Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNoPTNT Hà Nội đối với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.26 KB, 37 trang )

Thực trạng hoạt động tín dụng của NHNoPTNT Hà Nội đối với
khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NHNO&PTNT HÀ NỘI
1.1. Sự hình thành, phát triển, cơ cấu tổ chức của NHNo&PTNT Hà
Nội.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Hà Nội là một chi
nhánh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam,
có trụ sở chính tại số 77 phố Lạc Trung - Hai Bà Trưng - Hà Nội.
Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam ra đời theo quyết định số 56 và 59
tháng 8 năm 1988 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Sự ra đời của Ngân
hàng nông nghiệp Việt Nam theo yêu cầu cấp bách của nền kinh tế với mục
đích chủ yếu là góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế, kiềm chế
làm phát, ổn định tiền tệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và trực tiếp giải quyết
nâng cao đời sống của nông dân. NHNN&PTNT Việt Nam có vai trò là Ngân
hàng quản lý TW, có hệ thống chi nhánh rộng khắp trong cả nước từ tỉnh đến
huyện, xã gồm hơn 2500 chi nhánh.
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam hoạt động
theo mô hình Tổng công ty Nhà nước, theo quyết định số 90/TTg ngày 07
tháng 03 năm 1994 của Thủ Tướng Chính phủ, thời gian hoạt động là 99 năm ,
trụ sở tại Hà Nội , Ngân hàng có con dấu riêng và có tài khoản tiền gửi tại
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Ngoài ra, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam còn
mở tài khoản tại các Ngân hàng khác cả trong nước và ngoài nước để phục vụ
thêm cho việc giao dịch và kinh doanh. Ngân hàng có trách nhiệm bảo toàn và
phát triển vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh và có quyền tự chủ
về mặt tài chính.
Ngày 15 tháng 10 năm 1996, Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đổi tên
thành Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam theo quyết
định số 280/QĐ-NH5 do Thống đốc Ngân hàng Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Cao Sỹ Khiêm ký.
- Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt


Nam
- Tên giao dịch quốc tế: Vietnam Bank for agriculture and Rural
Development.
- Tên viết tắt: VBARD
- Trụ sở chính : Số 2 Láng Hạ - Đống Đa - Hà Nội.
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội là một trong số
hơn 2500 chi nhánh của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông
thôn Việt Nam. Nó có vai trò trong việc tạo lập nguồn vốn, đáp ứng các nhu cầu
tín dụng của các thành phần kinh tế trên địa bàn Hà Nội, cung cấp các hình
thức dịch vụ Ngân hàng... góp phần thực hiện các chương trình,mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của hệ thống Ngân hàng Thương mại Quốc doanh do
Thống đốc Ngân hàng đề ra và đồng thời góp phần vào sự phát triển kinh tế xã
hội của Thành phố Hà Nội.
- Tên giao dịch : Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà
Nội .
- Tên giao dich quốc tế: Vietnam Bank for agriculture and Rural
Development Hanoi Branch.
- Trụ sở chính : Số 77 Phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Thành phố
Hà Nội.
Ngày 26 tháng 03 năm 1998, Ngân hàng Nông thôn Hà Nội ( tiền thân
của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội ) được thành lập
theo nghị định số 55/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng, Ngân hàng có trách
nhiệm là Ngân hàng cấp II quản lý trực tiếp đối với các Ngân hàng cấp huyện
gồm 12 Ngân hàng huyện : Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì,
Ba Vì, Phúc Thọ, Hà Tây, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức, Mê Linh.
Tháng 9 năm 1991, Quốc hội Nhà nước Việt Nam có quy định tách tỉnh
và quy hoạch 7 huyện của Hà Nội về cấp tỉnh . Các Ngân hàng chi nhánh cấp
huyện trước đây trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp Hà Nội, sau khi tách tỉnh
được thiết lập và xây dựng Ngân hàng Nông nghiệp cấp tỉnh . Ngân hàng Nông
nghiệp Hà Nội giờ đây chỉ quản lý 5 huyện còn lại là: Gia Lâm, Sóc Sơn, Đông

