Những Bí Ẩn Của Cuộc Đời Dịch Giả: Nguyễn Hữu Kiệt
Bí Quyết Đào Tạo Khả Năng
Những điều tiết lộ của ông Cayce về những khả năng của con người và sự
phát triển khả năng một cách liên tục từ kiếp này qua kiếp khác, có những ảnh
hưởng rất sâu sắc về phương diện thực tế. Trước hết, nó trình bày cho ta thấy
những triển vọng vô giới hạn về sự tiến hóa của con người, và điều này tùy ở sự
cố gắng của từng cá nhân. Nói về những khả năng tiềm tàng được tích tụ từ lâu
trải qua thời gian, thì người ta có thể xử dụng lần hồi chẳng khác nào như một số
vốn cất trong ngân hàng. Lẽ tự nhiên, những nguồn tài nguyên tiềm tàng về khả
năng và đức tánh của mỗi người hoàn toàn tùy thuộc nơi cố gắng mà y đã thực
hiện trong dĩ vãng, và đã tích tụ trong kho tàng tâm linh của y.
Điều này cũng áp dụng cho những khả năng của ta trong tương lai. Cũng như
những khả năng của chúng ta bây giờ là do sự cố gắng tích lũy từ thuở quá khứ,
thì những khả năng mà ta sẽ có trong tương lai cũng là do bởi những cố gắng của
ta đang làm ngay bây giờ. Những số vốn nghị lực, thời giờ và công phu khó
nhọc mà chúng ta dùng để thu thập một khả năng trong kiếp hiện tại sẽ không
phải là mất, mà sẽ mang lại kết quả cho ta xử dụng trong những kiếp tương lai.
Trên thế gian có hàng nghìn người âm thầm cố gắng theo đuổi một chí
hướng nuôi từ thuở nhỏ mặc dầu họ biết chắc rằng họ không bao giờ thực hiện
được. Xét theo lối thường tình, thì đó thật là một việc đáng buồn; nhưng sự cố
gắng và thích thú say mê của họ thật ra không phải là hoài công vô ích nế người
ta xét lại vấn đề dưới ánh sáng của thuyết Nhân Quả Luân Hồi.
Một ông lão cố gắng vun trồng những khóm hoa trong vườn nhà ông, có lẽ
không mong ước chiếm giải quán quân về cuộc thi trồng hoa đẹp; hoặc được lời
khen tặng và biểu dương trong những tạp chí nông nghiệp. Tuy nhiên, trong lúc
hiện tại, ông ta đang xây đắp mầm mống cho sự hiểu biết về ngành thảo mộc
học, để rồi trong một kiếp tương lai, nó sẽ đâm chồi nẩy lộc thành những kiến
thức sâu rộng về ngành này và làm ông ta trở thành một nhà trồng tỉa trứ danh
hay một nhà thảo mộc học uyên bác.
Những cố gắng thô thiển và vụng về của một người đàn bà đứng tuổi đang
tập vẽ tranh, không phải chỉ là một đầu đề chế giễu của bạn bè thân quyến trong
gia đình cô mà thôi; nó còn là những bước đầu cho một nghệ thuật già dặn và
chắc chắn để làm cho cô có thể trở thành một họa sĩ tài danh trong một kiếp xa
gần trong tương lai.
Ông giáo sư âm nhạc trải qua nhiều năm tận tụy với nghề dạy đờn dương
cầm, vẫn cố gắng hành nghề một cách vô danh, không tên tuổi. Với thời gian
trôi qua, năm tàn tháng lụn, ông không còn nuôi hy vọng trở thành một nhạc sĩ
tài danh nữa, nhưng có lẽ ông ta sẽ tự an ủi nếu ông ta biết rằng chính ông ta
đang lần bước đi trên con đường sự nghiệp vẻ vang trong những kiếp tương lai.
Những tiếng đàn du dương gieo vào tiềm thức của ông một ý niệm chắc chắn về
nhịp độ; sự lập đi lập lại những bài đàn dạy học trò, trải qua thời gian đã gieo
trong tâm hồn ông những vết ký ức sâu đậm không thể phai mờ về nhạc lý. Chỉ
trong một, hai, hay ba kiếp nữa, ông sẽ trở thành một thiên tài về đàn dương
cầm, làm cho người đương thời phải ngạc nhiên khâm phục về tài năng xuất
chúng của ông.
