NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG NỀN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG
VIỆC THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
1.1. Kinh tế thị trường và đói nghèo trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường là hình thức thể hiện trình độ phát triển cao của nền
kinh tế hàng hoá. Các quan hệ hàng hoá - tiền tệ mở rộng và bao quát mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế, phạm trù giá trị mang ý nghĩa phổ biến.
Ngày nay, tuy còn nhiều ý kiến khác nhau, nhưng những nhà kinh tế đã
thống nhất với nhau rằng “ kinh tế thị trường là nền kinh tế vận động theo cơ
chế thị trường”. Đến lượt nó, cơ chế thị trường là một cơ chế trong đó tổng thể
các nhân tố, các quan hệ cơ bản tự do vận động dưới hình thức chi phối của
qui luật thị trường, trong môi trường cạnh tranh nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Nhân tố cốt lõi của cơ chế này là (bộ máy) cung cầu và gía cả thị trường.
“ Thị trường là một quá trình mà người mua và người bán tác động qua
lại lẫn nhau, để xây dựng giá cả và số lượng. Hay, thị trường là nơi gặp gỡ
giữa cung và cầu” và người ta phân chia thị trường thành 2 loai: Thị trường
các yếu tố sản xuất như: lao động, đất đai, vốn. Vì đây là nhân tố đầu vào của
quá trình sản xuất nên gọi là thị trường “ đầu vào”. Bên cạnh thị trường đầu
vào là thị trường mua bán những kết quả do quá trình sản xuất tạo ra. Đây là
thị trường hàng hoá tiêu dùng và dịch vụ hay gọi là Thị trường “đầu ra”.
Hai thị trường này, tách rời nhau, nhưng chúng lại nối liền nhau thông
qua hộ kinh doanh và hộ gia đình. Hộ doanh nghiệp là hộ sản xuất hàng hoá để
bán ra trên thị trường đầu ra. Vì vậy trên thị trường này hộ sản xuất là sức
cung để có các yếu tố để sản xuất hàng hoá đầu ra, hộ doanh nghiệp mua
chúng trên thị trường yếu tố sản xuất. Vì vậy trên thị trường này hộ doanh
nghiệp là sức cầu.
Ngược lại hộ gia đình là người mua hàng hoá tiêu dùngvà dịch vụ. Vì
vậy trên thị trường này hộ tiêu dùng là sức cầu. Nhưng để có tiền để mua hàng
hóa dịch vụ, hộ tiêu dùng phải bán hoặc lao động (nếu anh ta là người công
nhân), đất đai (nếu là chủ đất), vốn (nếu là chủ sở hữu vốn). Vì vậy thị trường
yếu tố sản xuất, hộ gia đình là biểu hiện sức cung.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang phát triển nền kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng văn minh, nên chính sách xã hội có vị trí hết sức quan trọng. Hơn nữa do
trình độ kinh tế còn kém phát triển và không đồng đều, hậu quả chiến tranh
nặng nề và dai dẳng nên nhiều vùng, nhiều gia đình còn khó khăn, trong khi
một số vùng và dân cư giàu lên nhanh chóng. Vì vậy phải quan tâm đến việc
thiết lập công bằng xã hội trong từng bước phát triển, khuyến khích làm giàu
hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo. Thực hiện chính sách xã hội trong nền
kinh tế thị trường không phải là bao cấp, ban ơn hoặc cào bằng, bình quân, mà
trước hết phải thực hiện chính sách hợp lý, lấy phân phối theo lao động và hiệu
quả kinh tế làm nguyên tắc chủ yếu, đi đôi với việc phân phối tư liệu sản xuất,
tạo công ăn việc làm, chăm lo y tế, giáo dục, chăm sóc giúp đỡ người gặp hoàn
cảnh khó khăn, bài trừ triệt đề và có kết quả tệ tham nhũng, buôn lâu, kinh
doanh trái pháp luật .
1..1.2 Khái niệm nghèo đói
1.1.1.2. khái niệm về nghèo.
Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư thiếu ăn nhưng không đứt
bữa; mặc thì không lành và không đủ ấm; ở nhà rách nát và không có đủ khả
năng sản xuất.
Một cách hiểu khác: Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức
sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng quy định còn tuỳ
thuộc vào đặc điểm của từng địa phương, từng thời kỳ tức là tuỳ thuộc vào
từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương và của cả quốc
gia.
Tuỳ nhiên nghèo còn được phân chia thành các mức khác nhau. Cụ thể là
nghèo tuyệt đối và nghèo tương đối.
- Nghèo tuyệt đối:
Nghèo tuyệt đối là tình trạng của một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo
không dủ khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống: ăn, mặc, ở.
- Nghèo tương đối:
Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo
có mức sống dưới mức trung bình của cộng đồng và từng địa phương đang
sinh sống.
1.1.2.2. khái niệm về đói.
