Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỊ XÃ BẮC GIANG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.7 KB, 48 trang )

THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT
TRIỂN NÔNG THÔN THỊ XÃ BẮC GIANG
I. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU
TƯ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỊ XÃ
BẮC GIANG.
1.1. Nhân tố khách quan.
1.1.1 Môi trường pháp luật.
Các văn bản pháp luật là yếu tố trực tiếp định hướng và ảnh hưởng đến
công tác thẩm định. Các văn bản pháp luật liên quan đến công tác thẩm định
các dự án đầu tư trong nước cũng như nước ngoài đã được quy định cụ thể và
gần đây đã được bổ sung sửa đổi để ngày càng phù hợp và cập nhật hơn với
thực tế hiện nay. Những tiến bộ hay những mặt còn hạn chế của các văn bản
pháp luật chính là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của công tác
thẩm định cũng như việc ra quyết định đầu tư.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang cần có
những trao đổi trực tiếp với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
tỉnh Bắc Giang để có những điểu chỉnh và bổ sung hợp lý đối với những văn
bản pháp luật về thẩm định dự án đầu tư,để có những quy định thực sự chặt
chẽ phù hợp với đặc thù của địa bàn tỉnh Bắc Giang.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi nhưng có một môi trường pháp luật ưu
đãi và khuyến khích đầu tư rất thông thoáng tạo rất nhiều điều kiện thuận lợi
cho các dự án đầu tư dẫn đến thuận lợi rất lớn cho hoạt động thẩm định dự án
đầu tư tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang.
Tuy nhiên, một số cá nhân doanh nghiệp được hưởng ưu đãi thường có ý thức
trông chờ ỷ lại vào ưu đãi đầu tư của nhà nước dẫn đến hoạt động kinh doanh
thua lỗ không có khả năng hoàn vốn và trả lãi cho ngân hàng. Vì thế đối với
những dự án có ưu đãi, cán bộ thẩm định cần quan tâm và giám sát sắt sao và
có ý kiến ngay nếu trong công việc thực hiện ưu đãi chủ dự án có thái độ lơ là.
Tóm lại môi trường pháp luật là một nhân tố khách quan tác động nhiều
đến thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn thị xã Bắc Giang. Vậy kính mong các ban ngành có thẩm quyền có những


điều chỉnh chặt chẽ và phù hợp hơn để hoạt động thẩm định dự án đầu tư tại
Ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn thị xã Bắc Giang đạt kết quả cao hơn nữa.
1.1.2. Môi trường kinh tế - xã hội.
Thị xã Bắc Giang vẫn là một thị xã miền núi nghèo chậm phát triển, đang
trong giai đoạn nỗ lực phấn đấu xây dựng cơ sở vật chất cho hoàn thiện, nâng
cấp thành phố Bắc Giang, nhưng vốn nội lực còn nghèo, trong khi đó nhu cầu
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của dân cư lớn. Đây là một trong những thách
thức đối với Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang
trong việc huy động vốn tại địa phương để đầu tư.
Tình hình kinh tế có những diễn biến phức tạp: giá vàng và giá bất động
sản tăng cao đột biến, thói quen giao dịch bằng tiền mặt đã tác động không
nhỏ đến tâm lý người gửi tiền, nhiều khách hàng có tiền gửi lớn đã chuyển
sang đầu tư vào bất động sản hoặc các loại đầu tư khác có lãi suất cao hơn.
Địa bàn hoạt động của chi nhánh hẹp, chỉ có ở địa bàn thị xã Bắc Giang.
Các dự án nhỏ, lẻ chỉ duy nhất có một dự án cho vay dây chuyền sản xuất
gạch Tân Xuyên là có tổng vốn đầu tư lớn trên một tỷ đồng, các dự án còn lại
chỉ vài trăm triệu đến 1 tỷ đồng.
Vốn thiếu nhưng thiếu dự án có tính khả thi cao.
Đầu tư chủ yếu là các thiết bị thi công
Hoạt động ở một tỉnh miền núi có nền kinh tế chậm phát triển, trình độ
dân trí thấp song chi nhánh ngân hàng Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn thị xã Bắc Giang không ngừng đúc rút những kinh nghiệm từ công
tác thực tiễn nên qua các năm đã đạt được kết quả như sau.
1.2. Nhân tố chủ quan.
1.2.1. Phương pháp thẩm định.
Dự án đầu tư sẽ được thẩm định đầy đủ và chính xác khi có phương pháp
thẩm định khoa học kết hợp với các kinh nghiệm quản lý thực tiễn và các
nguồn thông tin đáng tin cậy. Việc thẩm định dự án có thể tiến hành theo nhiều
phương pháp khác nhau tuỳ thuộc vào từng nội dung của dự án cần xem xét.