Nói tóm lại, theo thuyết Luân Hồi, không có một cố gắng nào là mất đi. Nếu
luật Nhân Quả hành động một cách chắc chắn và vô tư để đem lại cho ta sự
trừng phạt về những hành vi bất chính của mình, thì nó cũng hành động một
cách vô tư chắc chắn để đem lại cho ta phần thưởng về những cố gắng công phu
có tính cách xây dựng. Nếu chúng ta thật tin tưởng nơi điều quan trọng này, thì
chúng ta sẽ không bao giờ bị thất vọng trên đường đời. Mỗi giờ phút trôi qua,
chúng ta đều tự tạo nên tương lai của mình. Cái tương lai đó được tốt đẹp hay
không, là tùy nơi trong lúc hiện tại chúng ta có những cố gắng tốt lành và xây
dựng, hay là chúng ta lãng phí thời giờ vô ích để tìm những thú vui vật chất phù
du giả tạm của cuộc đời trần thế.
Hiểu như thế, người ta sẽ không còn cho rằng giai đoạn cuối cùng của đời
người, thường gọi là lúc "Tuổi già", là một giai đoạn bất lực và vô dụng, cần
phải nghỉ ngơi, an phận, và không làm gì cả. "Tuổi già" hiểu như thế là một sự dị
đoan. Theo các cuộc soi kiếp của ông Cayce, ở xứ Ai Cập cách đây độ mười
ngàn năm, đời sống trung bình của con người là trên một trăm tuổi. Sự ăn uống
tiết độ, đúng phép vệ sinh, và bí quyết giữ cho tư tưởng được lành mạnh trong
sạch, giúp cho con người sống rất lâu, và thậm chí đến lúc tuổi già, họ cũng
không đến nỗi rung rẩy lụm cụm. Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh điều
này. Khoa Tâm bịnh học (Psychosomatiquie) cũng khám phá rằng sự già nua
một phần lớn do bởi một bệnh trạng tâm lý của đương sự, theo đó ý nghĩa rằng y
là một người vô ích, vô dụng trong xã hội, và đã đến lúc y cần phải được thay
thế bởi những người trẻ.
Sở dĩ họ có thái độ đó bởi vì họ có cái quan niệm theo "Chiều ngang" về
cuộc đời, tức là một thói quen hay so sánh mình với những kẻ khác trên bình
diện "Ngang" trong thời gian và không gian. Nhưng theo thuyết Luân Hồi thì
quan niệm chân thật về cuộc đời phải là một quan niệm theo "Chiều dọc". Tự so
sánh mình với những người trẻ tuổi hơn, không những là một điều chướng, mà
còn là vô ích vì chúng ta chỉ hoạt động để tự vươn mình và tiến bộ lấy cho mình,
sự tiến bộ của chúng ta không phải là tương đối với kẻ khác, mà là tương đối với
chính mình và với Thượng Đế.
Hiểu như thế, ta sẽ không còn thắc mắc ganh tị với những người ở vào một
hoàn cảnh tốt lành và thuận tiện hơn hoàn cảnh của ta trong hiện tại. Sự ganh tị
chỉ là một ảo tưởng vật chất. Trên phương diện tâm linh, ta không đua tranh với
ai cả, nếu không là với chính linh hồn mình.
Dầu sao, một người đến lúc tuổi già không nên tự coi như một phế nhân, ở
ngoài lề xã hội. Trái lại, trong sự tịch mịch âm thầm, y nên dành thời giờ còn lại
để trau dồi một vài khả năng mới, và học hỏi thêm những gì mà trước kia vì bận
rộn công việc hoặc vì bổn phận gia đình, y không có thời giờ theo đuổi một cách
tận tâm và trọn vẹn. Làm như vậy, y sẽ xây đắp nền tảng cho sự tiến bộ tâm linh
của y trong những kiếp sau. Những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường nói rằng
chúng ta nên sống một cách xây dựng cho đến lúc cuối cùng trong đời ta. Dưới
đây là một vài đoạn có ý nghĩa:
"Anh hãy có điều độ trong tất cả mọi chuyện; không nên làm điều gì thái
quá. Được như vậy, anh sẽ sống đến trăm tuổi, với điều kiện là anh sẽ sống cách
nào để xứng đáng với tuổi thọ của anh. Anh có gì để ban rải cho kẻ kkhác? Nếu
anh không có gì để cho ra, thì anh có quyền gì để sống cho chật đất?"
