Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.17 KB, 26 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHTM.
1.1 KHÁI NIỆM VỀ NHTM:
Tính cho đến thời điểm hiện nay, Ngân hàng thương mại đã được hình
thành và phát triển trong một thời gian tương đối dài của nền kinh tế. Hệ thống
Ngân hàng thương mại ra đời là kết quả của quá trình hình thành và phát triển
lâu dài của nên kinh tế hàng hoá, của quan hệ hàng hoá tiền tệ.
Ngân hàng được coi là một sản phẩm độc đáo của nền sản xuất hàng
hoá trong kinh tế thị trường, một động lực quan trọng cho sự phát triển của nền
sản xuất xã hội. Với vai trò như trên, ngân hàng không thể đứng ngoài hoạt
động của bất cứ quốc gia nào. Vì vậy, mỗi nước đều xây dựng những khung
pháp lý quy định, giới hạn hoạt động của ngân hàng. Mỗi nước khác nhau sẽ có
một khái niệm và mô hình tổ chức ngân hàng khác nhau. Tuy khái niệm về
NHTM ở mỗi nước có những điểm khác nhau nhưng đều thống nhất coi
NHTM là doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ và cung ứng những dịch vụ
tài chính cho nền kinh tế, là một trong số những tổ chức tài chính trung gian,
các tổ chức tài chính trung gian này được gọi là các định chế tài chính có chức
năng giống nhau là dẫn vốn từ nơi thừa vốn tới nơi thiếu vốn. Để đưa ra được
một khái niệm chính xác và tổng quát nhất về NHTM, người ta thường phải dựa
vào tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thị trường tài chính.
Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: “ngân hàng là những xí
nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuên nhận của công chúng dưới hình thức
ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào các nghiệp
vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Luật ngân hàng của Ấn Độ, năm 1959 bổ sung “ngân hàng là cơ sở nhận
các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ, đầu tư”.
Luật ngân hàng của Đan Mạch, năm 1930 “ Những nhà băng thiết yếu gồm
các nghiệp vụ nhận tiền ký thác, buôn bán vàng bạc, hành nghề thương mại và
các giá trị địa ốc, các phương tiện tín dụng và hối phiếu, thực hiện các nghiệp
vụ chuyển ngân...”.


Như vậy, mặc dù có nhiều cách thể hiện khác nhau về định nghĩa NHTM,
nó tuỳ thuộc vào tập quán pháp luật của từng quốc gia, từng vùng lãnh thổ
nhưng khi đi sâu phân tích, người ta dễ dàng nhận thấy rằng: Tất cả các NHTM
đều có chung một tính chất đó là việc nhận tiền ký thác - tiền gửi không kỳ hạn
và có kỳ hạn, để sử dụng vào các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu và các dịch vụ
kinh doanh khác của chính Ngân hàng.
Đối với bản thân Việt Nam, trong bước chuyển đổi sang kinh tế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu thì hệ thống ngân hàng
và các tổ chức tài chính ngày càng đóng vị trí quan trọng đối với sự hoạt động
và phát triển của nền kinh tế. Từ thực tiễn đó, để tăng cường quản lý, hướng dẫn
hoạt động các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển chung của nền kinh tế, đồng thời bảo vệ lợi ích hợp pháp của
các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động kinh doanh.
Theo pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính năm 1990
định nghĩa: “NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động thường xuyên
và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng
số tiền đó để cho vay thực hiện các nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện
thanh toán”.
Theo điều 20 Luật các Tổ chức tín dụng của Việt nam ban hành 02/
1997/QH 10: “ NHTM là loại hình tổ chức tín dụng được thưc hiện toàn bộ hoạt
động kinh doanh khác có liên quan”. Trong đó “Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán”.
