạy trong bài.
+ Khi tiến hành các thí nghiệm biểu diễn thì giáo viên là người tiến hành từ

đầu đến cuối và nhiều khi ngay cả mục đích của thí nghiệm cũng không được
phát hiện rõ ràng, nhất là đối với thí nghiệm đònh tính. Giáo viên không bao
quát được học sinh dưới lớp.
+ Câu hỏi thường thấy ở giáo viên trước khi tiến hành mỗi thí nghiệm là
“Các em hãy quan sát thí nghiệm và cho biết hiện tượng xảy ra” xảy ra hay
không thì giáo viên lại là người phân tích, giảng giải để đưa ra kết luận.
+ Khi tiến hành thí nghiệm theo nhóm học sinh, nhiều giáo viên chưa hướng
dẫn cụ thể các bước thí nghiệm đã cho học sinh làm. Chính vì vậy mà học sinh
không hiểu nhận dụng cụ song thì làm gì, gây sự ồn ào, bối rối, đặc biệt là sự
mất thời gian cho tiết học. Do đó việc bố trí học sinh làm việc theo nhóm không
mang lại hiệu quả, chưa kích thích được sự tham gia của tất cả các thành viên
trong nhóm. Với việc sử dụng các thí nghiệm trong quá trình dạy học như vậy
thì hiệu quả đem lại sẽ hết sức hạn chế và không phát huy được tính tích cực,
tư duy của học sinh.
GV thực hiện: Phan Thò Thanh Xuân
2
TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU Sáng kiến kinh nghiệm
+ Chưa có kế hoạch phân chia hợp lý: Thí nghiệm nào là giáo viên thực hiện,
thí nghiệm nào là học sinh thực hiện. Với những bài nhiều thí nghiệm, có khi
giáo viên giao toàn bộ việc làm thí nghiệm cho học sinh, kết quả cho thấy vừa
không đem lại hiệu quả, mất thời gian mà lại không hoàn thành bài dạy
2. Về phía học sinh :
Qua quá trình tìm hiểu tôi nhận thấy ở các em:
+ Hầu hết học sinh đều rất hứng thú khi được làm thí nghiệm. Tuy nhiên,
trong khi làm thí nghiệm, thì 1 số em lại coi đó là một trò chơi, không tham gia
vào công việc được giao, không quan tâm đến kết quả đạt được của thí nghiệm.
Khi giáo viên yêu cầu rút ra kết luận từ việc làm thí nghiệm, thì lúc này hầu hết
các em mới đọc kết luận từ sách giáo khoa.
+ Thường thấy ở các hoạt độâng nhóm là các em chưa có sự phân công, công
việc cụ thể cho các thành viên, chính vì vậy khi thực hiện nhiều em cùng tham

gia vào 1 việc, mà việc kia thì lại chưa thực hiện, nhất là trong khâu lắp ráp thí
nghiệm. Đó là sự không nhòp nhàng trong công việc. Do đó kết quả thí nghiệm
thu được chậm trễ, mất nhiều thời gian cho bài.
Vì vậy để đạt những kết quả như mong muốn trong qúa trình thực hành thí
nghiệm thành công, tôi đã thực hiện các biện pháp dưới đây:
III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.
Trong các bài học có sử dụng thí nghiệm, giải pháp được lựa chọn để giải
quyết vấn đề đặt ra là tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu. Việc sử dụng các
thí nghiệm cần phải được thực hiện một cách đầy đủ theo các bước dưới đây:
1.Trước khi làm thí nghiệm:
* Nêu rõ mục đích thí nghiệm:
Mục đích thí nghiệm không phải do giáo viên đưa ra mà đòi hỏi phải được
tiến hành thông qua trao đổi, đàm thoại với học sinh. Qúa trình đàm thoại để
nêu rõ mục đích của một thí nghiệm cụ thể, có thể được bắt đầu từ vấn đề đặt
ra của bài học, từ những hiện tượng quan sát được trong thực tế hay từ kết quả
của một thí nghiệm trước đó.
* Thiết kế phương án thí nghiệm:
Đây là giai đoạn có thể giao nhiệm vụ cho học sinh hoạt động độc lập
hoặc trao đổi theo nhóm để đề xuất phương án thí nghiệm.
Chú ý: chỉ cần yêu cầu học sinh đề xuất phương án thí nghiệm về mặt
nguyên tắc chứ không thể yêu cầu đưa ra các dụng cụ thí nghiệm cụ thể.
Giai đoạn này không phải học sinh nào cũng thiết kế được, tùy vào trình
độ, sự hiểu biết của các em, đồng thời còn phụ thuộc vào thí nghiệm đơn giản
hay phức tạp.