Anh , Thanh Trì. Vai trò quản lý và địa bàn hoạt động của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội đã bị thu hẹp làm ảnh hưởng đến
nguồn vốn và đội ngũ cán bộ của Ngân hàng.
Năm 1995 Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam đã tiến hành đổi mới hoạt
động quản lý theo Ngân hàng 2 cấp nhằm giảm những thủ tục phiền hà, kém
hiệu quả và tăng quyền tự chủ, năng lực tài chính của Ngân hàng chi nhánh.
Hoạt động này được tiến hành thí nghiệm tại hai thành phố lớn là Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Từ nay các Ngân hàng cấp huyện không chịu sự quản
lý của các Ngân hàng thành phố mà chịu sự quản lý của Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hà Nội một lần nữa lại bị thu hẹp về nguồn vốn và phạm vi
hoạt động. Ngân hàng chỉ còn quản lý các chi nhánh Ngân hàng cấp IV là chi
nhánh các Ngân hàng nhỏ ở các quận nội thành như : Cầu Giấy, Đồng Xuân,
Chợ Hôm, Giảng Võ, Tây Hồ và Thanh Xuân. Các chi nhánh Ngân hàng cấp IV là
chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp. Như vậy , Ngân hàng đã chuyển hoạt động
của mình chủ yếu trên địa bàn ngoại thành sang địa bàn nội thành.
Ngày 15 tháng 10 năm 1996, Ngân hàng Nông nghiệp đổi tên thành
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam thì Ngân hàng
Nông nghiệp Hà Nội cũng được đổi tên thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hà Nội .
Cơ cấu tổ chức và các phòng ban điều hành của Ngân hàng Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn Hà Nội như sau:
♦ Ban giám đốc
- Giám đốc : Đặng Văn Mão - Phụ trách tình hình hoạt động kinh doanh của
toàn bộ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội .
- Phó Giám đốc : Nguyễn Quốc Hùng - Phụ trách lĩnh vực kinh doanh, kế
hoach , thanh toán Quốc tế.
- Phó Giám đốc : Nguyễn Thị Phồn Lan - Phụ trách lĩnh vực kế toán.
Bộ máy hoạt động kinh doanh của Ngân hàng gồm có 8 phòng ban chính
gồm: Phòng kinh doanh , kế toán, kho quỹ, kiểm soát, hành chính, thanh toán

Quốc tế, kế hoạch và phòng vi tính
♦ Phòng kinh doanh
- Quan hệ tín dụng nông thôn
- Nghiệp vụ tín dụng
- Kinh doanh dịch vụ tổng hợp
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ
- Tham mưu cho Ban Giám đốc...
♦ Phòng kế toán
- Chuyên sâu về nghiệp vụ hạch toán kinh doanh mọ mặt hoạt động của Ngân
hàng cả bằng đồng nội tệ và ngoại tệ.
- Hạch toán các nghiệp vụ kinh doanh: cho vay, tài khoản, thanh toán, chỉ
tiêu, kế toán nội bộ...
- Thông báo các khoản nợ đến hạn
- Thanh toán bù trừ liên hàng, xét duyệt các khoản Ngân hàng mới mở tài
khoản giao dịch.
♦ Phòng thanh toán Quốc tế:
- Thực hiện thanh toán quốc tế thông qua mạng SWIFT bằng tất cả các loại
tiền như: USD, DM, SGD, GBP theo yêu cầu của khách hàng.
- Mở L/C thanh toán với nước ngoàithông qua vay vốn hoặc vốn tự có
- Thanh toán thị trường (Telegraphic Transfer)
- Thanh toán nhờ thu
- Mở L/C trả chậm
- Vay vốn nước ngoài
♦ Phòng kho quỹ
Có chức năng thu, phát tiền cho khách hàng, Ngân hàng có áp dụng thu
nhận trực tiếp tại địa chỉ của khach hàng như là một loại hình dịch vụ của
Ngân hàng.
♦ Phòng kiểm soát
Là một bộ phận độc lập, tách riêng đối với Ngân hàng, các phòng kiểm
soát là người của Ngân hàng Nông nghiệp, có chức năng như thanh tra viên