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống cực thấp, dưới
mức tối thiểu của nhu cầu: cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, thậm chí
không có nhà ở, không hàm lượng Calo cung cấp cho hàng ngày (khoảng 1500
- 2000 Calo/người/ngày).
Ngoài ra còn mức đói dưới mức bình thường tức là đói gay gắt, đó là
tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu của nhu
cầu, không đủ ăn đủ mặc, chịu đứt bữa và hàm lượng Calo cung cấp cho một
người trong một ngày là rất thấp (dưới mức 1500 Calo).
1.1..3. Các tiêu thức đánh giá về đói nghèo.
1.1.3.1. Nghèo đói theo đánh giá của Bộ Lao động Thương binh -
Xã hội và Tổng cục thống kê.
Bộ Lao động Thương binh - Xã hội và Tổng cục thống kê căn cư vào nhu
cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm và quy đổi ra thu nhập đã đưa ra cách
phân loại giàu nghèo như sau:
- Hộ đói: 45.000 đồng / người / tháng.
- Hộ nghèo:
+ Vùng miền núi, hải đảo: là hộ có mức thu nhập bình quân dưới
55.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng nông thôn đông bằng: là hộ có thu nhập bình quân dưới
70.000 đồng/người/tháng.
+ Vùng thành thị: là hộ có thu nhập bình quân dưới 90.000
đồng/người/tháng.
1.1.3.2. Tiêu thức đánh giá nghèo đói của Thành phố Hà Nội.
Căn cứ vào chuẩn mực hộ đói nghèo đã được thống nhất áp dụng trong
phạm vi toàn quốc do Bộ Lao động Thương binh - Xã hội. Nhưng Thành phố Hà
Nội đã xác định chuẩn mực hộ đói nghèo dựa vào mức thu nhập đầu người
trên tháng, cụ thể có như sau:
- Chuẩn nghèo của Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 1994-2000 như
sau:
+ Hộ nghèo khu vực Nội thành: là hộ có thu nhập bình quân
dưới: 100.000 đồng/người/tháng.
+ Hộ nghèo khu vực Ngoại thành: là hộ có thu nhập bình
quân dưới: 80.000 đồng/ngươi/tháng.
- Chuẩn nghèo của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2005 nhu sau:
+ Hộ nghèo khu vực Thành thị (xã,phường,thị trấn) là hộ có
thu nhập bình quân dưới: 170.000 đồng/người/tháng.
+ Hộ nghèo khu vực nông thôn (xã) là hộ có thu nhập bình
quân dưới: 130.000 đồng/người/tháng.
BẢNG SỐ 1: PHÂN LOẠI HỘ ĐÓI NGHÈO THEO TIÊU CHUẨN CỦA
SỞ LAO ĐỘNG THƯƠNG BINH- XÃ HỘI HÀ NỘI.
Nhóm Nội thành Ngoại thành
Nhóm 1 Dưới 100.000 Dưới 80.000 đồng/người/tháng
Nhóm 2
Nhóm 3
đồng/người/tháng
Dưới 130.000
đồng/ngươi/tháng
Dưới 170.000
đồng/người/tháng
Dưới 80.000-
100.000đ/người/tháng
Dưới 100.000-
130.000đ/người/tháng
(Nguồn Sở Lao động Thương binh-Xã hội Hà Nội)
1.2. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèo ở Việt Nam
trong giai đoạn hiện này.
1.2.1. Sự cần thiết của công tác xoá đói giảm nghèovà quan điểm
của Đảng và Nhà nước về vấn đề xoá đói giai nghèo.
1.2.1.1. Sự cần thiết phải xoá đói giai nghèo đối với Việt Nam.
Đói nghèo là vấn đề mang tính toàn cầu chứ không chỉ riêng Việt Nam.
Bất kỳ quốc gia nào trên thế giới dù giàu hay nghèo, dù phát triển hay không
phát triển thì cũng luôn luôn tồn tại một số bộ phận dân cư nghèo đói, do đó họ
luôn cố gắng giải quyết vấn đề nghèo đói để phát triển kinh tế. Đối với Liên
Hiệp Quốc thì một trong những mục tiêu quan trọng nhất trong lĩnh vực phát
triển kinh tế - xã hội này là vấn đề xoá đói giảm nghèo và Liên Hiệp Quốc đã lấy
năm 1996 là năm nghèo đói để làm mốc thực hiện chương trình xoá đói giảm
nghèo trên phạm vi toàn cầu.