GV thực hiện: Phan Thò Thanh Xuân
3
TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU Sáng kiến kinh nghiệm
* Lựa chọn dụng cụ thí nghiệm và bố trí thí nghiệm:
Các dụng cụ thí nghiệm được sử dụng trong bài phải được giáo viên lựa

chọn chính xác và tốt nhất, trước khi chuẩn bò cho bài dạy.
Sau khi học sinh đề xuất các phương án thí nghiệm thực hành, theo mục
đích đã xác đònh, giáo viên nhận xét và dựa trên một phương án khả thi nào đó
mà học sinh đề xuất để làm rõ hơn phương pháp tiến hành, đồng thời giới thiệu
cụ thể về chức năng, cách sử dụng của từng thiết bò đo khi sử dụng làm thí
nghiệm, cách bố trí thí nghiệm để tiến hành ( nếu là thí nghiệm biểu diễn của
giáo viên ) hoặc giao cho học sinh tiến hành ( nếu là thí nghiệm nghiên cứu của
học sinh ).
2. Trong khi làm thí nghiệm:
Giai đoạn này là ta đi tiến hành thí nghiệm:
+ Nếu thí nghiệm do giáo viên thực hiện là những thí nghiệm khó làm,
nguy hiểm, hoặc đòi hỏi những thiết bò đắt tiền khó kiếm, thì học sinh có nhiệm
vụ quan sát và tham gia vào việc đo đạc hay đọc số chỉ của các dụng cụ đo.
+ Nếu thí nghiệm của học sinh là những thí nghiệm dễ làm, không nguy
hiểm, thì sau khi có dụng cụ mà mỗi nhóm đã nhận đủ từ giáo viên, các em
phải tự lực tiến hành theo nhóm để quan sát, đo đạc theo phương án thí nghiệm
đã xác đònh ở trên. Lúc này giáo viên chỉ là người quan sát quá trình làm việc
của các em và giúp đỡ khi cần thiết.
3. Sau khi làm thí nghiệm:
Ở giai đoạn này là phải xử lí được kết quả thí nghiệm và rút ra được kết luận:
+ Dù thí nghiệm thực hành là của giáo viên hay của học sinh thì giáo viên
cũng giao nhiệm vụ cho học sinh xử lí số liệu, thông qua sự trao đổi thảo luận
để rút ra kết luận.
+ Trong quá trình thực hiện phân tích, giáo viên cần nêu ra các câu hỏi để
học sinh đưa ra những nhận xét, từ nhận xét sơ bộ rồi đến cụ thể hóa dần từng
bước để cuối cùng rút ra được kết luận về vấn đề cần nghiên cứu, tức là trả lời
được câu hỏi nêu vấn đề đặt ra ở đầu bài học.
* Sau đây tôi xin trình bày 1 vài ví dụ mà tôi đã thực hiện được và đi tới thành
công cho tiết dạy của mình:


