Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.28 KB, 35 trang )

Quản lý rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại
1.1. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương
mại.
1.1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ
bản của ngân hàng. Đối với hầu hết các Ngân hàng, dư nợ tín dụng thường
chiếm khoảng hơn 1/2 tổng tài sản và có thu nhập từ hoạt động tín dụng chiếm
khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Và lại, rủi ro trong kinh
doanh ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng
rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát
sinh từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Việc Ngân hàng không thu hồi được
vốn có thể do Ngân hàng đã buông lỏng quản lý, cấp tín dụng không minh bạch,
áp dụng một chính sách tín dụng kém hiệu quả, hay do nền kinh tế đi xuống
không lường trước. Chính vì vầy, điều không ngạc nhiên là khi cán bộ thanh tra
đến ngân hàng, họ luôn kiểm tra toàn bộ danh mục tín dụng của Ngân hàng, bao
gồm: phân tích chi tiết các hồ sơ tín dụng vừa và nhỏ, trên cơ sở đó đánh giá
chính sách tín dụng của ngân hàng nhằm đảm bảo lành mạnh và hiệu quả để bảo
vệ những người gửi tiền và cổ đông của ngân hàng.
1.1.1.1. Phân loại tín dụng Ngân hàng.
Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách
hàng với những mụ đích sử dụng khác nhau. Để tránh nhầm lẫn và có cái nhìn
tổng quát về các loại tín dụng, có một số tiêu chí phân loại tín dụng như sau:
 Căn cứ vào thời hạn cho vay:
- Cho vay ngắn hạn: có thời hạn đến 1 năm.
- Cho vay trung hạn: có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm.
- Cho vay dài hạn: có thời hạn trên 5 năm.
 Căn cứ vào bảo đảm tín dụng.
- Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố,
thế chấp không có bảo lãnh của người thứ ba.
- Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố thế chấp hay
có bảo lãnh của người thứ ba.


 Căn cứ vào mục đích của tín dụng.
- Tín dụng bất động sản: Đây là các khoản tín dụng được bảo đảm
bằng bất động sản, bao gồm: Tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và
mở rộng đất đai và tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa, căn
hộ cơ sở dịch vụ, trang trại và bất động sản ở nước ngoài.
- Tín dụng công và thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp
cho các doanh nghiệp để trang trải chi phí thu mua nguyên vật
liệu, trả thuế và chi trả lương.
- Tín dụng nông nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các hoạt
động nông nghiệp, nhằm trợ cấp cho các hoạt động nông nghiệp,
trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn
nuôi gia súc.
- Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho cá nhân để
mua sắm hàng hoá tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà cửa, trang
thiết bị trong nhà…
- Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp
cho các Ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ
chức tài chính khác.
- Cho thuê tài chính: Là việc Ngân hàng mua các trang thiết bị, máy
móc và cho thuê lại chúng.
- Tín dụng khác: Bao gồm các khoản tín dụng chưa được phân loại
ở trên (Ví dụ như tín dụng kinh doanh chứng khoán)
1.1.1.2. Nhân tố xác định quy mô và tính đa dạng tín dụng Ngân hàng.
Quy mô và tốc độ tăng trưởng tín dụng của các Ngân hàng là rất khác
nhau, phụ thuộc chủ yếu vào:
 Các đặc trưng thuộc vào lĩnh vực dịch vụ Ngân hàng cung cấp.
Mỗi Ngân hàng phải đáp ứng nhu cầu cụ thể về tín dụng của khách
hàng trong lĩnh vực dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp. Ví dụ, Các ngân
hàng hoạt động ở vùng ngoại ô thường có khách hàng đông đảo là những
hộ gia đình, các cửa hàng mua bán lẻ, các cá nhân với các khoản tín dụng