trong Ngân hàng
Có quyền kiến nghị và can thiệp vào các hoạt động của Ngân hàng khi
cần thiết.
♦ Phòng hành chính nhân sự
Đây là phòng được kết hợp từ phòng hành chính pháp chế và phòng tổ
chức đào tạo cán bộ , với những nhiệm vụ sau:
- Hành chính , văn thư, tiếp tân
- Quản trị, quản lý kho tàng, vật tư, ấn chỉ...
- Pháp chế, thư ký, tổng hợp cho Giám đốc, tổ chức họp, lưu trữ hồ sơ pháp lý,
tổng hợp các báo cáo chỉ đạo
- Tổ chức cán bộ: Mô hình, quy chế và hoạt động, quy chế nhân viên, sắp xếp,
bố trí cán bộ.
- Đào tạo, chính sách, lao động tiền lương...
♦ Phòng kế hoạch
- Đề ra kế hoach tổng hợp, phân phối, điều hoà vốn.
- Thống kê, đề xuất chiến lươc kinh doanh, phân tích thông tin đề xuất huy
động vốn.
♦ Phòng vi tính
NHNo&PTNT có 08 chi nhánh Ngân hàng cấp quận trực thuộc:
1- NHNo&PTNT quận Hai Bà Trưng
2- NHNo&PTNT quận Hoàn Kiếm
3- NHNo&PTNT quận Cầu Giấy
4- NHNo&PTNT quận Ba Đình
5- NHNo&PTNT quận Tây Hồ
6- NHNo&PTNT quận Đống Đa
7- NHNo&PTNT quận Thanh Xuân
NHNo&PTNT quận khu vực Tam Trinh Các chi nhánh cấp quận (Chi
nhánh Ngân hàng cấp IV) trên địa bàn Hà Nội của Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Hà Nội về thực chất là giống như phòng giao dịch của
Ngân hàng. ở đây bao gồm một ban Giám đốc có một Giám đốc, một Phó giám

đốc kiêm kế toán trưởng và các nhân viên phụ trách vấn đề huy động vốn, cho
vay, kế toán, thủ quỹ.
Các chi nhánh cấp quận vừa kinh doanh, vừa thực hiện các mục tiêu kinh
tế xã hội, thực hiện các nghiệp vụ mà Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Hà Nội cho phép như:
- Nhận tiền gửi của dân cư, các tổ chức kinh tế.
- Cho vay đối với các tổ chức kinh tế hộ gia đình, cá nhân theo mức do Giám
đốc Chi nhánh quy định.
- Cho vay hộ nghèo thông qua nguồn vốn từ Ngân hàng người nghèo.
1.2. Các hoạt động chính của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn Hà Nội
- Hoạt động huy động vốn: Bao gồm cả huy động vốn nội tệ và ngoại tệ với
các hình thức chủ yếu là gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các tổ chức kinh
tế huy động qua bán kỳ phiếu, trái phiếu Ngân hàng . Ngoài ra Ngân hàng còn
huy động các nguồn khác như: đi vay từ các tổ chức tài chính , Ngân hàng Nhà
nước, các Ngân hàng thương mại khác, nhận vốn uỷ thác, tài trợ cho vay của
các tổ chức quốc tế...
- Hoạt động cho vay: Với mọi thành phần kinh tế, mọi loại hình doanh
nghiệp bao gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn cả bằng đồng nội tệ
và ngoại tệ...
- Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
- Hoạt động thanh toán trong nước và quốc tế
- Hoạt động bảo lãnh
Trước đây, khách hàng chủ yếu của Ngân hàng Nhà nước và Phát triển
Nông thôn Hà Nội là các đơn vị sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chế biến và
công nghiệp thực phẩm. Hiện nay trong quá trình tổ chức, phân cấp địa bàn
hoạt động kinh doanh đã làm cho tính chất nông nghiệp trong hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng bị giảm đi. Hiện nay Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn Hà Nội hoạt động như mọi Ngân hàng thương mại khác, có
khách hàng là các hộ, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong mọi ngành