Việc lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp đối với từng dự án là một yếu
tố quan trọng nâng cao chất lượng thẩm định. Các phương pháp thường được
sử dụng đó là phương pháp so sánh, phương pháp thẩm định theo trình tự,
phương pháp phân tích độ nhạy của dự án. Tuy nhiên phương pháp chung để
thẩm định là so sánh, đối chiếu nội dung dự án với các chuẩn mực đã được quy
định bởi pháp luật và các tiêu chuẩn kinh tế kỹ thuật thích hợp hoặc thông lệ
(quốc tế, trong nước) cũng như các kinh nghiệm thực tế.
Để hoàn thiện nhiệm vụ thẩm định về mặt chuyên môn như đã nói ở trên
(đảm bảo không đầu tư dự án tồi và không bỏ sót các dự án tốt), công tác
thẩm định phải thực hiện 2 nhiệm vụ cụ thể sau:
-Xem xét, kiểm tra :Nhằm xác định tính đúng đắn của dự án so với các quy
định của pháp luật, các chuẩn mực về kinh tế, kỹ thuật.
- Đánh giá : Nhằm xác định mức độ khả thi của dự án (tốt, tồi) đến mức
nào để xếp thứ bậc, lựa chọn.
Thực hiện các nhiệm vụ nói trên, trong thẩm định dự án cần có các
phương pháp thích hợp. Việc lựa chọn phương pháp thẩm định tác động rất
nhiều đến hoạt động thẩm định dự án đầu tư.
Phương pháp chung để thẩm định, đánh giá là so sánh, đối chiếu nội dung
dự án với các chuẩn mực đă được quy định bởi luật pháp và các tiêu chuẩn
kinh tế kỹ thuật thích hợp hoặc thông lệ (quốc tế, trong nước) cũng như các
kinh nghiệm thực tế.
Đối chiếu các nội dung thẩm định nêu trên có một số nội dung thẩm định
bằng cách đối chiếu so sánh với luật pháp, chính sách ( những vấn đề thuộc về
pháp lý, nghĩa vụ tài chính, đền bù giải phóng mặt bằng,…); một số nội dung
phải so sánh với các tiêu chuẩn quy phạm (sử dụng đất đai, công nghệ thiết bị,
môi trường…); một số nội dung phải so sánh đối chiếu với các điều kiện thông
lệ hoặc thực tế đã thực hiện (các chỉ tiêu về kinh tế, tài chính, về hiệu quả đầu
tư,…)
Cán bộ thẩm định Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã
Bắc Giang dùng phương pháp thống kê kinh nghiệm và kiểm tra tính hợp lý,

tính thực tế của các giải pháp lựa chọn (mức chi phí đầu tư, cơ cấu chi phí đầu
tư, các chỉ tiêu tiêu hao nguyên liệu, nhiên liệu hay chi phí sản xuất nói chung).
Phương pháp này yêu cầu cán bộ đầu tư là người có kinh nghiệm và khả năng
hiểu biết rộng và bao quát, tuy nhiên với những dự án đầu tư cần kiến thức
sâu về lĩnh vực chuyên ngành thường gây khó khăn cho cán bộ thẩm định. Mặt
khác, việc thẩm định mức chi phí đầu tư, cơ cấu chi phí đầu tư,… cần phải dựa
trên một mức đã có sẵn tạo ra hiệu quả không khách quan trong việc thẩm
định, do không rõ ràng trong việc lấy mức so sánh.
Phương pháp thẩm định dự án đầu tư là một nhân tố chủ quan ảnh
hưởng trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động thẩm định,cho nên thiết nghĩ
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang nên lựa chọn
nhiều phương pháp thẩm định dự án đầu tư, với mỗi đặc thù của dự án đầu tư
cán bộ thẩm định lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp.
1.2.2. Lựa chọn đối tác.
Đối tác là một khía cạnh quan trọng trong dự án đầu tư. Việc lựa chọn đối
tác không chỉ quyết định đến chất lượng, hiệu quả của dự án mà còn là một
nhân tố ảnh hưởng lớn đến công tác thẩm định. Đối tác là người trong nước,
nước ngoài ở nhiều khu vực, nhiều nước khác nhau nên việc tìm hiểu về đối tác
và luật lệ không phải dễ dàng đặc biệt là các đối tác nước ngoài. Dự án đầu tư
có thể giới thiệu cho nhiều đối tác khác nhau nhằm lựa chọn được nhà đầu tư
thích hợp nhất, có đủ tư cách pháp lý, năng lực tài chính và kinh nghiệm thực
hiện dự án.
Trong hoạt động thẩm định dự án đầu tư tín dụng việc lựa chọn đối tác
hay lựa chọn khách hàng là một việc phức tạp vì đến với ngân hàng có rất
nhiều khách hàng, mỗi khách hàng lại có những dự án đầu tư khác nhau để xin
ngân hàng hỗ trợ vốn kinh doanh. Tuy nhiên hoạt động lựa chọn đối tác vẫn là
một hoạt động không thể thiếu, tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông
thôn thị xã Bắc Giang việc lựa chọn khách hàng đã được trú trọng. Tuy nhiên
hoạt động lựa chọn đối tác vẫn chưa được thực hiện nghiêm túc và chưa phản
ánh đúng ý nghĩa của hoạt động, việc lựa chon đối tác chủ yếu dựa trên kinh