nhỏ. Ngược lại, các NH hoạt động ở thành phố thường có đội ngũ khách
hàng đông đảo là những siêu thị, trụ sở các công ty, các cơ sở sản xuất
với những khoản tín dụng lớn.
 Quy mô Ngân hàng.
Nhìn chung các nước đều quy định, dư nợ tín dụng cho một NH phụ
thuộc vào quy mô vốn tự có của NH. Các NH lớn thường cung cấp các
khoản tín dụng cho DN và công ty; các NH nhỏ lại tập trung vào các
khoản tín dụng nhỏ cho các cá nhân, hộ gia đình, các công ty và cửa hàng
tư nhân. Như vậy, quy mô NH cũng là nhân tố xác định quy mô tín dụng
và chủng loại tín dụng của NH.
 Tỷ suất lợi nhuận dự tính.
Tính đa dạng của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào tỷ suất lợi nhuận dự
tính đối với từng nhóm tín dụng. Với các nhân tố khác không đổi, NH sẽ
ưu tiên cấp các khoản tín dụng mang lại lợi nhuân ròng lớn nhất sau khi
trừ chi phí và RRTD. Quy mô NH có ảnh hưởng đáng kẻ đến tỷ suất lợi
nhuận đối với các nhóm tín dụng khac nhau. Nhìn chung, các NH nhỏ
thường có tỷ suất lợi nhuận cao đối với tín dụng thương mại và bất động
sản; trong khi đó các NH lớn có ưu thế trong việc cấp thẻ tín dụng cho cá
nhân và hộ gia đình. Điều hiển nhiên là, quy mô, khách hàng cũng giống
như quy mô NH có ảnh hưởng đáng kể đến tỷ suất lợi nhuận tín dụng; ví
dụ, NH lớn cấp tín dụng cho khách hàng thường áp dụng mức lãi suất
thấp hơn, bởi vì mức RRTD thấp và áp lực cạnh tranh cao hơn. Ngược
lại, tín dụng của NH nhỏ cấp cho công ty vừa và nhỏ thường có mức lãi
suất cao hơn.
1.1.1.3. Chất lượng tín dụng và xếp loại NH
Chất lương danh mục tín dụng và chính sách tín dụng của NH luôn là đối
tượng kiểm tra của thanh tra NH. Ở Mỹ, cán bộ thanh tra tiến hành xếp hạng
chất lượng tài sản có của NH (bao gồm cả tín dụng) theo các cấp độ (bằng số)
như sau:
1 = Hoạt động tốt (strong performance)

2 = Hoạt động khá (satisfactory)
3 = Hoạt động trung bình (fair performance)
4 = Hoạt đông bên bờ thua lỗ (únatusfactoryperformence)
NH nào được đánh giá càn cao thì càng bị ít nhà chức trách để ý và thanh
tra. Cán bộ thanh tra thường kiểm tra các khoản tín dụng có số dư lớn hơn một
mức quy định nào dó, còn các khoản tín dụng nhỏ hơn thì chỉ tiến hành kiểm tra
ngẫu nhiên. Những khoản tín dụng hoạt động tốt, nhưng có một vài điểm yếu
nhỏ như đã không tuân thủ chính xác quy trình tín dụng hay không lưu trữ đầy
đủ hồ sơ khách hàng được gọi là tín dụng có thiếu sót. Những khoản tín dụng
chứa đựng những điểm yếu căn bản hay theo nhà thanh tra là nguy hiểm như tập
trung quá lớn cho mộ khách hàng hay một ngành, nghề nào đó gọi là tín dụng
tâp trung.
Khi cán bộ thanh tra phát hiện ra những khoản tín dụng chứa đựng rủi ro
không trả được nợ ngay lập tức theo như thoả thuân, thì chúng đựoc xếp vào
loại tín dụng xấu. Các khoản tín dụng xấu được phân thành 3 nhóm:
 Nợ cần chú ý: các khoản tín dụng được tổ chức tín dụng đánh giá là có
khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng
suy giảm khả năng trả nợ.
 Nợ dưới tiêu chuẩn: các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ
này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả nưng tổn thất một phần
cả gốc và lãi.
 Nợ nghi ngờ: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng tổn thất cao.
 Nợ có khả năng mất vốn: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.
Tuy nhiên, chất lượng tín dụng và các TS có khác của NH mới chỉ là một
khía cạnh phản ánh chất lượng hoạt động của NH nói chung. Việc xếp hạng NH
còn dựa vào sự xem xét của cán bộ thanh tra về các tiêu chí như: vốn chủ sở
hữu, chất lượng quản lý, biểu đồ thu nhập, khả năng thanh khoản, và mức độ