Ví dụ 1: Vật lý 6 – Bài 14: Mặt phẳng nghiêng.
Với thí nghiệm bài này vì đơn giản dễ thực hiện, không gây nguy hiểm cho
học sinh, tôi cho học sinh tự chiếm lónh kiến thức là làm thí nghiệm theo nhóm
dưới sự hướng dẫn của tôi.
* Để tìm hiểu mục đích thí nghiệm:
-Tôi treo tranh hình vẽ 13.2 lên bảng, yêu cầu học sinh nêu những khó khăn
trong cách kéo này.
GV thực hiện: Phan Thò Thanh Xuân
4
TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU Sáng kiến kinh nghiệm
-Từ đó tiếp tục treo tranh hình vẽ 14.1, xem những người trong tranh 14.1 đã
khắc phục những khó khăn trong cách kéo ở hình vẽ 13.2 như thế nào?
-Sau khi học sinh nêu được ở tranh hình vẽ 14.1 họ đã tạo 1 dốc nghiêng (mặt
phẳng nghiêng) để kéo vật. Đây chính là mục đích thí nghiệm cần làm và là
nội dung kiến thức trọng tâm của bài.
* Thiết kế phương án thí nghiệm:
Giao nhiệm vụ học sinh hoạt động độc lập dự đoán câu trả lời ở phần đặt vấn
đề. Giáo viên đặt câu hỏi cho học sinh để các em không thụ động khi làm thí
nghiệm : Để làm thay đổi độ nghiêng của tấm ván ta làm như thế nào? Học sinh
thảo luận theo nhóm đưa ra những phương án:
-Phương án 1: Sử dụng những tấm ván (mặt phẳng nghiêng) có độ dài ngắn
khác nhau, khi giữ nguyên độ cao kê mặt phẳng nghiêng.
-Phương án 2: Thay đổi độ cao kê mặt phẳng nghiêng, khi giữ nguyên độ dài
của nó.
GV thực hiện: Phan Thò Thanh Xuân
5
TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU Sáng kiến kinh nghiệm
* Lựa chọn dụng cụ thí nghiệm:
Vì điều kiện trong phòng thiết bò số lượng máng nghiêng không nhiều để cho
2 đến 3 giáo viên dạy cùng 1 khối, các máng nghiêng đều có độ dài bằng nhau,

để tiện lợi phương án 2 là thích hợp nhất.
Dụng cụ thí nghiệm được phát tới mỗi nhóm:
+ 1 lực kế 5N.
+ 1 khối trụ kim loại nặng 2N có móc treo.
+ 1 mặt phẳng nghiêng.
+ 1 vật kê có thể thay đổi độ cao.
* Bố trí thí nghiệm:
Yêu cầu học sinh quan sát hình vẽ 14.2, kết hợp quan sát cách bố trí trực tiếp
trên bàn của giáo viên.
Để thống nhất kết quả khi điền vào bảng 14.1 và để kiểm tra cách đo của học
sinh có chính xác không. Tôi yêu cầu các nhóm thực hiện kê vật ở những độ
cao sau:
+ Độ nghiêng lớn: độ cao kê là 20cm.
+ Độ nghiêng vừa: độ cao kê là 15cm.
+ Độ nghiêng nhỏ: độ cao kê là 10cm.
Cần lưu ý với học sinh cách kéo vật bằng lực kế lên mặt phẳng nghiêng: phải
đặt song song với mặt phẳng nghiêng trong suốt quá trình kéo.
* Tiến hành thí nghiệm:
Để hoàn chỉnh bảng 14.1 kết quả thí nghiệm sách giáo khoa (thư kí các nhóm
đã chuẩn bò từ trước), yêu cầu các em chuẩn bò kó càng các bước tiến hành đo ở
mục 2b (câu C1). Sau đó tôi vừa hỏi học sinh vừa ghi tóm tắt các bước làm thí
nghiệm lên bảng:
+ Bước 1 (làm gì): Đo trọng lượng của vật P =F
1
.
+ Bước 2 (làm gì): Đo lực kéo F
2
(ở độ nghiêng lớn).
+ Bước 3 (làm gì): Đo lực kéo F
2

