Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tổng quan về thanh toán quốc tế và phương thức tín dụng chứng từ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.37 KB, 32 trang )

Tổng quan về thanh toán quốc tế và phương thức tín
Tổng quan về thanh toán quốc tế và phương thức tín


dụng chứng từ
dụng chứng từ
1.
Thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế
1.1.Khái niệm:
Thanh toán được hiểu theo nghĩa chung nhất là việc chi trả của một
người cho một người khác đổi cho việc được sử dụng, sở hữu một hàng hoá,
dịch vụ hay một quyền cụ thể nào đó.
Một người mua một ngôi nhà, sẽ phải trả tiền cho chủ của ngôi nhà để
được sở hữu nó. Một người đi máy bay từ New York đến Hà Nội phải trả tiền
cho hãng hàng không phục vụ mình.. Tương tự như vậy, thanh toán chính là
việc trả tiền, nối tiếp sau mỗi hành động mua bán, trao đổi hàng hoá, dịch
vụ..Như vậy, thanh toán chính là khâu kết thúc của mỗi quan hệ hàng tiền
được xác lập trên cơ sở thoã mãn nhu cầu mỗi bên tham gia.
Quan hệ H_T đựợc thể hiện ở hai vế: vế thứ nhất là việc chuyển hàng từ
người bán sang cho người mua, và vế thứ hai, vế hoàn thiện cho mối quan hệ
này,là việc người mua phải trả tiền cho người bán.
Thanh toán nảy sinh do việc chuyển đổi quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng hàng hoá, dịch vụ, và đồng thời thanh toán cũng có tác động trở lại đến
tính hiệu quả và tốc độ của việc mua bán. Thanh toán tốt sẽ giúp tạo lập mối
quan hệ kinh tế uy tín và tin cậy, thúc đẩy các quan hệ kinh tế, tăng tốc độ lưu
chuyển hàng hoá, cải thiện cuộc sống, giúp nhà kinh doanh nắm được cơ hội
trên thương trường. Như vậy, có thể nói, thanh toán là hệ quả của việc mua
bán hàng hoá, dịch vụ, nhưng thanh toán đồng thời cũng là một trong những
nhân tố ảnh hưởng đến mối quan hệ đó.
Chính vì lý do đó, trong thanh toán, yêu cầu an toàn, chính xác, kịp thời


luôn được coi trọng. Đó chính là hiệu quả của thanh toán nói chung.
Tương tự như vậy, thanh toán quốc tế được hiểu là việc chi trả
bằng tiền có liên quan đến các quan hệ hàng hoá, dịch vụ và các quan
hệ khác giữa các cá nhân , tổ chức của quốc gia này với các cá nhân, tổ
chức của quốc gia khác.
Với một nghĩa hẹp hơn như vậy, thanh toán quốc tế được xác định bởi
đặc trưng riêng mình, là việc thanh toán đã vượt ra khỏi biên giới của quốc
gia, mà cơ sở của nó là việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ giữa các
chủ thể có trụ sở tại các nước, các vùng lãnh thổ khác nhau.
Cũng bởi đặc trưng đó, thanh toán quốc tế trở nênphức tạp hơn rất
nhiều so với thanh toán diễn ra trong nội địa. Việc mua bán vượt qua biên giới
quốc gia đòi hỏi phải tính đến những khác biệt và rủi ro, dễ thấy như:
∗ Khác biệt về tập quán sinh hoạt, kinh tế, luật pháp.. làm cho con người
ở các quốc gia khác nhau có những quan niệm không phải luôn thống nhất với
nhau, và cư xử của họ không chỉ trong đời sống mà trong kinh doanh cũng
khác nhau. Nếu không hiểu được tập quán và suy nghĩ của đối tác thường dẫn
đến thất bại trong quan hệ làm ăn.
∗Niềm tin trong kinh doanh : chính vì khoảng cách địa lý làm cho người
mua và người bán thường là không biết nhau, vì vậy ai cũng e ngại đối tác của
mình, vì họ không hiểu rõ về nhau, không nắm được điểm mạnh hay yếu của
nhau để có cách hành xử phù hợp.
∗Rủi ro: đối với các chuyến hàng chuyển giao trong nước không phải là
không có rủi ro, tuy nhiên, rủi ro trong mua bán quốc tế là lớn hơn rất nhiều.
Các chuyến hàng phải đi hành trình dài ngày trên biển, có sự tham gia của
nhiều chủ thể trong mỗi thương vụ, đòi hỏi những kiểm soát và thủ tục rườm
rà hơn..
Nếu thanh toán nội địa có thể tiến hành trực tiếp giữa người mua với
người bán mà không qua trung gian Ngân hàng, thì việc thanh toán cho nước
ngoài phần lớn cần đến các ngân hàng như một bảo đảm cho việc nhận hàng
và trả tiền giữa các bên liên quan.