nhạy cảm với rủi ro thị trường. Các tiêu chí này được biết đến rộng rãi với tiêu
đề CAMELS, bao gồm :Capital adequacy, Asset quality, Management quality,
Earning record, Liquidity position, Sensitivity to market risk.
Những NH có hệ số xếp hạng tổng hợp theo tiêu chí CAMELS càng thấp
thì càng bộc lộ rủi ro nên được các nhà thanh tra xếp vào nhóm 4 hay 5; những
NH có hệ số xếp hạng tổng hợp cao hơn thì sẽ xếp vào các nhóm từ 1 đến 3.
1.1.1.4. Chính sách tín dụng Ngân hàng
Một trong những biện pháp quan trọng để các khoản tín dụng NH đáp
ứng được các tiêu chuẩn pháp lý và đảm bảo an toàn là việc hình thành các tiêu
chuẩn pháp lý và bảo đảm an toàn là việc hình thành mộ “chính sách tín dụng
an toàn và hiệu quả” . Chính sách tín dụng cung cấp cho cán bộ tín dụng và nhà
quản lý một khung chỉ dấn chi tiết để ra các quyết định tín dụng và định hướng
danh mục đầu tư tín dụng của NH. Thông qua kết cấu danh mục tín dụng của
một NH, ta có thể biết được chính sách tín dụng của NH này là như thế nào.
Nếu một chính sách tín dụng không hiệu quả thì phải tiến hành kiểm tra hoặc
phải tăng cường quản lý bởi ban lãnh đạo NH.
Chính sách tín dụng mang lại nhiều hữu ích trong quá trình thực hiện cho
vay. Trước hết, đối với cán bộ tín dụng, họ biết được cần phải làm các bước như
thế nào khi tiến hành một khoản cho vay và biết được trách nhiệm của mình đến
đâu; đối với NH thông qua chính sách tín dụng NH có thể đạt được một danh
mục tín dụng đa mục đích, làm tăng khả năng sinh lời, kiểm soát được tiềm ẩn
rủi ro và đáp ứng được các đòi hỏi từ các nhà quản lý.
Quản lý rủi ro tín dụng trong chính sách tín dụng.
Chính sách tín dụng là một trong những phương thức để quản lý rủi ro tín
dụng đang đựoc các NH triển khai hiện nay. Chính sách tín dụng giúp cho hoạt
đông phân tích tín dụng trong tầm kiểm soát. Vậy nội dung quản lý RRTD thể
hiện trong chính sách tín dụng như sau:
1- Mục đích của danh mục tín dung NH (bao gồm các đăc điểm của một danh
mục tín dụng tốt xét theo các tiêu chí như các loại tín dụng, những kỳ hạn
tín dụng, các độ lớn tín dụng và chất lượng tín dụng).

2- Phân hạng thẩm quyền cho vay đối với từng cán bộ tín dụng và từng hội
đồng tín dụng ( quy đinh mức cho vay tối đa, các loại tín dụng được phép
và chữ ký của người có trách nhiệm).
3- Phân cấp chịu trách nhiệm trong công việc và báo cáo thông tin trong nội
bộ phòng tín dụng.
4- Quy trình tiếp nhận, kiểm tra, đánh giá và ra quyết định đối với đơn xin
vay của khách hàng.
5- Hồ sơ bắt buộc đối với từng đơn xin vay, và những gì phải được lưu giữ tại
NH ( ví dụ như các báo cáo tài chính, hợp đồng bảo đảm tín dụng…)
6- Phân cấp chịu trách nhiệm trong nội bộ NH, cụ thể ai là người chịu trách
nhiệm kiểm tra và duy trì hồi sơ tín dụng.
7- Các chỉ dẫn nhận, định giá và hoàn tất hồ sơ đảm bảo tín dụng.
8- Quy định chính sách và quy trình ấn định mức lãi suất tín dụng, mức phí,
và các điều kiện hoàn trả nợ vay.
9- Quy định những tiêu chuẩn chất lượng áp dụng chung cho tất cả các loại tín
dụng
10- Quy đinh giới hạn tín dụng tối đa, quy định hạn mức tối đa, tỷ lệ tổng dư
nợ/tổng tài sản tối đa.
11- Quy định lĩnh vực hoạt đông chính của NH từ đó hương hoạt động tín dụng
của NH vào lĩnh vực này.
12- Các phương an ưu tiên trong việc phát hiện, phân tích và xử lý tín dụng có
vấn đề.
Tuỳ theo đăc điển cụ thể của từng NH, nhà quản lý có thể bổ sung thêm
những quy đinh cho phù hợp. Ví dụ, NH có quy định không cấp một số loại tín
dụng nhất định, nhưng lại qui định ưu tiên đối với một số loại tín dụng khác…
1.1.2. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại.
1.2.1.1. Khái niệm rủi ro tín dụng.
Đã có rất nhiều cách tiếp cận về rủi ro dưới rất nhiều giác đọ khác nhau
và thông nhất ở quan điểm “ Rủi ro là khả năng có thể xảy ra các biến cố không
lường trước và thường gay ra các hậu quả xấu”. Rủi ro luôn xuất hiện bất ngờ