nghề, lĩnh vực. Chính sự thay đổi đối tượng phục vụ này đã làm ảnh hưởng rất
lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Những ảnh hưởng do tính thời
vụ, tác động của thời tiết, tốc độ quay vòng vốn chậm, quy mô vay vốn nhỏ,... đã
giảm dần nhưng thay vào đó, Ngân hàng phải chủ động mở rộng kinh doanh
đến mọi thành phần kinh tế, mọi lĩnh vực, nghành nghề... nên cán bộ Ngân
hàng buộc phải học hỏi thêm nhiều kinh nghiệm nhằm nắm bắt được hoạt
động của nhiều nghành nghề.
Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Nội có
một lợi thế lớn là nằm trên một khu vực phát triển mạnh mẽ nhất cả nước, có
khả năng huy động và cho vay nhiều. Đóng góp của Ngân hàng đối với sự phát
triển của Ngân hàng Thành phố Hà Nội không phải là nhỏ. Đó là kết quả sự
hợp tác giữa Ngân hàng với các doanh nghiệp, các cấp chính quyền và dân cư.
Sự tăng trưởng và phát triển của Ngân hàng gắn liền với sự tăng trưởng, phát
triển của kinh tế Thành phố nói riêng và của cả nước nói chung.
2. VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHNO&PTNT
HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN QUA.
Trong những năm qua mặc dù vẫn còn chịu ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính khu vực, thiên tai lũ lụt, hạn hán tác động trực tiếp đến sản
xuất nông nghiệp, và đời sống nhân dân, sản xuất hàng hoá ở mức độ thấp và
chịu ảnh hưởng lơn của xuất nhập khẩu. Trước những khó khăn trên, Đảng và
Nhà nước đã có những quyết sách nên nền kinh tế tiếp tục phát triển ổn định
và vững chắc. Một số doanh nghiệp đã dần tự khẳng định mình trong cơ chế
thị trường, một số ngành hàng, mặt hàng đã tìm được chỗ đứng trong nước và
trên thế giới. Năm 2000, tốc độ tăng GDP đạt 6.7% trong đó sản xuất nông
nghiệp, thuỷ sản Hà nội có nhiều thành tích đáng phấn khởi, giá trị sản xuất
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản tăng 4.5% so với năm trước. Sản lượng lương thực
có hạt tăng hơn 18 000 tấn, chăn nuôi tăng trưởng khá, sản xuất tiểu thủ công
nghiệp làng nghề chuyền thống đều phát triển khá. Giá trị sản xuất công
nghiệp trên địa bàn cũng tăng 16% so với năm 99 vượt khế hoạch do thành
phố đề ra ( tăng 9.5- 10.5%) và là tốc độ tăng giá trị sản xuất cao nhất kể từ

1998 trở lại. Thương mại, du lịch và các loại dịch vụ khác đạt mức tăng trưởng
khá và tương đối vững chắc, tốc độ tăng bình quân 5 năm là 13.36% năm. Về
giá cả trong năm chỉ có vàng và ngoại tệ tăng giá còn các mặt hàng khác
tương đối ổn định, thậm chí các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho đời sống như
lương thực, thực phẩm, rau xanh, và một số mặt hàng tiêu dùng khác lại có xu
hường ổn định. Nhìn chung tình hình kinh tế thủ đô trong thời gian qua tuy
còn gặp nhiều khó khăn nhưng phát triển sôi động tạo nhiều thuận lợi cho
hoạt động Ngân hàng.
Về phía ngành Ngân hàng thống đốc NHNN đã ban hành các cơ chế,
chính sách về điều hành thị trường tiền tề, quản lý ngoại hối, công bố lãi suất
cơ bản, cơ chế tín dụng, chấn chỉnh hoạt động của NHTM, hành lang pháp lý,
cơ chế thông thoáng, linh hoạt cho các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, có thể nói
từ năm 2000, sự cạnh tranh trong thị trường tiền tề, tín dụng ngày càng trở
nên quyết liệt hơn. Trên địa bàn Hà nội có hơn 70 NHTM quốc doanh, thương
mại cổ phần, Ngân hàng nước ngoài, chi nhánh văn phòng đại diện tín dụng.
Riêng trong nội thành có tới hơn 50 Ngân hàng và chi nhánh làm cho thị
trường tiền tệ vốn đã sôi động từ các năm trước thì từ năm 2000 lại càng trở
nên phức tạp. Song dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổng giảm đốc NHNo&PTNT
Việt Nam, sự giúp đỡ của NHNN, sự hỗ trợ của các cấp Đảng uỷ chính quyền
ban ngành thành phố Hà nội cùng vời sự cố gắng của cán bộ viên chức Ngân
hàng, NHNo&PTNT Hà nội đã vượt lên khó khăn và đã thu được một số kết
quả đáng mừng trong hoạt động kinh doanh.
2.1. Công tác huy động vốn.
Để thực hiện được các hoạt động đầu tư của mình, bước đầu tiên Ngân
hàng phải tổ chức tốt công tác huy động vốn. Việc cạnh tranh, thu hut khách
hàng gửi tiền là vấn đề sống còn đối với bản thân mỗi Ngân hàng. Nắm bắt
được điều đó, NHNo&PTNT Hà nội đã tận dụng lợi thế lớn của mình là nằm
trên một khu vực phát triển mạnh mẽ nhất cả nước, có uy tín tốt với khách
hàng vì vậy có khả năng huy động vốn nhiều. Do vậy, Ngân hàng đã tập trung
và đặt quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp trên địa bàn Hà nội nhằm thu hút