nghiệm cá nhân của từng cán bộ thẩm định và thực hiện mang tính hình thức
trên văn bản là chủ yếu.
Lựa chọn đối tác là một nhân tố chủ quan có thể điểu chỉnh được từ Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang và cán bộ thẩm
định cho nên Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang
cần trú trọng tập chung nhiều hơn và cần có những qui định chặt chẽ hơn.
1.2.3. Thông tin.
Thông tin là một yếu tố cực kỳ quan trọng và không thể thiếu được trong
công tác thẩm định. Thông tin đầy đủ và chính xác là cơ sở cho việc thẩm định
đạt kết quả cao. Ngược lại thông tin không đầy đủ và phiến diện sẽ dẫn đến
những quyết định sai lầm về tính khả thi của dự án, từ đó có thể đưa đến
những quyết định đầu tư sai lầm. Đặc biệt đối với dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đối tác là người nước ngoài ở nhiều khu vực khác nhau nên việc tìm
hiểu, thu thập thông tin chính xác về họ lại càng trở nên cần thiết. Các thông
tin cần thiết cho việc thẩm định một dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài bao
gồm cả các thông tin về đối tác trong nước cũng như nước ngoài. Đối với bên
Việt Nam cần tìm hiểu các thông tin đầy đủ về các doanh nghiệp và cá nhân
Việt Nam tham gia liên doanh như tư cách pháp lý, ngành nghề định kinh
doanh, khả năng tài chính trong tham gia liên doanh…Đối với bên nước ngoài,
các thông tin không thể thiếu được là tư cách pháp lý, năng lực tài chính, lịch
sử phát triển, uy tín, vị thế của đối tác trong kinh doanh, đạo đức doanh
nghiệp, công nghệ áp dụng vào Việt Nam…Ngoài ra cũng cần có những thông
tin chính xác liên quan đến các chính sách mới, các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về phát triển kinh tế.
Để có được nguồn thông tin có chất lượng thì phương pháp thu thập, xử
lý, lưu trữ thông tin cũng đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Vì vậy bên cạnh
việc phối hợp giữa các Nhà nước, cơ quan, công ty để thu được những thông
tin từ nhiều nguồn và nhiều chiều, vấn đề xử lý, phân tích và lưu ttữ thông tin
cũng cần được cân nhắc kỹ lưỡng và từng bước nâng cao chất lượng của hoạt
động này.

Cũng cần nói thêm thông tin ở đây được hiểu theo nghĩa thông tin hai
chiều tức là thông tin cần biết của dự án, chủ dự án và các vấn đề có liên quan
tới dự án tới cán bộ thẩm định đồng thời cần nguồn thông tin từ cán bộ thẩm
định tới người lập dự án cũng rất quan trọng, đó là những thông tin về quy
tắc, quy chế, những yêu cầu đối với những dự án được hỗ trợ vốn vay của
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang. Hiện tại
công công tác truyền đạt thông tin này chủ yếu là do cán bộ thẩm định tư vấn
trực tiếp khách hàng, đây là phương pháp truyền đạt thông tin có hiệu quả
nhất, cán bộ thẩm định có thể trả lời trực tiếp những thắc mắc của khách hàng
và khách hàng có thể nắm rõ được ngay những vấn đề cần thắc mắc
của mình. Tuy nhiên, cần có các nguồn tuyên truyền gián tiếp khác như các
hình thức thông tin đại chúng và đặc biệt Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn thị xã Bắc Giang nên mở một trang web riêng để phục vụ phát triển
kinh doanh. Do khách hàng không nắm bắt rõ thủ tục cho vay của Ngân hàng
nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang dẫn đến hậu quả khách
hàng có thể đến với ngân hàng khác hoặc làm thủ tục với ngân hàng nhưng
chất lượng không đạt so với những yêu cầu của Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang.
1.2.4. Quy trình thực hiện dự án.
Khâu có ý nghĩa quan trọng trong quá trình thẩm định dự án là thực hiện
các công việc thẩm định. Thực hiện tốt khâu này sẽ đảm bảo được những yêu
cầu đặt ra trong công tác thẩm định. Để thực hiện tốt khâu này phải có một
quy trình thẩm định hợp lý, khoa học. Cơ sở hình thành quy trình thẩm định dự
án là nhiệm vụ tổng quát của công tác thẩm định dự án:
Phân tích, đánh giá tính khả thi của dự án về công nghệ, kinh tế, xã hội,
môi trường…
Đề xuất và kiến nghị với nhà nước chấp nhận hay không chấp nhận dự
án, nếu chấp nhận thì với những điều kiện nào.
Việc thứ nhất là công việc xem xét, đánh giá chuyên môn của các chuyên
gia. Việc thứ hai là của các nhà quản lý: lựa chọn phương án và điều kiện phù