Thanh toán quốc tế từ lâu đã trở thành một nghiệp vụ ngân hàng, và
ngày càng được hoàn thiện và mở rộng hơn trong sự phát triển của nền kinh
tế thế giới, của quan hệ kinh tế đối ngoại và các quan hệ song và đa phương
khác về chính trị, du lịch, ngoại giao...
Xét trên góc độ nghiệp vụ, thanh toán quốc tế là chức năng ngân hàng
quốc tế của mỗi một ngân hàng thương mại, và chỉ được thực hiện khi có sự
cho phép của Ngân hàng nhà nước sở tại. Thực chất, thanh toán quốc tế là một
nghiệp vụ, trong đó ngân hàng hành động như một trung gian thanh toán,
bằng kinh nghiệm, khả năng và nghiệp vụ của mình làm cho việc thanh toán
được diễn ra an toàn và hiệu quả, bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong giao
dịch thanh toán, tìm kiếm thu nhập cho ngân hàng.
Trên khía cạnh nghiệp vụ như vậy, trong thanh toán quốc tế ( từ nay
được gọi là thanh toán) có sự tham gia của ít nhất là 3 chủ thể:
♦Người mua : mua hàng và có trách nhiệm chuyển tiền vào ngân hàng
để ngân hàng thanh toán cho người bán.
♦Người bán: giao hàng theo hợp đồng mua bán
♦Ngân hàng: thu tiền hộ cho người bán sau khi hàng hoá đã được giao.
Trên đây là những mô tả khái quát nhất về sự tham gia của các bên,
trong thực tế, với mỗi thương vụ, mỗi phương thức thanh toán được lựa chọn
sẽ làm cho quy trình thanh toán trở nên khác biệt về trình tự, độ phức tạp, độ
an toàn, chi phí .. và chính điều đó gợi ý rằng, khách hàng có thể lựa chọn hình
thức nào là phù hợp nhất.
Nghiệp vụ thanh toán quốc tế của ngân hàng là một lĩnh vực tương đối
phong phú, đòi hỏi nhưng trình độ và kỹ thuật nhất định mà chúng ta sẽ tìm
hiểu sâu hơn ở phần sau.
1.2.Tính tất yếu của thanh toán quốc tế:
a.Đối với nền kinh tế
Như đã đề cập, thanh toán là hệ quả tất yếu của mỗi một vụ mua bán, và
thực tiễn thế giới cho thấy kinh tế ngoại thương là yếu tố không thể thiếu đối
với mỗi quốc gia đang tồn tại trong nền kinh tế mở. Trong thời đại ngày nay,