nguồn tiền gửi của các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó, Ngân hàng luôn cải
tiến các hình thức huy động vốn một cách linh hoạt theo xu hướng của thị
trường, tích cực đổi mới phong cách phục vụ để khai thác có hiệu quả mọi
nguồn vốn trên địa bàn phục vụ cho các nhu cầu kinh tế. Tình hình huy động
vốn của Ngân hàng trong thời gian qua được thực hiện qua bảng sau:
Bảng2: Tình hình huy động vốn tại NHNo&PTNT Hà nội
Đơn vị: tỷ đồng
Nguồn vốn 1999 2000 2001
1. Tiền gửi TCKT
- Không kỳ hạn
- Có kỳ hạn
2. Tiền gửi dân cư
- Không kỳ hạn
- Có kỳ hạn
3. Tiền gửi và tiền vay của TCTD
1172
813
359
689
425
264
871
1036
700
306
1287
930
357
1022
1020

470
550
1781
1141
640
1454
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội)
Qua tình hình huy động vốn của NHNo&PTNT Hà nội trong thời gian
qua ta thấy nguồn vốn luôn tăng trưởng ở mức khá. Cơ cấu nguồn vốn được
cải thiện dần. Nguồn tiền gửi không kỳ hạn luôn chiếm ưu thế trong cơ cấu
nguồn vốn. Đây là nguồn vốn có lãi suất thấp, tạo cơ hội thuận lợi để hạ lãi
suất cho vay, mở rộng tín dụng, lựa chọn thu hút khách hàng mới và các khách
hàng lớn tới giao dịch. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn cũng có xu hướng tăng, như
vậy có thể giúp Ngân hàng có nguồn vốn ổn định, vững chắc tạo điều kiện cho
vay đối với các dự án lớn trung và dài hạn. Tuy nhiên, trong cơ cấu tiền gửi và
tiền vay của Ngân hàng thì nguồn tiền gửi và tiền vay của các tổ chức tín dụng
có xu hướng tăng. Điều này thể hiện mối quan hệ tốt giữa Ngân hàng với các
tổ chức tín dụng khác, đảm bảo khả năng thanh toán kịp thời. Tuy nhiên, đây
là nguồn huy động với lãi suất cao vì vậy, Ngân hàng cần xem xét để giảm tỷ
trọng của nguồn vốn này trong cơ cấu của Ngân hàng, giúp hạ lãi suất của các
nguồn huy động được.
Đánh giá chung tình hình nguồn vốn trong thời gian qua của
NHNo&PTNT Hà nội thì nguồn vốn liên tục tăng trưởng ở mức khá, năm 1999
là 2.632 tỷ VND thì đến năm 2000 là 3.345 tỷ VND, sang năm 2001 con số này
đạt 4.255 tỷ VND, tăng 27,5% so với năm 2000 và chiếm thị phần là 4,4% trong
tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng trong toàn thành phố. Ngân
hàng luôn đạt mục tiêu tăng trưởng vốn đã đề ra đầu năm. Các Ngân hàng
thực sự quan tâm đến nguồn vốn kinh doanh, sự kết hợp giữa kinh doanh tín
dụng với kinh doanh nguồn vốn và các khoản kinh doanh tổng hợp khác đã
được Ngân hàng chú trọng hơn. Trong cơ chế thị trường, nhiều NHTM đã chú ý