và đe dọa sự sống còn của doanh nghiệp. Thường thì những hoạt động kinh
doanh mang lại lợi nhuận càng cao thì ẩn chứa rủi ro càng lớn, mâu thuẫn này
luôn tồn tại. Do vậy muốn có lợi nhuận càng cao thì cần phải chấp nhận rủi ro
có thể xảy ra để tìm biện pháp hạn chế, phòng ngừa nhằm giảm thiểu thiệt hại
do rủi ro gấy ra.
Là một đơn vị hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, NHTM phải
thường xuyên đối mặt với rất nhiều loại rủi ro như: rủi ro tín dụng, rủi ro hối
đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, rủi ro tồn đọng vốn và các loại rủi ro
khác.
Trong điều kiện hiện nay tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản nhất của NH
và đồng thời rủi ro rín dụng cũng là loại rủi ro lớn nhất, thường xuyên xảy ra và
gây hậu quả năng nề nhất đối với hoạt động của NH. Sở dĩ vậy là vì dư nợ tín
dụng thường chiếm một tỷ lệ lớn giá trị tổng tài sản và tạo ra một phần không
nhỏ nguồn thu của NH. Do vậy rủi ro tín dụng cũng được đề cập đến rất nhiều
trong hoạt động kinh doanh NH nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.
Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 của NHNN Việt
Nam thì “Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động NH của các tổ chức tín dụng do khách hàng
không thực hiện hoạc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết”
Rủi ro tín dụng được hiểu một cách đơn giản là một khả năng trong tương
lai người đi vay ngân hàng hoặc người cho vay thất bại trong việc thực hiện
đúng các điều khoản trong hợp đồng tín dụng. Như vậy rủi ro tín dụng là khả
năng khách hàng vay vốn không thanh toán được tiền lãi hoặc vốn gốc hoặc cả
hai. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm
nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như bảo lãnh, cam
kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, tín dụng
thuê mua, đồng tài trợ …
Rủi ro tín dụng là một tất yếu mà các ngân hàng không thể loại bỏ hoàn
toàn ra khỏi hoạt động tín dụng của mình, họ buộc phải chấp nhận sự tồn tại của

rủi ro và cố gắng tìm mọi phương thức để có thể hạn chế tới mức thấp nhất rủi
ro tín dụng, đặc biệt là khi thế giới đang tiến dần tới giai đoạn toàn cầu hóa, các
hoạt động của ngân hàng trở nên vô cùng phong phú và không chỉ giới hạn
trong phạm vi quốc gia như trước đây mà còn hướng ra các thị trường quốc tế.
Trong bối cảnh đó, các hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro hơn, yêu cầu
có một phương thức quản trị rủi ro tín dụng hiệu quả là vấn đề trọng tâm trong
công cuộc đổi mới và phát triển của các ngân hàng hiện nay. Đồng thời, sự tăng
cường kiểm soát quốc tế, thể hiện trong các quy định về ngân hàng và các định
chuẩn quốc tế, như Hiệp ước Basel do ủy ban Basel ban hành, đặt ra yêu cầu
các ngân hàng cần có những bịên pháp hữu hiệu để hạn chế rủi ro và đáp ứng
được những tiêu chuẩn quy định.
1.1.2.2. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng.
Có rất nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Quản lý rủi ro tín dụng
cần xác định những nguyên nhân cụ thể, xác thực gây rủi ro tín dụng để có biện
phấp hạn chế.
 Những nguyên nhân thuộc về ngân hàng.
Có nhiều yếu tố gây ra rủi ro tín dụng mà nguyên nhân thuộc về NH, có
thể kể ở đây một số nguyên nhân như sau:
* Chiến lược kinh doanh của ngân hàng: Tuỳ theo chiến lược kinh doanh
cụ thể mà mỗi NH đưa ra các mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau, ví dụ NH A
có thể chấp nhận một mức độ rủi ro cao hơn nhằm thu được một mức lợi nhuận
kỳ vọng cao hơn hoặc một thị phần lớn hơn, trong khi đó, một NH B chỉ chấp
nhận một tỷ lệ rủi ro nhỏ mặc dù các khoản lợi nhuận kỳ vọng chỉ ở mức trung
bình, song có độ an toàn cao hơn so với NH A.
* Bản chất và mức độ phức tạp của các hoạt động ngân hàng: các hoạt
động NH ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp hơn, mang lại nhiều lợi nhuận
hơn song mức độ rủi ro cũng cao hơn. Tuỳ thuộc vào mức độ phức tạp của các
hoạt động mà NH xác định được khả năng chấp nhận rủi ro của mình. NH tiến
hành mở rộng hay đưa ra một sản phẩm tín dụng mới phải phù hợp về mức độ
tin cậy đối với khả năng trả nợ của người vay. Các rủi ro trong từng sản phẩm