mở cửa là xu thế phát triển khách quan, mà thực chất của nó là việc phát triển
kinh tế đối ngoại, trong đó ngoại thương đóng vai trò quan trọng nhất.
Ngoại thương là động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế vì ngoại
thương giúp nhanh chóng chuyển dịch cơ cấu kinh tế, và nâng cao hiệu quả
nền kinh tế mở. Nguồn gốc của ngoại thương chính là sự phân công lao động
quốc tế, và lợi ích của ngoại thương đã được nhà kinh tế học thế kỷ 18-19 của
Anh David Ricardo bình luận như sau: “lợi thế so sánh là nguồn gốc lợi ích
ngoại thương, nó giúp mở rộng khả năng tiêu dùng của các quốc gia do việc
chuyên môn hoá sản xuất một số mặt hàng có lợi thế nhất định để đổi lấy hàng
nhập khẩu”.
Các nhà thông kê cho hay, cuộc sống của chúng ta đang được bao quanh
bởi khoảng 5 triệu mặt hàng khác nhau, và dễ nhận thấy rằng, một quốc gia
không thể tự mình sản xuất tất cả các loại hàng hoá đó, hoặc giả họ có thể sản
xuất thì cũng không hiệu quả. Đây chính là ý nghĩa của chi phí cơ hội trong
ngoại thương, thường thể hiện dưới dạng lợi thế so sánh.
Lấy ví dụ, người ta không thể khai thác kim cương nếu nước họ không
may mắn được sở hữu một vài mỏ kim cương, và người ta cũng không thể sản
xuất máy bay nếu trình độ công nghệ còn nằm ở mức i tờ.
Để thoã mãn những nhu cầu đa dạng, nhiều mức độ đó, kinh tế đối ngoại
là phương thức hay hơn cả.Hãy sản xuất những gì mình có thể , và dùng tiền
bán sản phẩm của mình đi mua mọi thứ mình cần.
Mua bán giữa hai quốc gia như vậy được gọi là thương mại quốc tế, hay
hoạt động kinh tế ngoại thương. Ngoại thương là thành phần cơ bản của
mảng kinh tế đối ngoại, tức tất cả các hoạt động kinh tế có liên quan đến phần
còn lại của thế giới.
Ngoại thương hiểu theo nghĩa phổ biến nhất, là một phạm trù kinh tế,
phản ánh sự trao đổi hàng hoá giữa nước này với nước khác thông qua các
hoạt đông mua bán, được gọi là xuất nhập khẩu.
Ngoại thương tồn tại kể từ khi hai tiền đề của nó xuất hiện, trước hết là
sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá tiền tệ, cùng lúc là sự xuất hiện của

tư bản thương nghiệp, và sau đó là sự hình thành của nhà nước và sự phát
triển phân công lao đông quốc tế. Có thể nói, ngoại thương đã manh nha xuất
hiện từ rất lâu, ngay từ chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng cho đến giai đoạn tư
bản chủ nghĩa nó mới thực sự phát triển rộng rãi và trở thành động lực quan
trọng nhất cho tăng trưởng kinh tế.
Như vậy, khẳng định rằng ngoại thương là tất yếu, và đi kèm với nó,
hoàn thiện cho nó chính là thanh toán quốc tế.
Trong điều kiện nền kinh tế ngày nay, nhu cầu của mỗi con người phát
triển cùng với sự phát triển kinh tế thế giới, ngày càng phong phú và phân hoá
mạnh mẽ hơn, mỗi mức độ đòi hỏi những loại hàng hoá với trình độ công nghệ
và hàm lượng chất xám khác nhau. Nhu cầu gia tăng thúc đẩy mua bán ngoại
thương, và thanh toán quốc tế là kết quả kéo theo, đồng thời thúc đẩy quan hệ
mua bán, trao đổi phát triển hơn.
b, Đối với mỗi ngân hàng
Xét trên quan điểm của một nhà tài chính ngân hàng, chúng ta không thể
đứng ngoài cuộc. Sự phát triển kinh tế đối ngoại dẫn đến sự lớn mạnh của
nghiệp vụ ngân hàng quốc tế, một nghiệp vụ tương đối an toàn đối với ngân
hàng. Ngày nay khó có thể tưởng tượng sự tồn tại của một ngân hàng chỉ đơn
thuần thực hiện các nghiệp vụ nhận gửi và cho vay, mà ngân hàng giờ đây luôn
phải thể hiện vai trò của một doanh nghiệp năng động, tầm hoạt động của
ngân hàng phải vươn cùng với tầm hoạt động của khách hàng mà ngân hàng
phục vụ.
Ngân hàng phải coi thanh toán quốc tế là một nghiệp vụ không thể thiếu
trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên lãnh vực tài chính ngân hàng,
và như thế, ngân hàng buộc mình phải hành động theo tôn chỉ “ Mất tiền là
mất ít, mất danh tiếng là mất nhiều, mất uy tín là mất tất cả”.
1.3 Vai trò của nghiệp vụ thanh toán quốc tế đối với ngân hàng
thương mại.
1.3.1. Đáp ứng nhu cầu của khách hàng.
Ngân hàng phục vụ khách hàng trong khâu thanh toán, và thực hiện các