đến việc thu hút nguồn vốn để tạo thế và lực thì NHNo&PTNT Hà nội cũng đã
phát huy thế mạnh của mình về mạng lưới hoạt động, sự nhạy bén với thay đổi
lãi suất và tinh thần phục vụ tốt nên nguồn vốn tăng trưởng khá. Các Ngân
hàng đã biết kết hợp giữa huy động vốn ngắn hạn với huy động vốn trung và
dài hạn để bổ sung lẫn nhau giữa cân đối vốn và lãi suất. Đặc biệt, các Ngân
hàng đã thu hút được khách hàng có nguồn vồn lớn và lãi suất hợp lý điển hình
như: công ty công viên nước Hồ tây, công ty kinh doanh nước sạch Hồ tây...
2.2. Tình hình sử dụng vốn.
Một trong những hoạt động của Ngân hàng là “đi vay để cho vay”, vì vậy
song song với việc huy động vốn Ngân hàng cần thúc đẩy hoạt động đầu tư tín
dụng để những đồng vốn mình huy động được có thể bù đắp được chi phí đi
vay và thu được một phần lợi nhuận từ phần chênh lệch. Bảng sau cho biết về
tình hình sử dụng vốn của NHNo&PTNT Hà Nội trong thời gian qua.
Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn của NHNo&PTNT Hà Nội
Đơn vị: triệu đồng
Chỉ tiêu 1999 2000 2001
1. Doanh số cho vay
2. Doanh số thu nợ
3. Dư nợ
1975.850
2.001.496
957.294
3.451.052
3.111.715
1.297.134
4.040.012
3.757.000
1.572.000
4. Nợ quá hạn 23.013 40.314
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội)

Qua bảng trên ta thấy doanh số cho vay, doanh số thu nợ và dư nợ liên
tục tăng qua các năm năm sau cao hơn năm trước. Doanh số cho vay năm
1999 là: 1.975.850 triệu VND thì sang năm 2000 tăng vọt lên 3.451.052 triệu
VND, gấp 1,75 lần so với năm 1999. Doanh số cho vay năm 2001 tăng lên
4.040.012 triệu VND tăng 27% so với năm 2000. Điều đó, chứng tỏ Ngân hàng
đã kịp thời nắm bắt nhu cầu khách hàng và chủ động đáp ứng nhu cầu làm
tăng doanh số cho vay qua các năm. Doanh số thu nợ qua các năm cũng tăng
lên đáng kể, nếu trong năm 1999 doanh số thu nợ là 2.001.496 triệu VND thì
sang năm 2000 con số này là 3.111.715 triệu VND và tăng lên 3.757.000 năm
2001. Doanh số thu nợ chứng tỏ bên cạnh việc mở rộng doanh số cho vay các
thành phân kinh tế, Ngân hàng cũng chú trọng vào việc nâng cao chất lượng
và giám sát chặt chẽ các khoản cho vay, giảm thiểu tối đa rủi ro tín dụng. Cùng
với sự tăng lên của doanh số cho vay và doanh số thu nợ, dư nợ của Ngân hàng
cũng tăng liên tục. Từ con số 957.294 triệu VND đã tăng lên 1.572.000 triệu
VND vào năm 2001, tăng 275.000 triệu VND so với năm 2000 và đạt mức tăng
là 21,2% . Trong năm 2001 trong tổng dư nợ là 1.572.000 triệu VND thì có
59.000 triệu VND là dư nợ cho vay cầm cố, còn lại là dư nợ cho vay thông
thường 1.512.000 triệu VND, tăng 467.000 triệu VND so với năm 2000. Nguyên
nhân tăng là do năm 2001 NHNo&PTNT Hà nội giải ngân được hai dự án lớn,
ngoài ra còn một số dự án trung và dài hạn nhỏ. Bên cạnh, việc giữ ổn định số
khách hàng hiện có đã đưa một số doanh nghiệp về mở tài khoản và có quan
hệ tín dụng lớn như: công ty dệt Hà nội, công ty thương mại thuốc lá...
Trong năm 2001 NHNo&PTNT Hà nội cũng đã chú trọng mở rộng đầu tư
cho vay doanh nghiệp ngoài quốc doanh đặc biệt là các công ty cổ phần, công
ty TNHH, dư nợ đến 31/12/2001 là 158 tỷ VND tăng 87 tỷ VND bằng 122% so
với năm 2000. Khối HTX dư nợ là 2.9 tỷ dồng, giảm so với năm 2000. Ngyên
nhân là do các HTX trên địa bàn Hà nội không nhiều, mặt khác một số HTX tuy
đã có quan hệ tín dụng nhứng sau khi thẩm định xét thấy không khả thi nên
không đầu tư đựơc. Năm qua, Ngân hàng thực hiện “ khoán tín dụng “ đến
từng cán bộ tín dụng, mỗi cán bộ tín dụng đã năng động hơn, xác định trách