Việt Nam, theo luật các tổ chức tín dụng, mỗi loại ngân hàng đều mang
những nét đặc trưng phù hợp với điều kiện của thời kỳ đầu chuyển đổi của nền
kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Cụ thể Việt Nam có các loại
hình ngân hàng sau:

 NHTM quốc doanh: là loại ngân hàng chiếm vị thế cao trong hệ thống
tổ chức tín dụng của nước ta. Hình thức sở hữu là doanh nghiệp Nhà nước,
thành lập, cấp vốn chịu sự quản lý cuả Nhà nước, hoạt động trong tất cả các lĩnh
vực ngắn hạn, trung hạn, dài hạn, đối với mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực
sản xuất lưu thông, xây dựng trong và ngoài nước. Hiện nay có 6 ngân hàng
quốc doanh là: Ngân hàng công thương, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng ngoại thương, Ngân
hàng người nghèo, Ngân hàng phát triển nhà ở Đồng bằng sông Cửu Long.
 NHTM cổ phần: là loại hình ngân hàng phải được thành lập theo luật
công ty cổ phần, thuộc sở hữu của các cổ đông, người góp vốn, trên cơ sở tự
nguyện của các cổ đông trong việc góp vốn và hoạt động theo luật pháp quy
định. Đây là loại hình Ngân hàng phổ biến nhất và đang có xu hướng phát triển
mạnh ở nước ta.
 Ngân hàng liên doanh: là loại hình ngân hàng được thành lập trên cơ
sở hợp đồng liên doanh, vốn điều lệ là vốn góp của ngân hàng Việt Nam và
ngân hàng nước ngoài có trụ sở chính tại Việt Nam, chịu sự điều chỉnh của pháp
luật Việt Nam.
 Chi nhánh ngân hàng liên doanh: là một bộ phận của ngân hàng
nước ngoài hoạt động tại Việt Nam chịu sự điều tiết của luật pháp Việt Nam.
 Ngân hàng đầu tư: là những ngân hàng tập trung huy động vốn trung,
dài hạn và đầu tư trung dài hạn vì sự phát triển, hoạt động đầu tư chủ yếu thông
qua các dự án.
 Ngân hàng chính sách: thông thường là những NHTM 100% vốn Nhà
nước hoặc NHTM cổ phần (sở hữu Nhà nước và các tổ chức kinh tế quốc
doanh) được thành lập để phục vụ một hoặc một số chính sách của Nhà nước,
nó hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, chênh lệch giữa chi phí huy động
vốn và sử dụng vốn sẽ được Nhà nước bù đắp.
 Ngân hàng hợp tác: là những tổ chức tín dụng thuộc sở hữu tập thể,
được các thành viên tự nguyện thành lập lên không phải vì mục tiêu lợi nhuận
mà vì mục tiêu tương trợ lẫn nhau về vốn và các dịch vụ ngân hàng. Nguyên tắc

thành lập và hoạt động của loại hình này là tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, tự
trang trải mọi chi phí và tự chịu trách nhiệm.
1.2.Đặc trưng hoạt động kinh doanh của NHTM.
Ngân hàng thương mại ra đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của hoạt động kinh
doanh tiền gửi. Từ chỗ chỉ đơn thuần làm dịch vụ nhận tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ
bảo quản tiền gửi cho chủ sở hữu và sau đó là nhận được các khoản thù lao dưới dạng hoa
hồng, hoạt động của nó giống như một tiệm cầm đồ. Cho đến nay, NHTM đã trở thành một
chủ thể kinh doanh tiền gửi, nghĩa là NHTM vừa tiến hành huy động tiền gửi ( không những
miễn bỏ những khoản phí, các khoản thù lao mà còn trả thêm tiền dưới dạng trả lãi tiền gửi cho
khách hàng gửi tiền) vừa sử dụng các khoản tiền huy động đó làm vốn cho vay, vốn đầu tư
nhằm tối đa hoá các khoản lợi nhuận thu được .