yêu cầu đó ở mức cao nhất có thể được là phương châm sống còn của mỗi
ngân hàng. Cùng với sự phát triển và mở rộng thị trường của các doanh
nghiệp, các vụ mua bán ngoại thương ngày càng phổ biến và đi kèm với nó sẽ
là việc thu vốn từ nước ngoài, và trả tiền cho đối tác của vay vốn bổ sung tiền,
mua bán, đổi ngoại tệ phục vụ cho thanh toán, mở ra một lĩnh vực hoạt động
rộng rãi cho ngân hàng phục vụ mình. Trong thanh toán, hiệu quả của ngân
hàng chính là hiệu quả cho khách hàng, và một khi thoả mãn yêu cầu của
khách hàng nghĩa là ngân hàng đã giữ chân khách hàng, cơ hội thu hút khách
hàng mới, hoàn thiện và làm phong phú các sản phẩm ngân hàng của mình để
khẳng định vị trí trong cạnh tranh. Ngân hàng thương mại cũng chỉ là một
doanh nghiệp, và nó cũng phải hành động theo tư duy thị trường, nghĩa là
hướng đến khách hàng.
1.3.2. Tạo thu nhập cho ngân hàng.
Ngân hàng hoạt động trước hết là vì bản thân, vì sự sống còn và phát
triển của mình. Trong mỗi hoạt động, ngân hàng tính toán đến lỗ (lãi) kinh
doanh, nhằm mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá tài sản của mình. Với định
hướng đó, ngân hàng phải đa dạng hoá các sản phẩm cung ứng, nâng cao chất
lượng phục vụ đối với khách hàng, bước vào cạnh tranh. Trong điều kiện hội
nhập và phát triển kinh tế hiện nay, thanh toán là một nghiệp vụ tạo thu nhập
và tương đối ít rủi ro so với các sản phẩm ngân hàng truyền thống như tín
dụng hay liên doanh sản xuất.
Thông qua việc mở rộng mảng nghiệp vụ thanh toán quốc tế, ngân hàng
tạo thu nhập qua các loại phí sau :
- Phí dịch vụ thanh toán cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ,..)
- Phí chuyển đổi ngoại tệ
- Lãi cho vay tạm cấp vốn thanh toán
- Chênh lệch tỷ giá
- Lãi chiết khấu hối phiếu chưa đến hạn.
1.3.3. Mở rộng phạm vi hoạt động ngân hàng.
Khác với các nghiệp vụ khác, trong thanh toán quốc tế, ngân hàng không