nhiệm của mình hơn do vậy đã mạnh dạn tiếp thị cho các DNTN và hộ sản
xuất. Bên cạnh đó, đơn vị cho vay chủ yếu là hộ kinh doanh cá thể, tư thương
buôn bán, nhu cầu kinh doanh đa dạng, phong phú, nhu cầu vốn cần nhiều nên
dư nợ hộ sản xuất năm qua là 49 tỷ tăng 26,7 tỷ so với năm 2000. Để tăng dư
nợ cho vay, năm 2001 Ngân hàng cũng đã triển khai cho vay tiêu dùng đến tận
những doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả và cho vay cầm cố giấy tờ có giá
nên dư nợ ở hai khu vực này cũng tăng khá so với năm trước.
Từ khi thực hiện cơ chế đổi mới đến nay, NHNo&PTNT Hà nội đã mở
rộng phạm vi kinh doanh của mình sang nhiều lĩnh vực. Bên cạnh khách hàng
truyền thống trong lĩnh vực nông nghiệp và lương thực như: Tổng công ty
lương thực miền Bắc, công ty lương thực Vĩnh Hà, công ty lương thực Lương
Yên, Tổng công ty vật tư nông nghiệp, Ngân hàng còn có nhiều khách hàng lớn
trong lĩnh vực xây dựng và sản xuất vật liệu xây dựng, công nghiệp. Các khách
hàng có quan hệ tốt với Ngân hàng là công ty Xây lắp vật tư xây dựng 7, Công
ty XLVTXD5, công ty gạch ốp lát Hà nội, công ty XD&PTNT, Tổng công ty da
giầy, nhà máy thuốc lá Thăng Long, công ty bia Hà Nội...
Bảng 4: Lãi suất kinh doanh nội tệ
Đơn vị: %
Lãi suất 2000 2001
1. Đầu vào 0,44 0,484
2. Đầu ra 0,63 0,616
3. Chênh lệch = (2)-(1) 0,19 0,132
4.Tăng, giảm -0,058
(Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh NHNo&PTNT Hà Nội)
Năm 2001, mặc dù bị cạnh tranh gay gắt nhất là về lãi suất huy động
vốn và cho vay nhưng do tận thu lãi tốt nên lãi suất cho vay thực thu tuy thấp
hơn năm 2000 nhưng không lớn và hầu hết các Ngân hàng có chênh lệch lãi
suất dương mặc dù có Ngân hàng trả lãi trước. Chênh lệch lãi suất năm 2001
thấp hơn năm 2000 là tất yếu vì xu hướng chênh lệch lãi suất ngày càng bị thu
hẹp do các Ngân hàng nên lãi suất đầu vào lớn.