mang tính chất đặc thù riêng biệt, do đó NH cần xác định các rủi ro thông qua
bản chất của từng sản phẩm và thực hiện biện pháp hạn chế rủi ro tốt nhất theo
các tiêu chuẩn cho từng loại.
* Áp lực cạnh tranh trong hoạt động tín dụng: hiện nay khi các ngân hàng
đang bước vào cuộc cạnh tranh gay gắt và quyết liệt, các khoản tín dụng được
chấp nhận dễ dàng hơn nhằm tăng thêm thị phần cho NH song cũng đem lại
nhiều rủi ro hơn.
* Mức độ tập trung của danh mục tín dụng: Mức độ tập trung trong danh
mục tín dụng theo các đặc thù riêng trực tiếp ảnh hưởng đến rủi ro của danh
mục tín dụng. Một khoản vay mang một đặc điểm bất lợi nào đó sẽ có khả
năng gây ra thất thoát trầm trọng hơn nếu ngân hàng có mức độ tập trung cao
vào các khoản cho vay có cùng các đặc điểm này. Ngân hàng có thể hạn chế các
rủi ro do tập trung trong danh mục tín dụng bằng cách thường xuyên đánh giá
rủi ro trong từng thị trường, trong từng ngành, từng vị trí địa lý, sản phẩm và
hình thức thế chấp, loại tiền tệ và hình thức đáo hạn, từ đó đảm bảo duy trì một
danh mục tín dụng đa dạng.
* Các hệ thống đánh giá và quản lý rủi ro tín dụng chưa đạt được yêu cầu
về sự tổng hợp, chặt chẽ, thống nhất và hợp lý
* Do bản thân các ngân hàng khi phát sinh các khoản nợ xấu thường
không muốn phản ánh vào tài khoản và chuyển thành nợ khó đòi vì như vậy sẽ
ảnh hưởng tới thành tích của ngân hàng, khiến cho bảng cân đối “không đẹp”.
Điều này dẫn tới việc ngân hàng tiếp tục gia hạn cho khách hàng nhiều lần, cho
phép khách hàng đảo nợ và dẫn đến việc không thực hiện thu nợ đúng theo hợp
đồng tín dụng.
* Hệ thống thông tin chưa đầy đủ, cập nhật và chính xác khiến cho quá
trình đánh giá rủi ro gặp nhiều khó khăn.
- Ngân hàng chưa có được thông tin đầy đủ về toàn bộ thị trường của
khách hàng.
- Ngân hàng không có những kênh thông tin chính xác để kiểm tra về
khách hàng như thông qua các ngân hàng khác, thông qua các khách hàng khác,