hợp nhất. Xây dựng được một quy trình thẩm định phù hợp sẽ đảm bảo được
các yêu cầu quản lý nhà nước, quản lý ngành và phối hợp các ngành, các địa
phương trong việc đánh giá, thẩm định và xử lý những vấn đề tồn tại của dự
án; đồng thời đảm bảo tính khách quan trong việc thẩm định các dự án, cho
phép phân tích đánh giá sâu sắc các căn cứ khoa học và thực tế các vấn đề
chuyên môn; bên cạnh đó còn đơn giản hoá được công tác tổ chức thẩm định
mà vẫn nâng cao được chất lượng thẩm định
1.2.5. Đội ngũ cán bộ thẩm định.
Đội ngũ cán bộ thẩm định là nhân tố quyết định chất lượng công tác thẩm
định và góp phần không nhỏ trong việc giúp Chính phủ và cơ quan có thẩm
quyền đưa ra những quyết định đầu tư đúng đắn. Họ là những người trực tiếp
tổ chức, thực hiện công tác thẩm định và đưa ra những đánh giá, xem xét
mang tính chủ quan của mình về dự án đầu tư dựa trên những cơ sở khoa học
và tiêu thức chuẩn mực khác nhau.
Các tố chất của cán bộ thẩm định bao gồm cả năng lực, trình độ, kinh
nghiệm và tư cách đạo đức nghề nghiệp. Để công tác thẩm định đạt kết quả
cao đòi hỏi người cán bộ thẩm định phải biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa năng
lực sẵn có của bản thân, trình độ chuyên môn và những kinh nghiệm từ thực
tế, đặc biệt phải có một phẩm chất đạo đức nghề nghiệp vô tư trong sáng, biết
đặt lợi ích của công việc lên hàng đầu trong quá trình thực thi nhiệm vụ trách
nhiệm của mình để đưa ra những kết luận khách quan về dự án, làm cơ sở
đúng đắn cho việc ra quyết định đầu tư.
1.2.6. Vấn đề định lượng và tiêu chuẩn trong thẩm định dự án.
Để thẩm định đánh giá dự án, vấn đề quan trọng và cần thiết là việc sử
dụng các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật, mặc dù trong thẩm định đánh giá dự án
cũng có những vấn đề được phân tích lựa chọn trên cơ sở định tính. Việc sử
dụng các chỉ tiêu kinh tế-kỹ thuật cần thiết phải giải quyết hai vấn đề là định
lượng và xây dựng tiêu chuẩn để đánh giá các chỉ tiêu đó. Để có cơ sở đánh giá
dự án thì việc nghiên cứu xây dựng các tiêu chuẩn hoặc chỉ tiêu hướng dẫn là
rất cần thiết, trước hết là các chỉ tiêu về tài chính và tiêu chuẩn đánh giá hiệu

quả dự án như: tỷ lệ chiết khấu áp dụng cho từng loại dự án, thời gian hoàn
vốn tiêu chuẩn, hệ số bảo đảm trả nợ, suất đầu tư hoặc suất chi phí cho các loại
công trình, hạng mục công trình… Đây là những điểm cần phải được đặc biệt
chú ý đối với các cơ quan quản lý đầu tư tổng hợp như các bộ và từng địa
phương.
II. QUI TRÌNH THẨM ĐỊNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI NGÂN HÀNG NÔNG
NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN THỊ XÃ BẮC GIANG.
2.1. Thẩm định tư cách pháp nhân vay vốn
- Thẩm định hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp
Khi xem xét hồ sơ pháp lý của doanh nghiệp cán bộ thẩm định thường
yêu cầu có đủ các hồ sơ sau:
- Quyết định thành lập doanh nghiệp: Công ty, điều lệ công ty
- Quyết định bổ nhiệm giám đốc; kế toán trưởng
- Biên bản bầu hội đồng quản trị
- Giấy phép kinh doanh
- Giấy phép hành nghề phù hợp
2.2. Thẩm định sự cần thiết phải đầu tư.
Vai trò của đầu tư rất to lớn đối với sự phát triển kinh tế nhưng khi xét
riêng từng dự án ta lại thấy có dự án đạt được mục tiêu này lại không đạt mục
tiêu khác. Có những dự án lợi nhuận thu được cao nhưng lại ảnh hưởng tới
môi trường sinh thái hoặc có những dự án lợi nhuận rất thấp, thậm chí bị lỗ
nhưng lại giải quyết số lượng lớn đến việc làm cho người lao động. Bên cạnh
đó do chính sách của Nhà nước trong từng thời kỳ chẳng hạn ưu tiên phát
triển ngành nào, tập trung vốn đầu tư cho những vùng trọng điểm nào cũng
khác nhau. Do đó khi xem xét sự cần thiết phải đầu tư ta phải xem xét mục tiêu
của dự án có phù hợp và đáp ứng nhu cầu phát triển của ngành, địa phương
và của cả nước hay không. Mục tiêu thường được xen xét trên hai phương
diện: kinh tế và xã hội, nhưng giữa hai phương diện này đôi khi lại mâu thuẫn
với nhau. Vấn đề đặt ra đối với dự án là kết hợp hài hoà giữa các mục tiêu
hoặc để đạt được mục tiêu này thì không ảnh hưởng đến mục tiêu kia. Song