(ở độ nghiêng vừa).
+ Bước 4 (làm gì): Đo lực kéo F
2
(ở độ nghiêng nhỏ).
Bây giờ các nhóm đã nắm rõ được cách thực hiện thí nghiệm, tôi giao việc
làm thí nghiệm, hoàn chỉnh bảng 14.1 cho các em, có giới hạn thời gian làm để
các em chủ động, tích cực, làm việc nhanh. Lúc này tôi tham gia vào hoạt động
bao quát, quan sát cách thực hiện thí nghiệm của mỗi nhóm, nhắc nhở và giúp
đỡ nếu cần.
GV thực hiện: Phan Thò Thanh Xuân
6
TRƯỜNG THCS NGUYỄN DU Sáng kiến kinh nghiệm
Hết thời gian, yêu cầu đại diện các nhóm lên ghi kết quả lên bảng phụ mà
giáo viên đã chuẩn bò:
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nhóm 6
Trọng lượng. F
1
=...N F
1
=...N F
1
=...N F
1
=...N F
1
=...N F
1
=...N
Độ nghiêng lớn. F
2

=...N F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N
Độ nghiêng vừa. F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N
Độ nghiêng nhỏ. F
2
=...N F
2
=...N F
2

=...N F
2
=...N F
2
=...N F
2
=...N
* Xử lí kết quả thí nghiệm và rút ra kết luận:
Yêu cầu các nhóm quan sát kó bảng kết quả, đối chiếu kết quả thu được của
nhóm mình với các nhóm khác, nhận xét nếu thấy kết quả chưa hợp lí.
Để cho thuyết phục với kết quả có được trên bảng, tôi tiến hành thí nghiệm
kiểm tra, dưới sự quan sát của cả lớp. Thống nhất kết quả đúng. Nếu có 1 hoặc
2 nhóm sai, tôi phân tích rõ nguyên nhân là do cách đo hay do sai số của dụng
cụ đo để đưa ra số liệu chính xác. Từ bảng kết quả, yêu cầu học sinh so sánh:
+ Trọng lượng P (F
1
) của vật với lực kéo vật lên F
2
và rút ra kết luận (trả lời
câu hỏi thứ 1 ở mục đặt vấn đề). Vậy dự đoán ban đầu có đúng không?
+ Lực kéo vật F
2
ở những độ nghiêng khác nhau và rút ra kết luận (trả lời
câu hỏi thứ 2 ở mục đặt vấn đề). Đối chiếu dự đoán thấy sao?
Từ thí nghiệm yêu cầu học sinh đưa ra kiến thức thu thập được cho bài học và
ghi nhớ.
Liên hệ thực tế qua bài học: Khi đi xe đạp trên 1 đoạn đường dốc:
+ Độ nghiêng đoạn đường dốc càng nghiêng ít thì ta đỡ tốn sức để đạp xe
và dễ dàng vượt qua.
+ Độ nghiêng đoạn đường dốc càng nghiêng nhiều thì ta phải bỏ sức lực

nhiều hơn, thấy mệt hơn và khó có thể vượt qua.
Ví dụ 2: Vật Lý 7 – Bài 24: Cường độ dòng điện. (TN: Hình vẽ 24.3 SGK).
Sau khi học sinh đã rõ để đo cường độ dòng điện thì phải dùng ampe kế, cách
kí hiệu ampe kế trong sơ đồ mạch điện. .
* Mục đích thí nghiệm: Tìm mối quan hệ giữa độ sáng của đèn và cường độ
dòng điện qua đèn.
* Thiết kế phương án thí nghiệm:
Học sinh dự đoán: + Khi đèn sáng mạnh.
+ Khi đèn sáng yếu.
Thì cường độ dòng điện như thế nào?
Để thực hiện thí nghiệm cần có những dụng cụ gì ? Học sinh phải đưa ra được
những dụng cụ cần cho việc làm thí nghiệm.
* Dụng cụ thí nghiệm:
+ 2 pin (mỗi pin 1,5V). + 1 công tắc, 1 ampe kế.
+ 1 bóng đèn pin. + 5 dây nối có vỏ bọc cách điện.
GV thực hiện: Phan Thò Thanh Xuân
7

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×