chỉ có mối quan hệ với khách hàng mà còn quan hệ với mạng lưới ngân hàng
đại lý trên toàn thế giới - qua đó, ngân hàng có cơ hội tiếp cận với khách hàng
ở nước ngoài, tạo lập một hình ảnh và vị trí trên thị trường ngân hàng thế
giới, và đó là cơ sở đầu tiên và vững chắc cho kế hoạch mở rộng thị trường về
lâu dài của ngân hàng. Đối với mỗi ngân hàng, mỗi một món thanh toán quốc
tế thành công là một điểm cộng cho ngân hàng trong con mắt cộng đồng quốc
tế.
1.3.4. Tạo điều kiện cho hoạt động khác:
Để hoạt động thanh toán quốc tế, ngân hàng phải tạo lập các quan hệ
đại lý, chi nhánh với các ngân hàng ở nước ngoài, tạo điều kiện tiếp cận, tìm
kiếm những hỗ trợ lớn về tài chính, khoa học kỹ thuật và trình độ, kinh nghiệm
ngân hàng, tạo điều kiện cho việc phát hành kỳ phiếu ra nước ngoài.
Các ngân hàng nước ngoài thường có uy tín và kinh nghiệm dày dạn
trong nghề, trình độ nghiệp vụ thành thạo, và là khuôn mẫu mà chúng ta,
những ngân hàng non trẻ cần học tập. Không chỉ thế, với mong muốn tạo lập
ngân hàng xuyên lục địa, các ngân hàng này thường có những ưu đãi cho các
khu vực đang phát triển mà chúng ta có thể tận dụng tốt để phát triển.
Thanh toán quốc tế có khả năng mở rộng cơ hội cho vay, phát triển
nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, tạo điều kiện tìm kiếm nguồn ngoại
tệ bằng cách huy động vốn ngoại tệ rỗi của nhà xuất khẩu, tranh thủ nguồn
tạm rỗi của ngân hàng bạn, ngân hàng trung ương để đáp ứng cầu ngoại tệ
thanh toán nhập khẩu.
1.4. Các điều kiện thanh toán quốc tế:
Trong thanh toán quốc tế, chính vì sự khác biệt về tập quán kinh tế xã
hội, luật pháp, địa điểm của các bên tham gia, mà đặc biệt là niềm tin trong
kinh doanh, làm cho mỗi vụ thanh toán trở nên khó khăn hơn, đòi hỏi những
quy tắc, điều kiện cụ thể và tỉ mỉ hơn.
Những điều kiện đó nhằm hạn chế tối đa rủi ro thanh toán, và dùng giải
quyết tranh chấp nếu xảy ra. Các yếu tố đó thường được định rõ trong hợp
đồng ngoại thương , và thường gồm có:

• Điều kiện về tiền tệ và đảm bảo hối đoái
•Điều kiện về địa điểm thanh toán
• Điều kiện về thời gian thanh toán
•Điều kiện về phương thức thanh toán
1.4.1Điều kiện về tiền tệ và bảo đảm hối đoái
1.4.1.1 Điều kiện về tiền tệ
Việc mua bán với nước ngoài thông thường liên quan đến việc chuyển
đổi một đồng tiền của nước này với đồng tiền nước khác, vì vậy nó liên quan
đến các vấn đề về tỷ giá hối đoái như tỷ giá, các điều kiện đảm bảo giá trị hợp
đồng.
Dễ thấy rằng trong mua bán, ai cũng muốn nhận đồng tiền của nước
mình nhằm tránh rủi ro do biến động tỷ giá, qua đó có cơ hội nâng cao vị trí
đồng tiền nước mình.
Việc lựa chọn đồng tiền nào dùng trong tính toán và thanh toán là tuỳ
thuộc vào tương quan lực lượng hai bên mua bán, ngoài ra còn phụ thuộc vào
một số yếu tố như :
* Tập quán thanh toán quốc tế đối với từng ngành hàng. Ví dụ kim loại
màu thường sử dụng GBP để thanh toán, đối với hàng xuất khẩu nông sản
thường dùng USD để thanh toán.
*Vị trí đồng tiền được lựa chọn: USD ngày nay đã trở thành đồng tiền
quốc tế, có khả năng chuyển đổi tự do, bởi vậy ngày càng được sử dụng rộng
rãi hơn trong ngoại thương.
* Các hiệp định thương mại đã được kí kết giữa các nước nếu có, thường
rơi vào trường hợp có quy định thống nhất về đồng tiền chung của khu vực
kinh tế nào đó.
1.4.1.2. Điều kiện bảo đảm hối đoái
Dù lựa chọn sử dụng đồng tiền nào thì điều kiện kèm theo và luôn được
quan tâm là điều kiện bảo đảm hối đoái nhằm bảo lưu giá trị thực tế các
khoản thu nhập của các bên. Trong hợp đồng mua bán phải định rõ đồng tiền
tính toán, thanh toán và điều kiện đảm bảo, thông thường là các hình thức