song với việc xem xét mục tiêu của dự án Ngân hàng cần xem xét về sự phù hợp
về phạm vi hoạt động quy mô đầu tư với quy hoạch phát triển của ngành và lãnh
thổ.
Trong địa bàn của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc
Giang, có nhiều dự án đầu tư tại khu công nghiệp Đình Trám là một khu công
nghiệp được chính quyền địa phương tỉnh quan tâm nhiều trong một số năm gần
đây, đối với những dự án tại khu công nghiệp này cán bộ thẩm định dự án đầu tư
tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang có những ưu
tiên đáng kể so với những dự án đầu tư khác như tư vấn về hoạt động kinh doanh
cũng như những tư vấn về thực hiện dự án đầu tư trên văn bản để có kết quả thẩm
định cao khả năng nhận được vốn để thực hiện sản xuất kinh doanh là lớn.
Tỉnh Bắc Giang là một tỉnh miền núi cho nên phát triển kinh tế trang trại,
trồng trọt chăn nuôi luôn được chú trọng, tuy nhiên do trình độ dân trí chưa cao
cộng với kiến thức về hoạt động sản xuất kinh doanh chưa có nên cán bộ thẩm định
tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang luôn có những
tư vấn cần thiết đối với những khách hàng tham gia hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình. Đây là một phong cách làm việc rất đáng được hoan nghênh của
cán bộ thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
thị xã Bắc Giang.
Với những dự án đầu tư không đạt được yêu cầu thẩm định cán bộ thẩm định
tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang cũng có
những hướng đầu tư phù hợp để tư vấn những khách hàng có dự án đâu tư chưa
được vay vốn.
2.3. Thẩm định các yếu tố đầu vào (nguyên vật liệu, nhiên liệu,
động lực lao động...)
Khi thẩm định cần xem xét các mặt như, mặt cơ sở pháp lý kỹ thuật để xác
định qui mô trữ lượng và khả năng cung cấp của các yếu tố đầu vào, chất
lượng các yếu tố đầu vào và các hình thức khai thác yếu tố đầu vào là một
những yếu tố cán bộ thẩm định cần thẩm định. Tuy nhiên, do điều kiện thực tế
tại địa bàn nên cán bộ thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng nông nghiệp và

phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang không thẩm định chặt chẽ yếu tố này mà
chỉ coi đây là một yếu tố cần xem xét trong văn bản mà không đi sâu, đây là
một điểm yếu trong hoạt động thẩm định tại Ngân hàng nông nghiệp và phát
triển nông thôn thị xã Bắc Giang.
Thông thường giá cả đầu vào là yếu tố được tập trung nhiều trong việc
thẩm định các yếu tố đầu vào, giá cả đầu vào có liên quan mật thiết tới tổng
chi phí và lợi nhuận của dự án đầu tư. Giá cả đầu vào thấp chứng tỏ dự án có
chi phí nhỏ và lợi nhuận có xu hướng tăng cao. Tuy nhiên tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang cán bộ thẩm định và khách
hàng chỉ coi yếu tố này là một yếu tố cần ghi trong văn bản Dự án phương án
sản xuất kinh doanh, cho nên giá cả các yếu tố đầu vào được đưa vào không
phản ánh thực tế hoạt động của dự án sản xuất kinh doanh, nhiều khi nó
không sát thực với giá cả thực tế trên thị trường mà chỉ đảm bảo có một chi
phí hợp lý trong văn bản.
2.4. Thẩm định về mặt tài chính.
Đây là chỉ tiêu rất quan trọng đối với Ngân hàng, thông qua phân tích tài
chính Ngân hàng sẽ được xác định tính khả thi của dự án, hiệu quả dự án khả
năng sinh lời, khả năng trả nợ của Ngân hàng và nhu cầu về vốn đầu tư v.v...
khi thẩm định cần chú ý các vấn đề sau:
Vấn đề tổng vốn đầu tư: Việc xác định đầu tư bao nhiêu vốn, sinh lời bao
nhiêu khi đi vào sản xuất cần giải đáp trước khi quyết định cho vay. Do vậy đòi
hỏi Ngân hàng cần xác định tổng mức vốn đầu tư cho dự án là bao nhiêu gồm
vốn thiết bị, vốn xây lắp thiết kế cơ bản khác và cả yếu tố trượt giá.
Vấn đề nguồn vốn đầu tư: Thẩm tra việc xác định nguồn vốn đầu tư bao
gồm những nguồn nào, khả năng đảm bảo nguồn vốn. Xem xét tỷ lệ các loại
vốn trong dự án: Vốn tự có, vốn cổ phần, vốn ngân sách, vốn vay của các tổ
chức kinh tế nước ngoài, vốn vay của Ngân hàng... Thực tiễn hiện nay hầu hết
các dự án chủ yếu dùng vốn vay Ngân hàng, phần vốn tự có tham gia là nhà
xưởng, các chương trình phụ trợ thường chiếm tỷ trọng nhỏ, từ đó Ngân hàng
lưu ý xem xét khả năng cung ứng vốn tự có của doanh nghiệp có đúng với tiến