Trong khi thực hiện vai trò trung gian tài chính, đảm trách việc chuyển vốn
nhàn rỗi từ dân cư, từ người cho vay sang người đi vay, các NHTM đã tự tạo ra
những công cụ tài chính thay thế cho tiền mặt làm phương tiện thanh toán, trong
đó điển hình là tài khoản tiền gửi không kỳ hạn thanh toán bằng séc, đây là công
cụ chủ yếu để tiền vận động qua ngân hàng và là cơ sở để NHTM tạo ra số nhân
tiền gửi. Do đó hoạt động của NHTM gắn bó mật thiết với hoạt động lưu thông
tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước cũng như hoạt động thanh toán quốc
tế.
Ngày nay, NHTM và cơ cấu hoạt động của nó đã và đang chiếm giữ vai trò
quan trọng trong thể chế tài chính của mỗi nước, là công cụ điều tiết vĩ mô nền
kinh tế không thể thiếu của nhà nước. Hơn nữa hoạt động của NHTM ngày càng
đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, có thể nói Ngân hàng đã đi sâu vào
tận nhưng ngõ ngách của nền kinh tế và đời sống con người, trong khi đó các tổ
chức tài chính khác thường hoạt động trên phạm vi hẹp và theo hướng chuyên
sâu.
1.3. Các hoạt động cơ bản của NHTM.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, thông qua các nghiệp vụ của mình
nhằm điều hoà, cung cấp vốn cho hoạt động của cả nền kinh tế. Với trình độ
phát triển của khoa học hiện đại hiện nay, hoạt động của ngân hàng đã ngày

càng trở nên phong phú hơn song ngân hàng vẫn luôn duy trì 3 mảng nghiệp vụ
cơ bản đó là: Nghiệp vụ tài sản nợ (nghiệp vụ huy động vốn); nghiệp vụ tài sản
có (nghiệp vụ cho vay) và nghiệp vụ cung ứng dịch vụ Ngân hàng như: dịch vụ
tư vấn, thanh toán hộ, giữ hộ... Ba nghiệp vụ này có quan hệ mật thiết, tác động
hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển, tạo nên uy tín và thế mạnh cạnh tranh cho
các NHTM, các nghiệp vụ này đan xem lẫn nhau trong quá trình hoạt động của
Ngân hàng, tạo nên một chỉnh thể thống nhất trong quá trình hoạt động kinh
doanh của NHTM.
1.3.1. Nghiệp vụ huy động vốn.
Đây là nghiệp vụ cơ bản, đầu tiên quan trọng nhất của một ngân hàng. Vốn
được ngân hàng huy động dưới nhiều hình thức khác nhau và sử dụng (sau khi
đảm bảo một tỷ lệ dự trữ bắt buộc) với trách nhiệm hoàn trả gốc và lãi. Nguồn
vốn của NHTM gồm vốn tự có (vốn chủ sở hữu), vốn vay, vốn khác. Nghiệp vụ
này phản ánh quá trình hình thành vốn cho hoạt động kinh doanh của NHTM,
cụ thể bao gồm các nghiệp vụ huy động vốn sau:
 Vốn tự có của ngân hàng: là nguồn vốn thuộc sở hữu của riêng các
NHTM. Thực tế nguồn vốn này không ngừng tăng lên từ kết quả động kinh
doanh của bản thân NHTM, nó đóng góp một phần đáng kể vào hoạt động kinh
doanh cuả các NHTM. Vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn
vốn của ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi ngân hàng bắt đầu
được thành lập. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn chủ sở hữu mà ngân
hàng thường sử dụng nó vào các mục đích khác nhau như: xây dựng cơ sở hạ
tầng, mua sắm máy móc trang, thiết bị … phục vụ cho bản thân ngân hàng, cho
vay và tham gia đầu tư góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ,
vốn chủ sở hữu được coi là tài sản đảm bảo, gây lòng tin với khách hàng, duy trì
khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp
thua lỗ. Vốn chủ sở hữu bao gồm :