như:
♦ Điêù kiện đảm bảo vàng:
- Nếu đồng tiền thanh toán đã được tuyên bố hàm lượng vàng: giá cả
hàng hoá và tổng giá trị hợp đồng dùng một đồng tiền để thanh toán và tính
toán, đồng thời quy định hàm lượng vàng của đồng tiền đó, nếu khi thanh toán
mà hàm lượng vàng của đồng tiền đó thay đổi, thì theo mức thay đổi mà điều
chỉnh giá cả hàng hoá cũng như giá trị của hợp đồng. Tất nhiên chỉ áp dụng
đối với các đồng tiền đã được xác định hàm lượng vàng, và sự thay đổi hàm
lượng vàng là do có thông báo của chính phủ nước đó tuyên bố đánh sụt hoặc
nâng cao giá trị đồng tiền lên. Cách này hiện nay ít dùng do tính chủ quan
trong việc định giá cả của đồng tiền.
-Dùng một đồng tiền tính toán giá cả và giá trị hợp đồng, đồng thời quy
định giá vàng thời điểm đó tại một thị trường nhất định làm cơ sở đảm bảo.
Khi thanh toán, nếu giá vàng thay đổi so với lúc ký hợp đồng đến một mức độ
nhất định thì sẽ điều chỉnh giá cả hàng hoá và giá trị hợp đồng một cách tương
ứng.
Biện pháp này hiện nay không còn phù hợp vì vàng có thể nói đã thực
hiện xong vai trò thước đo giá trị của nó và giá cả của nó giờ đây bị ảnh hưởng
bởi rất nhiều các yếu tố và không phản ánh đúng biến động giá cả hàng hoá
và tỷ giá hối đoái.
♦ Điều kiện đảm bảo ngoại hối: là việc lựa chọn một đồng tiền tương
đối ổn định, xác định mối quan hệ tỷ giá với đồng tiền thanh toán để đảm bảo
giá trị của hợp đồng.
Có thể thực hiện theo hai cách như sau:
-Quy định một đồng tiền dùng trong thanh toán và tính toán, đồng thời
xác định tỷ giá giữa đồng tiền đó với một đồng tiền mạnh nào đó ( đồng tiền
tương đối ổn định ). Khi thanh toán, nếu tỷ giá đó thay đổi thì điều chỉnh lại
giá cả và giá trị hợp đồng.
- Nếu đồng tiền thanh toán khác với đồng tiền tính toán giá trị hợp
đồng, thì căn cứ sự thay đổi tỷ giá đồng tiền thanh toán và tính toán mà điều