thông qua báo chí và các cơ quan có liên quan... Ngân hàng không đánh giá
được chính xác mối quan hệ đã, đang có của doanh nghiệp đối với các định chế
tài chính khác, mà chủ yếu là các NHTM khác do các doanh nghiệp có thể vay
cùng một lúc nhiều ngân hàng (doanh nghiệp đang vay cụ thể bao nhiêu, của
những tổ chức nào, đã trả nợ được bao nhiêu, chưa trả nợ hoặc quá hạn bao
nhiêu...).
* Xuất phát từ các cán bộ tín dụng
- Cán bộ tín dụng chưa có những nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng của
việc hạn chế rủi ro tín dụng.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về khách hàng và
khả năng trả nợ của họ (bao gồm ngành nghề kinh doanh, mùa vụ, tư cách phẩm
chất của khách hàng, chiến lược kinh doanh, thị phần trên thị trường trong nước
và quốc tế, uy tín của doanh nghiệp).
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về ngành hàng kinh
doanh, tiềm năng và vị trí của ngành hàng đó trong toàn bộ nền kinh tế; xu
hướng phát triển của ngành hàng đó hiện nay và trong tương lai trên thị trường
trong nước, khu vực và quốc tế; các chủ trương của Nhà nước về sự phát triển
của ngành hàng này trong tương lai, chứng minh bằng các con số cụ thể và các
văn bản pháp luật cụ thể.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về phương án kinh
doanh của khách hàng.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về những đối tác
tham gia bảo lãnh cho các khoản tín dụng.
- Cán bộ tín dụng chưa có những đánh giá chính xác về các tài sản đảm
bảo cho khoản tín dụng
- Cán bộ tín dụng không dự báo được những vấn đề có thể phát sinh từ
phía khách hàng có thể gây bất lợi cho ngân hàng (việc dự đoán các vấn đề này
còn tuỳ thuộc vào thời hạn của từng khoản vay, ví dụ như các khoản vay ngắn
hạn thì việc dự đoán cũng chỉ trong một thời gian ngắn, còn các khoản vay dài
hạn thì việc dự đoán phải bao quát một khoảng thời gian dài hơn, và yêu cầu cụ

thể hơn, chặt chẽ hơn).
- Đạo đức nghề nghiệp của cán bộ khiến cho việc xem xét các khoản cho
vay không được khách quan và đúng đắn, có thể gian lận hoặc cố tình làm sai:
+ Làm trái qui trình tín dụng để mưu lợi cá nhân.
+ Định giá tài sản thế chấp không đúng với giá trị thực tế do có sự
thông đồng với khách hàng.
+ Trực tiếp thu nợ gốc và lãi nhưng không nộp lại cho ngân hàng
mà dùng cho mục đích cá nhân.
+ Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, vay hộ, nhờ người vay hộ, vay
tiền ngân hàng chuyển cho công ty TNHH gia đình.
+ Tẩy xoá, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền ngân
hàng.
 Những nguyên nhân thuộc về khách hàng.
* Những nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ năng lực quản lý của khách
hàng, bao gồm:
- Khả năng quản lý trong lĩnh vực kinh doanh của khách hàng không tốt
dẫn đến những thua lỗ và không có khả năng trả nợ cho ngân hàng.
- Sự yếu kém trong việc tính toán những bất trắc có thể xảy ra trong
tương lai của khách hàng hoặc do họ quá mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi
nhuận cao.
- Sự không minh bạch về tài chính của khách hàng gây khó khăn cho
ngân hàng trong việc đánh giá rủi ro.
- Tính thanh khoản không cao trong các hoạt động của khách hàng, khiến
cho nguồn vốn thu hồi chậm và không hiệu quả.
- Những thay đổi bất ngờ trong tổ chức nội bộ của khách hàng mà ngân
hàng không kiểm soát được.
* Những nguyên nhân xuất phát từ sự không tuân thủ các điều kiện trong
hợp đồng tín dụng mà khách hàng đã ký với ngân hàng, bao gồm:
- Sự cố ý của khách hàng trong việc gian lận nhằm lừa đảo ngân hàng.
- Khách hàng sử dụng khoản vay không đúng với mục đích ban đầu khi