2.3. Hoạt động kinh doanh đối ngoại.
Hoạt động kinh doanh đối ngoại là một mặt hoạt động nghiệp vụ rất
quan trọng có liên quan đến phát triển kinh tế của đất nước cũng như của
từng doanh nghiệp có liên quan đến xuất nhập khẩu. Năm 2001, NHNo&PTNT
Hà nội đã tiếp tục tích cực mở rộng với quan hệ với các Ngân hàng nước
ngoài. Nếu những năm trước NHNo&PTNT Hà nội đã làm tốt công tác thanh
toán quốc tế thì năm 2001 công tác này được chú trọng hơn và kết quả hoạt
động kinh doanh đối ngoại đã có chuyển biến tích cực là:
♦ Về xuất khẩu:
- Đã gửi chứng từ đòi tiền 110 món, trị giá 2,7 triệu USD, tăng 20% so với
năm 2000.
- Đã thu tiền 104 món trị giá 2,4 triệu USD, tăng 12 % so với năm 2000
♦ Về nhập khẩu:
- Đã mở được 743 L/C nhập khẩu, trị giá 104 triệu USD, tăng 33% so với
năm 2000.
- Đã thanh toán 736 L/C với số tiền 108 triệu USD, tăng 18% so với năm
2000.
- Thanh toán trả trước được 904 món với số tiền 26,3 triệu USD, tăng 55%.
- Thanh toán nhờ thu 201 món, trị giá 5,3 triệu USD tăng 2,3 triệu USD so với
năm 2000.
Năm 2001, tỷ giá giữa USD và VND không ngừng tăng trong khi giá xuất
khẩu của nhiều mặt hàng giảm mạnh như cà phê, gạo và các hàng nông sản
khác làm cho xuất khẩu chậm, đồng thời gây tâm lý cho nhiều doanh nghiệp
không muốn bán ngoại tệ cho ngân hàng làm cho ngoại tệ vốn khan hiếm từ
năm 2000 sang năm 2001 càng trở nên khó khăn hơn. Thấu hiểu khó khăn của
doanh nghiệp cũng là khó khăn của Ngân hàng nhất là trong quan hệ quốc tế,
nên NHNo&PTNT Hà nội đã tìm nhiều giải pháp kể cả phải chấp nhận mua kỳ
hạn và cung ứng cho nhiều doanh nghiệp với giá giao ngay và chấp nhận lỗ về
tỷ giá để đảm bảo cung ứng đủ lượng ngoại tệ cần thiết cho doanh nghiệp,
cùng với sự hỗ trợ tích cực của NHNN Việt Nanm và NHNo&PTNT Việt Nam đã

bán cho NHNo&PTNT Hà nội 46,2 triệu USD để thanh toán nhập khẩu phân
bón nên phần lớn nhu cầu về ngoại tệ trong năm đều được đáp ứng tương đối
kịp thời và đầy đủ, không để xảy ra tình trạng thanh toán chậm mà ngược lại
NHNo&PTNT Hà nội còn được nhiều Ngân hàng nước ngoài tín nhiệm vì đã
làm tốt công tác thanh toán quốc tế và nhờ vậy một số doanh nghiệp kể cả một
số tổng công ty 90-91 đã thực hiện thanh toán với nước ngoài qua
NHNo&PTNT Hà nội
2.4. Tài chính thanh toán và ngân quỹ.
♦ Về công tác thanh toán: với nguồn vốn lớn nên công tác thanh toán của
NHNo&PTNT Hà nội năm 2001 càng trở nên phức tạp và khẩn trương hơn các
năm trước, tuy vậy NHNo&PTNT Hà nội đã tổ chức tốt công tác thanh toán
vốn cho các doanh nghiệp nhất là các quỹ hỗ trợ, kho bạc Nhà nước, Tổng công
ty Bảo hiểm Việt Nam, Bảo hiểm y tế và các Tổng công ty 90 – 91.
Năm 2001 đã chuyển tiền điện tử 10.542 món với 12.011 tỷ đồng, tăng 7
lần doanh số thanh toán năm 2000 mà không để xẩy ra sai sót, nhầm lẫn cho
khách hàng.
♦ Ngân quỹ: với mạng lưới gồm 8 chi nhánh trực thuộc và 20 phòng giao
dịch tuy thiếu về phương tiện điều chuyển nhưng NHNo&PTNT Hà nội đã tổ
chức tốt công tác Ngân quỹ nên vừa mở rộng được diện thu tiền mặt tại chỗ
cho một số doanh nghiệp vừa cung ứng kịp thời chính xác các nhu cầu thu chi
của khách hàng nhất là chi xã hội cho các chi nhánh kho bạc, các trường Đại
học....
Năm 2001 thu 4.617 tỷ tiền mặt, 338 tỷ Ngân phiếu thanh toán tăng
58% so với năm 2000; chi 4579 tỷ tiền mặt 340 tỷ Ngân phiếu thanh toán tăng
57% so với năm 2000.
Trong quá trình thu chi tiền mặt, NHNo&PTNT Hà nội luôn chấp hành
nghiêm túc các quy trình ra vào kho, điều chuyển tiền, kiểm tra, kiểm kê tiền
mặt và giấy tờ có giá của NHNN và NHNo&PTNT Việt Nam nên luôn đảm bảo
an toàn tiền trong kho, trong quá trình điều chuyển, không xảy ra tình trạng
tham ô lợi dụng quỹ công.

×