Hỏi: "Tôi phải làm sao để tự chuẩn bị cho lúc tuổi già?"
Đáp: "Cô hãy tự chuẩn bị cho lúc hiện tại. Tuổi già sẽ làm cho cô khôn
ngoan già dặn thêm. Cô hãy dịu dàng, dễ thương và biết thương người, nếu cô
muốn được trẻ trung mãi mãi ... "
Hỏi: "Tôi phải làm gì để khỏi sự bị cô đơn khi tuổi già sắp đến?"
Đáp: "Anh hãy săn tay áo lên và bắt tay vào làm một việc gì để giúp đỡ một
người nào đó. Anh hãy làm cho người khác vui vẻ hạnh phúc, và hãy tự quên
mìn để giúp đỡ người chung quanh. Như thế, anh sẽ không còn sợ sệt lo âu về
những gì có thể xảy đến cho mình và sẽ không cảm thấy buồn chán, cô đơn."
Hỏi: "Tôi phải làm gì để được yên ổn trong lòng và tìm thấy sự an tịnh?"
Đáp: "Anh hãy giúp đỡ kẻ khác. Anh hãy quyết định mỗi ngày làm một điều
thiện, hoặc giúp một tay nâng đỡ một việc gì cho một người nào đó cần sự giúp
đỡ. Thí dụ: Anh có thể đến viếng thăm một người bịnh, và trò chuyện an ủi họ.
Như thế anh sẽ thấy trong lòng yên ổn, không thắc mắc, nghĩ ngợi, lo âu."
Như vậy, tính cách liên tục của đời người trở nên một sự thật đầy ý nghĩa,
xét về vấn đề phát triển khả năng và đức tánh trải qua nhiều kiếp luân hồi sinh
tử. Hiểu được chân lý đó, người ta sẽ không còn có sự ganh tị đối với kẻ khac, vì
sự ganh tị là một điều vô ích. Triết gia Emerson nói sẽ có lúc người ta nhận định
rằng thói ganh tị là do sự vô minh mà ra. Điều ấy rất đúng, nhưng nó chỉ được
hiểu rõ là khi nào người ta hiểu thuyết luân hồi. Những kẻ ganhtị là những người
không biết rõ sự kiện này, là bất cứ điều gì người khác làm được, ta cũng có thể
làm được; tất cả những gì người khác có, như sắc đẹp, tài năng, danh vọng, giàu
sang, đức hạnh ... Ta cũng có thể có được, với điều kiện chúng ta chỉ cần thực
hiện những cố gắng cần thiết mà thôi.
Một thái độ xử thế thích nghi về điểm này đã được diễn tả trong cuộc đời của
nhạc sĩ trứ danh Paganini. Người ta thuật lại rằng nhạc sĩ này có lần bị hai năm
tù vì mắc nợ không trả được. Trong khi bị giam, hằng ngày ông vẫn chơi một
cây đàn vĩ cầm cũ, chỉ có ba dây. Sau khi được phóng thích, ông trình diễn đàn
vĩ cầm trước công chúng với một ngón đàn sắc xảo tuyệt diệu hơn trước, làm
cho cử tọa phải ngạc nhiên về tài nghệ xuất chúng của ông. Ngón đàn đặc biệt
của ông là mỗi khi đến những đoạn nhạc khó khăn nhất, thì ông bèn cắn đứt sợi
dây dưới của cây đàn vĩ cầm và tiếp tục kéo đàn chỉ có ba dây! Ngón đàn tuyệt
luân này, ông đã học được trong thời gian hai năm ngồi tù.
Việc bị giam cầm trong khám là một điều chướng ngại khó khăn và là một
nghịch cảnh, nhưng Paganini đã phản ứng một cách xây dựng, chứ không thối
chí hay thất vọng. Ngày nay con người còn sống ở thế gian, thì ông còn phải bị
những cảnh do quả báo đưa đến. Nhưng chúng ta không nên để ch nghịch cảnh đ
è bẹp hoặc làm cho ta bị điêu đứng khổ sở; mà trái lại, giữa cơn nghịch cảnh,
chúng ta cũng vẫn có thể vui sống với một niều hy vọng.
Khi nghịch cảnh xảy đến không thể tránh khỏi, chúng ta có thể chấp nhận nó
một cách kiên nhẫn, can đảm và vui vẻ; và như thế, chúng ta xây đắp nền tảng
cho sự thành công vẻ vang trong tương lai.