Vốn hình thành ban đầu: gồm có vốn pháp định và vốn điều lệ. Theo quyết
định số 327/QĐ- NH5 ban hành ngay 04/10/1997 của thống đốc Ngân hàng nhà
nước Việt Nam thì: “ vốn điều lệ của NHTM là mức vốn tối thiểu phải có để

thành lập ngân hàng”, còn “ vốn điều lệ của NHTM là vốn do các cổ đông đóng
góp và được ghi vào điều lệ hoạt động của ngân hàng”. Cũng theo quy định nay,
để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của nền kinh tế thị trường cũng như tạo điều
kiện thuận lợi cho các ngân hàng hoạt động kinh doanh thì vốn điều lệ của ngân
hàng luôn lớn hơn hoặc bằng vốn pháp định và có thể được hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu, ví dụ: Đối với các ngân hàng
cổ phần, vốn điều lệ là vốn do các cổ đông đóng góp dưới hình thức mua cổ
phiếu, còn đối với các ngân hàng quốc doanh, vốn điều lệ là vốn ban đầu do
ngân sách cấp…
Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động, ngân
hàng gia tăng vốn chủ sở hữu từ nguồn lợi nhuận, từ phát hành cổ phần, góp
thêm, cấp thêm hoặc từ các khoản vay trung và dài hạn có khả năng chuyển đổi
thành vốn cổ phần. Nói chung vốn bổ sung này không thường xuyên, phụ thuộc
vào kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng hoặc vào từng điều kiện câp
thiết.
Nghiệp vụ tiền gửi: phản ánh các khoản tiền gửi từ các doanh nghiệp, các
tổ chức kinh tế vào để thanh toán hoặc nhằm mục đích bảo quản tài sản qua đó
NHTM có thể huy động được. Ngoài ra NHTM cũng có thể huy động các khoản
tiền nhàn rỗi của cá nhân hay các hộ gia đình được gửi vào ngân hàng với mục
đích bảo quản hoặc hưởng lãi trên số tiền gửi. Tiền gửi của khách hàng là nguồn
tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Thông thường nguồn
vốn này chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng.
Nghiệp vụ phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM phần lớn sử dụng
nghiệp vụ này để thu hút các khoản vốn có tính thời hạn tương đối dài và ổn
định, nhằm đảm bảo khả năng đầu tư, khả năng cung cấp đủ các khoản tín dụng
mang tính trung và dài hạn vào nền kinh tế. Hơn nữa, nghiệp vụ này còn giúp
các NHTM giảm thiểu rủi ro và tăng cường tính ổn định vốn trong hoạt động
kinh doanh của mình. Đây là một trong những giải pháp hữu hiệu giúp ngân
hàng huy động được khối lượng vốn lớn một cách nhanh chóng và chi phí thấp.
Nghiệp vụ vay tiền: Đây là vốn được hình thành trên quan hệ vay mượn

giữa Ngân hàng thương mại với ngân hàng trung ương hoặc các tổ chức tín
dụng khác dưới các hình thức tái chiết khấu, vay có bảo đảm... Nguốn vốn này
thường được sử dụng khi ngân hàng đã sử dụng hết lượng vốn khả dụng mà vẫn
không đủ hoạt động kinh doanh. Thông thường NHTM sẽ ưu tiên việc vay từ
các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế trước, sau đó mới đến vay ngân hàng
trung ương.
Nghiệp vụ huy động vốn khác: ngoài ba nghiệp vụ huy động vốn cơ bản
kể trên, NHTM còn có thể tạo vốn kinh doanh cho mình thông qua việc nhận
làm đại lý hay uỷ thác vốn cho các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Đây là
khoản vốn huy động không thường xuyên của NHTM, huy động theo phương
thức này đòi hỏi cần phải có thời gian và các phương phù hợp với từng đối
tượng và các khoản vay.