độ sử dụng vốn hay không để đưa dự án đi vào sản xuất.
Về khả năng trả nợ: Các dự án khi lập tính toán nguồn vốn cho trả nợ rất
cao, để có thời gian trả nợ ngắn bước đầu tạo tâm lý cho Ngân hàng quan tâm
lưu ý. Nhưng thực tế khi đưa vào sản xuất kinh doanh thì gặp khó khăn trong
trả nợ, nhiều dự án xin ra hạn nợ. Vì vậy cần phải tính toán thời gian trả nợ
bằng nhiều phương án trong đó phải lường đến phương án xấu nhất từ đó
chọn phương án tối ưu khi đưa dự án vào sản xuất kinh doanh.
Vấn đề khả năng sinh lời: Sử dụng các chỉ tiêu NPV, IRR, R (lợi ích/chi phí)
để tính toán và đánh giá dự án.
Vấn đề rủi ro và quản lý rủi ro: Đây cũng là vấn đề khá quan trọng trong
phân tích tài chính dự án. Khi phân tích rủi ro Ngân hàng cần đưa ra các giả
định thay đổi, sản lượng, giá bán, chi phí sản xuất nó làm ảnh hưởng đến tính
hiệu quả, khả thi, độ ổn định và khả năng trả nợ của dự án như thế nào.
* Vai trò của thẩm định tài chính.
Thẩm định tài chính có vai trò quan trọng đối với Ngân hàng, thể hiện:
- Thông qua thẩm định tài chính Ngân hàng sẽ xác định được nhu cầu
về vốn cho dự án từ đó Ngân hàng sẽ có quyết định cho vay hay không? Mức
cho vay là bao nhiêu? Tránh trường hợp tính toán vốn quá cao hoặc quá thấp.
- Thông qua phân tích đánh giá tài chính dự án Ngân hàng sẽ đánh giá
được tình hình tài chính của dự án từ đó xác định được cá chỉ tiêu rất quan
trọng như: Khả năng thu hồi vốn, thời gian hoàn vốn và mức độ rủi ro.
- Giúp ngân hàng có kế hoạch cân đối nguồn vốn qua từng thời kỳ
* Phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư:
Trong những năm qua đầu tư ở nước ta nói chung và tại địa bàn tỉnh
Bắc Giang phát triển mạnh mẽ. Rất nhiều dự án lớn hoạt động có hiệu quả.
Công tác thẩm định tài chính dự án vay vốn trung và dài hạn đã có nhiều đổi
mới thích ứng với vốn cơ chế mới. Bên cạnh đó Ngân hàng nông nghiệp và
phát triển nông thôn thị xã Bắc Giang đã học hỏi nhiều kinh nghiệm thẩm định
dự án của nhà đầu tư nước ngoài cũng như kinh nghiệm thẩm định dự án đầu
tư của các tỉnh bạn làm cho phương pháp thẩm định ngày càng hoàn thiện.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại trong công tác thẩm định tài chính dự
án vay vốn trung và dài hạn, hiệu quả cho vay chưa cao, tỷ lệ nợ quá hạn còn
cao, việc cho vay trung và dài hạn chiếm tỷ trọng thấp chủ yếu cho vay đối với
Doanh nghiệp Nhà nước và còn nhiều tồn tại trong phương pháp thẩm định.
Nhìn chung hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính đang được sử dụng hiện nay
trong thẩm định dự án tại Ngân hàng là: Mức sinh lời của dự án, khả năng
hoàn trả vốn vay và độ an toàn của dự án. Thực tế hiện nay ba chỉ tiêu trên
đều đã được đề cập tới tuy nhiên mức độ chưa sâu và còn nặng về hình thức.
Về mức sinh lời thì thường được xét theo chỉ tiêu lợi nhuận ròng hàng
năm. Về khả năng hoàn vốn thì Ngân hàng quan tâm nhiều hơn tới mức hoàn
trả vốn vay mà ít quan tâm tới việc hoàn trả vốn đầu tư. Do đó hiệu quả của
hoạt động đầu tư bị xem nhẹ so với vấn đề thu hồi vốn của ngân hàng.Còn về
độ an toàn Ngân hàng chỉ xét độ an toàn của dự án vay thông qua việc đánh
giá tài sản thế chấp cầm cố, bảo lãnh...
Hiện nay việc sử dụng hai chỉ tiêu giá trị hiện tại ròng NPV và suất thu
hồi nội bộ IRR đang được sử dụng nhiều và có kết quả khả quan nhất.
2.4.1. Thẩm định tài chính doanh nghiệp:
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế phát
sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Phân
tích tình hình tài chính doanh nghiệp là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu
và so sánh số liệu về mặt tài chính hiện hành với quá khứ. Thông qua việc phân
tích tình hình tài chính người sử dụng thông tin có thể đánh giá tiềm năng,
hiệu quả kinh doanh rủi ro trong tương lai và triển vọng của doanh nghiệp.
Đối với các ngân hàng thường quan tâm tới khả năng trả nợ của doanh
nghiệp khi phân tích tài chính doanh nghiệp. Ngân hàng đặc biệt chú ý đến số
lượng tiền và các tài sản khác có thể chuyển đổi thành tiền nhanh từ đó so
sánh với số nợ ngắn hạn để biết được khả năng thanh toán hiện hành của
doanh nghiệp. Mặt khác ngân hàng cũng thường quan tâm tới số lượng vốn
của chủ sở hữu bởi vì nguồn vốn chủ sở hữu là khoản đảm bảo khi doanh nghiệp