Còn đối với Việt Nam, ngay từ khi thành lập nước (1945) Việt Nam đã
coi nghèo đói là một trong ba thứ giặc (giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm),
đòi hỏi phải tìm mọi cách để hạn chế và tiêu diệt chúng. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ “ Thắng nghèo nàn lạc hậu còn khó khăn hơn thắng giặc ngoại xâm”
Như trên đã đề cập, xoá đói giảm nghèo là một bộ phận trong chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội. Nó có tác động đến nhiều mặt của đời sống kinh tế -
xã hội như tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội, giữ vững
an ninh trật tự, ổn định chính trị và có tác động tích cực đến một số chính sách
khác. Mặt khác, xoá đói giảm nghèo là để thực hiện công bằng xã hội mà là
mục tiêu lớn nhất của Đảng và Nhà nước Việt Nam là: Dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng văn minh. Vì vậy xoá đói giảm nghèo là cực kỳ cần thiết với
Việt Nam, muốn đi lên chủ nghĩa xã hội thì bước đầu phải xoá đói giảm nghèo.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng cũng đã xác
định Xoá đói giảm nghèo là một trong 11 chương trình phát triển kinh tế của
Việt Nam. Văn kiện của Đại hội Đảng chỉ rõ: “ Khuyến khích làm giàu một cách
hợp lý đi đôi với tích cực xoá đói giảm nghèo để thu hẹp dần khoảng cách phát
triển về trình độ, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân
cư...” và “ Thực hiện công tác xoá đói giảm nghèo phải có cơ chế chính sách cho
hộ nghèo, xã nghèo, vùng nghèo”
Để thực hiện mục tiêu cao cả đó, Nhà nước đã ban hành một hệ thống
các văn bản chính sách tập trung hỗ trợ những người đang bị đoí nghèo vươn
lên bằng sức lực và trí tuệ của chính mình để thoát khởi cảnh nghèo khổ, hoà
nhập vào với cộng đồng. Mỗi vấn đề xã hội bao giờ cũng chứa đựng trong đó
nội dung kinh tế, nguồn gốc và nguyên nhân kinh tế. Nếu tách rời kinh tế và xã
hội thì cả vấn đề kinh tế lẫn xã hội đều kkhông thể giải quyết được hoặc không
thể triệt đề vững chắc. Mặt khác trong nền kinh tế thị trường, phân hoá giàu
nghèo không chỉ là phân hoá về thu nhập, tài sản và mức sống còn kém theo
phân hoá xã hội như học vấn, lỗi sống, quan hệ xã hội, tệ nạn xã hội.
Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trường lấy việc phát triển con người là
nhân tố cơ bản cho sự phát triển bền vững về kinh tế - xã hội, đặt con người
vào vị trí trung tâm, khơi dậy mọi tiềm năng cá nhân và cả cộng đồng dân tộc
kết hợp giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá xã hội, coi phát triển
kinh tế là cơ sở, là tiền đề thưc hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách
xã hội vừa là động lực vừa tạo được sự ổn định về chính trị xã hội, là cơ sở cho
việc tăng trưởng kinh tế bền vững. Ngoài ra Đại hội còn nhấn mạnh “ Tăng
trưởng kinh tế phải gắn liên với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển kinh tế”.
Vì vậy xóa đói giảm nghèo tuy nổi trội trước hết ở trong lĩnh vực kinh tế,
ở lĩnh vực chỉ đạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống xã hội, song còn
liên quan tới tất cả các giải pháp xã hội nhằm điều chỉnh khắp phúc sự bất
bình đẳng xã hội, sự suy giảm ở các lĩnh vực: Giáo dục, văn hoá, ngăn chặn xu
hướng bần cùng hoá người nghèo, tạo sự ổn định xã hội. Nếu chỉ thấy kinh tế
và các giải pháp kinh tế như cứu cánh mà xem nhẹ hoặc bỏ quên vấn đề xã hội,
các chính sách xã hội thì việc xoá đói giảm nghèo sẽ rơi vào tình trạng phiến
diện hoặc rơi vào chủ quan duy ý chí, giải quyết các vấn đề xã hội thoát lý hiện
thực kinh tế.
Từ những đặc điểm trên có thể kết luận rằng xoá đói giảm nghèo là mục
tiêu quan trọng chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trước mắt và
lâu dài. Ngoại việc áp dụng chính sách kinh tế cần phải chú trọng đến chính
sách xã hội đặc biệt là chính sách về giáo dục, y tế, việc làm... đối với người
nghèo. Việc thực hiện xoá đói giảm nghèo phải lồng ghép các chương trình
quốc gia và các chương trình dự án có nội dung gắn với xoá đói giảm nghèo
trong đó lấy chương trình quốc gia về giải quyết việc làm, chương 327 và đầu
tư cơ sở hạ tầng, vay vốn tín dụng... là nòng cốt cho việc xây dựng kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội nói chung, ở các cấp, các ngành cần phải đóng góp
một phần tích cực và phong trào giúp đỡ, hỗ trợ người nghèo.
1.2.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xoá đói
giảm nghèo.
Nghị quyết TW 5 (khoá VIII) của Đảng chỉ rõ: “ Tăng diện giàu và có đủ
ăn, xoá đói, giảm nghèo, nhất là ở các vùng cao, vùng đồng bao dân tộc thiểu
số,vùng sâu, vùng xa, vùng trước đây là căn cứ cách mạng; Đó chính là chủ
trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về xoá đói giảm nghèo.
Thực hiện quan điểm, chủ trương đó của Đảng và Nhà nước, phong trào, xoá