1.3.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, là cầu nối thực hiện việc luân
chuyển vốn từ nơi thừa đền nơi thiếu vốn. Đây là nghiệp vụ phản ánh quá trình
sử dụng vốn của NHTM vào các mục đích khác nhau nhằm đảm bảo an toàn
kinh doanh cũng như tìm kiếm lợi nhuận của ngân hàng. Bao gồm các nghiệp
vụ sau:
Một là,Nghiệp vụ cho vay: Đây có thể nói là nghiệp vụ quan trọng bậc
nhất trong hoạt động quản lý tài sản có của NHTM. Cho vay là hoạt động chủ
yếu của NHTM nhằm tài trợ về vốn cho các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức
trong nền kinh tế. ĐốI với hầu hết các ngân hàng, nghiệp vụ này đóng góp phần
lớn lợi nhuận trong quá trình hoạt động kinh doanh của các ngân hàng nó chiếm
tớI 60%-70% thu nhập của ngân hàng đem lại. Thông qua nghiệp vụ này mà
Ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng ngắn, trung và dài hạn cho các thành
phần trong nền kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Các loại cho vay có thể
phân loại bằng nhiều cách, bao gồm: mục đích, hình thức bảo đảm, kỳ hạn,
nguồn gốc và phương pháp hoàn trả...
Theo mục đích việc cho vay bao gồm: cho vay đầu tư, cho vay nông
nghiệp, cho vay thương mạI, cho vay thuê bất động sản…

Theo kỳ hạn: ngân hàng cung cấp các loại cho vay ngắn hạn (loại cho vay
này nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán tạm thời, tiêu dùng và đầu tư ngắn hạn,
thời hạn dưới 1 năm); cho vay trung và dài hạn (loại cho vay này phục vụ mục
tiêu đầu tư trung và dài hạn của khách hàng, thời hạn thường trên 1 năm).
Theo hình thức bảo đảm, khoản mục cho vay sẽ bao gồm: cho vay có bảo
đảm và cho vay không có bảo đảm.
Theo phương pháp hoàn trả, khoản mục cho vay sẽ bao gồm: cho vay
trả góp, cho vay phí trả góp, cho vay hoàn trả theo yêu cầu.
Hai là, nghiệp vụ đầu tư: Bên cạnh hoạt động cho vay, NHTM còn sử
dụng vốn để đầu tư vào các hoạt động kinh tế xã hội nhằm thúc đẩy sự phát
triển của các thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân và nhằm thu lại
được lợi nhuận từ chính những hoạt động đầu tư đó. Hoạt động đầu tư của
NHTM bao gồm một số hoạt động sau:
Đầu tư vào kinh doanh mua bán chứng khoán: Mua tín phiếu kho bạc và
trái phiếu chính phủ, mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và các lại chứng
khoán khác trên thị trường chứng khoán.
Góp vốn mua cổ phần của các tổ chức kinh tế, NHTM khác để hưởng thu
nhập hàng năm. Do tính không chắc chắn về khả năng hoàn trả và lợi tức cũng
như tính lỏng kếm của nó nên loại chưng khoán này ít được các NHTM quan
tâm. Các ngân hàng lớn có thể tham gia vào việc thanh lập doanh nghiệp. việc
tham gia dự vốn vào doanh nghiệp sẽ giúp cho các ngân hàng nắm bắt được tình
hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và qua đó thực hiện các nghiệp vụ
tín dụng an toàn.
Hiện nay, các công cụ đầu tư trên thị trường tài chính ngày càng đa dạng,
cùng vớ sự phát triển của thị trường tài chính quốc tế, trong điều kiện thị trường
tài chính phát triển như vậy, hoạt động đầu tư của các NHTM cũng trở nên ngày
càng đa dạng hơn.
Đầu tư vào trang thiết bị TSCĐ phục vụ cho hoạt động kinh doanh của
ngân hàng.