chỉnh lại giá trị hợp đồng. Đây là cách thường dùng trong mua bán ngoại
thương hiện nay.
Kết hợp 2 cách trên có thể thực hiện đảm bảo hỗn hợp. Đó là:
♦Bảo đảm theo rổ tiền tệ: các bên thống nhất lựa chọn số lượng ngoại
tệ đưa vào rổ cũng như phải thống nhất cách tính tỷ giá hối đoái của rổ so với
đồng tiền được đảm bảo vào lúc ký kết và thanh toán. Mục đích chính của hình
thức này là san bằng sự biến động khác nhau của các đồng tiền trên thế giới,
nhằm tạo ra một sự ổn định tương đối. Hai cách thường thấy là:
-Tổng giá trị hợp đồng được điều chỉnh bằng cách căn cứ vào mức bình
quân tỷ lệ biến động của tỷ giá của cả rổ tiền tệ đã chọn.
-Tổng giá trị hợp đồng được điều chỉnh căn cứ vào tỷ lệ biến động của
bình quân tỷ giá hối đoái của cả rổ vào lúc thanh toán so với lúc kí kết hợp
đồng.
♦ Bảo đảm căn cứ vào đồng tiền quốc tế : Tiền tệ quốc tế là các đồng
tiền hiệp định thuộc các khối kinh tế và tài chính quốc tế như SDR, EURO..
♦ Điều kiện đảm bảo căn cứ vào sự biến động giá cả: Đây là phương
cách mà người ta dựa vào sự thay đổi của chỉ số giá cả mà thay đổi giá trị hợp
đồng một cách tương ứng. Thật ra đây là cách làm không chính xác vì chỉ số
giá không chỉ phản ánh sự biến động của tiền tệ mà nó còn phản ánh sự biến
động của nhiều những nhân tố khác, đặc biệt là các nhân tố về cung cầu hàng
hoá, dịch vụ.
1.4.2. Điều kiện về địa điểm thanh toán:
Địa điểm thanh toán là các yếu tố thường gây ra tranh chấp cho cả hai
bên, và ai cũng muốn kéo về nước mình, hoặc càng gần càng tốt. Nếu thanh
toán tại địa phương, người bán sẽ không mất thời gian thu tiền từ nước ngoài,
người mua thì không bị đọng vốn. Cũng như điều kiện tiền tệ, việc lựa chọn nơi
thanh toán cũng tuỳ thuộc vào tương quan lực lượng của các bên tham gia, và
có thể thoả thuận chọn một địa điểm thứ ba. Nhưng thường thấy, nếu thoả
thuận dùng tiền bên nào thì thanh toán tại trụ sở của bên ấy.
1.4.3. Điều kiện thời gian thanh toán:

Thời gian là yếu tố rất co giãn trong kinh doanh và liên quan đến vốn,
lợi nhuận, rủi ro cho doanh nghiệp. Trong hoạt động mua bán, hai bên thoả
thuận đạt đến một trình tự thời gian cho việc thanh toán, thường là:
♦Trả trước:
Theo điều kiện này, người mua sẽ cấp một phần hoặc toàn bộ vốn cho
người bán. Đây là cách chỉ được áp dụng khi hai bên có quan hệ rất tín nhiệm,
hoặc quan hệ chi nhánh, đại lý với nhau.
Người mua lúc này sẽ phải trả tiền truớc khi nhận được hàng hoá, tức là
đã cấp tín dụng thương mại cho người bán.
♦ Trả sau:
Trả sau nghĩa là việc cấp tín dụng thương mại của người bán cho người
mua. Sau khi nhận hàng một khoảng thời gian nào đó, người mua mới phải trả
tiền. Khoảng thời gian này là lâu hay mau tuỳ thuộc thoả thuận của hai bên,
thường là hình thức “ gối đầu”, tức kì mua hàng sau mới thanh toán tiền nợ
của kì mua hàng trước.
Đây là trường hợp hay gặp nhất trong kinh doanh, vừa giúp người mua
nhận được hàng trước khi có tiền, vừa giúp người bán tiêu thụ hàng hoá
nhanh hơn, tạo lập quan hệ thân tín trong kinh doanh.
♦ Trả ngay:
Đây là hình thức mua bán mà ngay khi nhận được hàng hoá, người mua
phải tiến hành thanh toán cho người bán. Hình thức này thường chỉ áp dụng
cho việc mua bán nội địa, hoặc mua bán tiêu dùng, trao tay trực tiếp và quan
hệ bạn hàng khá hiếm gặp.
Tuy nhiên, trong việc thanh toán, không phải mỗi hợp đồng áp dụng chỉ
một cách thanh toán, trước, ngay hay sau, mà có thể hỗn hợp của cả ba cách
như trên, mục đích cuối cùng là đạt đến thoả mãn cho cả hai bên, chứ không hề
máy móc và cứng nhắc áp dụng một hình thức nào.
1.4.4. Điều kiện phương thức thanh toán
Đây là điều kiện quan trọng nhất trong mỗi hoạt động mua bán .Điều
kiện này cho biết người mua sẽ trả tiền cũng như người bán sẽ nhận tiền như

thế nào. Có rất nhiều phương thức để lựa chọn, mỗi phương thức gắn với một
trình độ, kĩ thuật, quy trình, chi phí và hiệu quả khác nhau. Một cách chung

×