gặp rủi ro.
Phân tích tình hình tài chính của khách hàng có vai trò quan trọng trong
hoạt động tín dụng ngân hàng. Do vậy trước khi cho vay thì một công việc hết
sức quan trọng đối với Ngân hàng là đánh giá tình hình tài chính của doanh
nghiệp. Để tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp, Ngân
hàng thường sử dụng các báo cáo tài chính bao gồm:
- Bảng cân đối kế toán (Bảng tổng kết tài sản)
- Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ:
Để tiến hành phân tích thường chia theo các chỉ tiêu sau:
* Phân tích tình hình và khả năng thanh toán:
Tình hình công nợ và khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh rõ
nét chất lượng công tác tài chính. Nếu hoạt động tài chính tốt, doanh nghiệp sẽ
ít công nợ, khả năng thanh toán dồi dào, ít bị chiếm dụng vốn cũng như ít đi
chiếm dụng vốn và ngược lại.
Để đánh giá khả năng thanh toán ta dùng chỉ tiêu sau:

Hệ số thanh toán ngắn hạn =
Tài sản lưu động
Nợ ngắn hạn
(Hệ số thanh toán hiện hành)
Hệ số này phản ánh mức độ đảm bảo của tài sản lưu động đối với nợ ngắn
hạn. Hệ số lớn thì khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn càng cao và
ngược lại. Tuy nhiên hệ số này quá cao cũng không phải là tốt.

Hệ số thanh toán nhanh =
Tài sản lưu động - Hàng tồn kho
Nợ ngắn hạn

( Hệ số thanh toán tức thời)

Hệ số này > 0,5 là đảm bảo được khả năng thanh toán
< 0,5 doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc thanh toán nợ
Thông thường hệ số này được chấp nhận từ 0,5 đến 1,2
Hệ số khả năng thanh toán =
Khả năng thanh toán
Nhu cầu thanh toán

Khả năng thanh toán bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, chứng khoán
có giá, các khoản phải thu. Nhu cầu thanh toán là các khoản nợ quá hạn và đến
hạn
Nếu hệ số này > 1 thì đơn vị có khả năng thanh toán nợ đến hạn và quá
hạn. Nếu < 1 thì tình hình tài chính doanh nghiệp đang gặp khó khăn, không có
khả năng thanh toán.
Hệ số quay vòng hàng tồn kho =
Giá vốn hàng bán
Hàng tồn kho bình quân
Hệ số này cao thì việc kinh doanh được đánh giá tốt
Hệ số quay vòng các khoản phải thu =
Doanh thu bán hàng
Số dư BQ các khoản phải thu
Hệ số này phản ánh tốc độ cao khoản phải thu. Hệ số này càng cao chứng
tỏ tốc độ thu hồi các khoản phải thu nhanh. Doanh nghiệp không bị chiếm
dụng vốn và ngược lại.
Tỷ suất vốn tự có trên tổng tài sản (tỷ suất tự tài trợ) =
Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn
Tỷ lệ càng lớn thể hiện doanh nghiệp có nhiều vốn tự có tính độc lập cao
và khả năng an toàn về trả nợ cao.
* Phân tích hiệu quả sinh lời của hoạt động sản xuất kinh doanh
Hiệu quả sinhlời của hoạt động sản xuất kinh doanh là vấn đề rất được

Ngân hàng quan tâm vì đây là nguồn quan trọng để trả nợ Ngân hàng. Do vậy
trước khi quyết định cho vay cán bộ tín dụng phải nắm rõ nguồn trả nợ trong
tương lai của khách hàng. Để đánh giá khả năng sinh lời của hoạt động sản
xuất kinh doanh người ta thường phân tích so sánh các chỉ tiêu.
Tỷ suất lợi nhuận
trên doanh thu
=
Lợi tức sau thuế
X 100
Doanh thu thuần
Chỉ tiêu này cho biết trong một đồng doanh thu thuần thì tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận ròng sau thuế.
Hệ số vòng quay tài sản =
Doanh thu thuần
Tài sản vốn bình quân
Nói chung hệ số này càng cao thì doanh nghiệp sử dụng tài sản càng hiệu
quả. Tuy nhiên khi đánh giá hai chỉ tiêu này phải kết hợp xem xét bản chất của
ngành kinh doanh và điều kiện kinh doanh.
Ngoài ra để đánh giá tài chính doanh nghiệp người ta còn dùng một số chỉ
tiêu như:
Hệ số an toàn =
Tổng vốn tự có
X
Tổng nợ
Tổng vốn tài sản nợ Tổng vốn tự có
Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí =
Lợi nhuận ròng
Tổng chi phí
Hệ số vốn tự có tham gia đầu tư =
Tổng số vốn tự có tham gia đầu tư