Ba là nghiệp vụ ngân quỹ: Lợi nhuận luôn là mục tiêu hàng đầu của các

chủ thể kinh tế khi tham gia hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân
.Tuy nhiên,Hoạt động kinh doanh phát triển lợI nhuận cao phải đi đôi vớI sự
bền vững . Một trong những nhân tố đó là tính an toàn. Nghề ngân hàng là một
nghề kinh doanh mạo hiểm và luôn chứa đựng rất nhiều yếu tố rủi ro. Vì vậy,
ngoài việc cho vay và đầu tư để thu được lợi nhuận, ngân hàng còn phải sử dụng
một phần nguồn vốn huy động được để đảm bảo an toàn về khả năng thanh toán
và thực hiện các quy định về dự trữ bắt buộc do Trung ương đề ra.
1.3.3. Nghiệp vụ kinh doanh khác của NHTM.
Ngoài các nghiệp vụ cơ bản được nêu trên, trong hoạt động kinh doanh,
các NHTM còn tiến hành các hoạt động kinh doanh khác trên thị trường. Là
trung gian tài chính, ngân hàng có rất nhiều các lợi thế. Một trong những lợi thế
đó là hình thức ngân hàng đóng vai trò trung gian tiến hành các hoạt động thanh
toán cho khách hàng thông qua các hình thức như:
Hoạt động mua bán ngoại tệ: Đây là hoạt động mua hoặc bán ngoại tệ này
để lấy một loại ngoại tệ khác và hưởng phí dịch vụ. Ngày nay, cùng với sự phát
triển các công cụ tài chính, hoạt động mua bán ngoại tệ ngày càng sôi động hơn
bằng các công cụ như quyền chọn, swap…
Dịch vụ chuyển tiền và thanh toánh hộ: NHTM nhận sự uỷ thác của
khách hàng yêu cầu để chuyển một số tiền nhất định cho người khác ở địa điểm
quy định trong hay ngoài nước.
Dịch vụ thu hộ : NHTM nhận uỷ thác của khách hàng để thụ hộ các
khoán tiền căn cứ vào các chứng từ của khách hàng giao như: séc, thương
phiếu, chứng khoán…Ngoài khoản phí thu được từ dịch vụ này, NHTM còn
tranh thủ tận dụng được nguồn vốn của khách hàng .
Ngoài các hoạt động cơ bản đã được nêu trên, trong hoạt động kinh doanh,
các NHTM còn tiến hành các hoạt động kinh doanh khác trên thị trường như:
thực hiện dịch vụ tư vấn, dịch vụ nhân quỹ, bảo lãnh, cho thuê thiết bị trung và
dài hạn, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm…và hàng loạt những dịch vụ lien quan
đến hoạt động ngân hàng: dịch vụ bảo quản giấy tờ có giá, dịch vụ cho thuê két
sắt…Cùng với sự phát triển kinh tế, hệ thống các ngân hàng ngày càng được đa

dạng về các loại hình dịch vụ và chất lượng dịch vụ ngày càng được nâng cao.
2. Hoạt động huy động vốn tại ngân hàng thương mại.
2.1 Vốn và sự cần thiết của nguồn đối với hoạt động kinh doanh của
NHTM
2.1.1 Khái niệm.
Khi nói đến thuật ngữ “Trung gian tài chính” người ta thường hay nghĩ tới
hai loại hình tổ chức cơ bản đó là: các tổ chức nhận tiền gửi (bao gồm các Ngân
hàng thương mại, các hiệp hội tiết kiệm và cho vay) và các trung gian đầu tư
(bao gồm các công ty tài chính, các quỹ tương trợ, các công ty bảo hiểm....).
Nhưng cho dù có được hiểu thế nào đi chăng nữa thì NHTM, xét về khối lượng
tài sản cũng như những đóng góp đối với nền kinh tế, vẫn luôn giữ một vai trò
quan trọng. Các NHTM có thể được tổ chức theo nhiều loại hình khác nhau,
chẳng hạn như Ngân hàng tư nhân, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng quốc doanh
và các ngân hàng liên doanh. Dưới bất kỳ hình thức nào, các NHTM vẫn luôn
đặt mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận lên hàng đầu và để làm được điều đó, công cụ
duy nhất mà các Ngân hàng phải có đó là vốn.

×