xin cấp tín dụng.
- Sự cố ý không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn của khách hàng nhằm sử
dụng được vốn vay trong thời gian lâu dài hơn. Trong thực tế, nguyên nhân này
có thể mang tính khách quan nhiều hơn, trong trường hợp doanh nghiệp chưa
thu được tiền đúng thời hạn phải chi trả cho ngân hàng. Đây không phải là do
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả mà chỉ đơn thuần là
vấn đề thời gian không phù hợp. Trong trường hợp này ngân hàng phải xem xét
kỹ và có thể gia hạn cho doanh nghiệp để tạo điều kiện cho họ thanh toán nợ
đầy đủ cho ngân hàng.
Đối với từng khách hàng khác nhau thuộc các ngành nghề khác nhau thì
mức độ rủi ro cũng khác nhau.Trong chiến lược kinh doanh của NHTM, việc
lựa chọn các khách hàng mục tiêu và ngành nghề mục tiêu là một việc làm thiết
yếu. Sự tồn tại của các ngân hàng gắn liền với sự tồn tại và phát triển của khách
hàng hay ngành nghề mà ngân hàng cấp tín dụng. Đối với những đối tượng
khách hàng mục tiêu ngân hàng cần có những nghiên cứu sâu rộng về ngành
hàng, tình hình thị trường cũng như khả năng phát triển trong tương lai.
 Những nguyên nhân khách quan.
Nhưng nguyên nhân khách quan tác động tới người vay, làm họ mất khả
năng thanh toán cho NH. Ví dụ: thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm
vĩ mô ( thay đổi chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rò thuế quan…) vượt quá
tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay.
Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay
tạo thuận lời hay khó khăn với người cho vay. Nhiều người vay với bản lĩnh của
mình có khả năng dự báo, thích ứng hoặc khắc phục những tổn thấtkhó khăn.
Trong những trường hợp khác người vay có thể tổn thất song vẫn có khả năng
trả nợ đúng hạn cho NH cả gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của nguyên nhân
bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm.
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng của NHTM.
1.2.1. Quan niệm về quản lý rủi ro tín dụng.
RRTD là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến nền hậu quả khó lường

trước. Vì vậy, mỗi NH cần phải quan tâm đên quản lý RRTD. Nhìn chung, quản
lý RRTD là toàn bộ quá trình kiểm tra, giám sát, phòng ngừa liên tục, bắt đầu từ
khâu thẩm định, đánh giá khách hàng cũng như khoản vay của khách hàng cũng
như khoản vay của khách hàng trước khi có quyết định cho vay, đến giải ngân,
theo dõi và các biện pháp xử lý, những khoản nợ có vấn đề nhằm giảm thiểu
mức độ rủi ro thể xảy ra nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tín dụng.
Hoạt động quản lý RRTD nhằm mục đích đảm bảo cho các hoạt động tín
dụng của NH không phải gánh chịu những rủi ro hoặc hạn chế những rủi ro mà
lẽ ra NH phải gánh chịu.
1.2.2. Mục tiêu quản lý RRTD.
Khi thực hiên quản lý tốt rủi ro tín dụng NH sẽ đạt được những mục tiêu
sau:
- Tăng lợi nhuận:
Khi RRTD xảy ra sẽ phát sinh các khoản nợ khó thu hồi. Ảnh hưởng
trước mắt của nó đến hoạt động NH là sự ứ đọng vốn dẫn đến làm giảm vòng
quay vốn của NH. Mặt khác, khi có quá nhiều các khoản nợ khó hoặc không thu
hồi được sẽ lại phát sinh các khoản chi phí quản lý, giám sát, thu nợ... Các chi
phí này còn cao hơn khoản thu nhập từ việc tăng lãi suất các khoản nợ quá hạn
bởi vì thực ra đây chỉ là những khoản thu nhập ảo, thực tế NH rất khó có khả
năng thu hồi đầy đủ được chúng. Bên cạnh đó, NH vẫn phải trả lãi cho các
khoản tiền huy động được trong khi một bộ phận tài sản của ngân hàng không
thu được lãi cũng như không chuyển được thành tiền để cho người khác vay và
thu lãi. Do đó khi làm tốt công tác quản lý rủi ro tín dụng ngân hàng sẽ đảm bảo
được mục tiêu tăng lợi nhuận.
-Đảm bả khả năng thanh toán
NH thường lập kế hoạch cân đối dòng tiền ra (trả lãi và gốc tiền gửi, cho
vay, đầu tư mới...) và dòng tiền vào (tiền nhận gửi, tiền thu nợ gốc và lãi cho
vay..) tại các thời điểm trong tương lai. Khi các món vay không được thanh toán
đầy đủ và đúng hạn sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền. Các khoản
tiền gửi, tiền tiết kiệm của khách hàng vẫn phải thanh toán đúng kỳ hạn trong

khi các khoản tiền vay của khách hàng lại không được hoàn trả đúng hẹn. Nếu
NH không đi vay hoặc bán các tài sản của mình thì khả năng chi trả của ngân
hàng sẽ bị suy yếu và hạn chế, NH sẽ gặp khó khăn trong khâu thanh toán.
Quản lý rủi ro tín dụng tốt ngân hàng sẽ đảm bảo được lượng tiền mặt trong
thanh toán.

×