Tổng số vốn đầu tư
Hệ số vốn tự có và vốn vay đầu tư =
Tổng số vốn tự có tham gia đầu tư
Tổng số vốn vay đầu tư
2.4.2. Thẩm định nguồn vốn đầu tư:
Để đảm bảo cho quá trình xây lắp và hoạt động của dự án đầu tư thì cần
phải có các nguồn vốn tài trợ, thông thường ngoài nguồn vốn tự có của doanh
nghiệp thì dự án thường sử dụng nguồn vốn cho vay của Ngân hàng, vốn ngân
sách cấp, vốn góp cổ phần, vốn liên doanh, vốn huy động từ các nguồn khác.
Vì vốn đầu tư phải được thực hiện theo tiến độ ghi trong dự án để đảm
bảo tiến độ thực hiện các công việc chung của dự án vừa để tránh ứ đọng vốn,
nên các nguồn tài trợ được xem xét không chỉ chỉ về mặt số lượng mà cả thời
điểm nhận tài trợ. Thực tế hiện nay nhiều dự án đầu tư hoạt động với nhiều
loại vốn khác nhau. Do đó khi thẩm định phai xem xét mức độ đảm bảo của các
nguồn vốn mà doanh nghiệp huy động được ngoài vốn vay Ngân hàng. Xem các
nguồn vốn trong tổng đầu tư chiếm tỷ trọng như thế nào, mức độ tin cậy ra
sao để từ đó đánh giá chính xác tính hiện thực của dự án.
Sau khi xem xét cơ cấu các nguồn vốn cán bộ thẩm định phải xem xét khả
năng đảm bảo nguồn vốn vay họ thường lập số hiệu vốn tự có cao hơn thực tế
họ có. Do đó khi thẩm định dự án Ngân hàng phải xác định được nguồn vốn
trên cơ sở phân tích các báo cáo tài chính và tình hình sản xuất kinh doanh mà
doanh nghiệp gửi lên.
Ngoài ra có thể kiểm tra độ tin cậy của nguồn vốn này qua các biên bản
thanh tra kiểm toán và các thông tin khác.
Ngoài vốn tự có các dự án còn có các nguồn vốn khác như : Ngân sách cấp
đối với các dự án đầu tư của doanh nghiệp Nhà nước hoặc các dự án mang
tính chất chiến lược. Để thẩm tra Ngân hàng có thể dựa vào những văn bản
cam kết cấp vốn dự án của các cơ quan có thẩm quyền.
Còn nếu là vốn góp cổ phần hoặc liên doanh phải có cam kết về tiến độ và
số lượng vốn góp của các cổ đông hoặc các bên liên doanh và được ghi trong

điều lệ doanh nghiệp.
Sau đó so sánh nhu cầu với khả năng đảm bảo vốn cho dự án từ các nguồn
về số lượng và tiến độ. Nếu khả năng lớn hơn hoặc bằng nhu cầu thì dự án
chấp nhận được. Nếu khả năng nhỏ hơn nhu cầu thì phải giảm quy mô của dự
án. Khi giảm phải đảm bảo chú ý sự đồng bộ, để giảm được phải dựa trên cơ
sở kỹ thuật.
Sau khi xem xét các nguồn vốn và cơ cấu của nguồn vốn này, Ngân hàng
xem xét đến thời điểm tài trợ cho dự án. Quyết định tài trợ vốn cho dự án ảnh
hưởng đến việc sử dụng vốn có hiệu quả. Nếu xác định đúng thời điểm cho vay
làm cho dự án đảm bảo đúng tiến độ đã đề ra, tránh ứ đọng vốn nâng cao hiệu
quả sử dụng vốn vay.
2.4.3. Thẩm định thời gian hoàn vốn của dự án.
Thời gian hoàn vốn là số năm mà doanh nghiệp còn hoạt động để tổng số
lợi nhuận và khấu hao thu được đủ bù đắp số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
Để xác định được thời gian hoàn vốn ta có cách sau :
- Theo cách trừ lùi dần : Lấy tổng vốn đầu tư trừ đi lợi nhuận và khấu hao
theo thứ tự từ năm thứ nhất đến khi hiệu số bằng 0.
Vốn đầu tư (Vo) - (P + KH)
1
- (P + KH)
2
- .... (P + KH)
2
= 0
Trong đó (P + KH) là lợi nhuận khấu hao của 1 năm.
Cũng theo phương pháp này nếu tính theo phương pháp động, tức là có
tính tới giá trị tiền tệ theo thời gian ta có :
0)1(*
0
1

1
1
=−+

=

VrG
T
t
Trong đó :
G
1
: Giá trị hoàn vốn năm thứ t.
r : Lãi suất chiết khấu.
V
0
: Vốn đầu tư.
t : Năm thứ t.

×